WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Một thoáng Pleiku

Pleiku xưa. Ảnh www.thaiduong530.com

Pleiku xưa. Ảnh www.thaiduong530.com

Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa -thực sự vĩnh viễn xa- Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.

Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.

Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiêt) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt – Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.

Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lênh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư Lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.

Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân Cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân Cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.

Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.

Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.

Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.

Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân , để “may mà có em đời con dễ thương !”

Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13.3.75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.

Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề..mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)

Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ – nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.

Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng;

Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….
Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.

Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê … những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả -có lẽ cũng như tôi- chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.

Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó″:

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền

Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!

Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.
Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.

Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku.

© Phạm Tín An Ninh

41 Phản hồi cho “Một thoáng Pleiku”

  1. 30/4 says:

    Xúc cảm 30 tháng 4 năm 1975 đưa ta lật ngược trang sử thấm đẫm bi thương và nước mắt. Những những tháng năm gắn liền với những cuộc chiến và bóng ma của cuộc chiến tranh vẫn còn đó. Đó là vấn đề mâu thuẫn với các quốc gia láng giềng, là vấn đề ngoại giao với Hoa Kỳ và đồng minh của họ, giải quyết vấn đề nạn nhân chiến tranh chất da cam (Dioxin), người bị thương vì bom đạn, bom đạn sót lại sau chiến tranh. Và còn nhiều nữa khó có thể diễn tả chỉ với vài dòng mở đầu. Và cũng khó có thể ghi hết lại được những sự kiện, những nỗi đâu còn đó mang hình hài hậu chiến tranh.

  2. Hồ Sinh Từ says:

    Mùa hè 1972, Sư 320 ( mang danh Sư Đoàn Thép) bị đánh tan tác gần như phái xóa sổ. Cả 3 Sư Đoàn và nhiều đơn vị tăng cường mà vẫn không chiếm được Kontum . Tướng Hoàng Minh Thảo, tư lệnh MT B3/ Tây Nguyên bị cách chức. Thật tội nghiệp cho hàng vạn thanh niên miến Bắc, bị ép buộc (và cả ngu muội) nghe theo lời Đảng “sinh Bắc tử Nam” đã chôn thây trên rừng núi Tây Nguyên. Đau đớn tủi nhục hơn, sự “hy sinh lầm lỡ” đó cuối cùng chỉ để tạo nên một nhóm chóp bu CS, ngồi trên đầu trên cổ nhân dân,làm giàu trên xương máu và nước mắt của chiến sĩ, hèn với giặc mà ác với dân. Các lãnh tụ “tư bản đỏ” tha hồ chiếm đất, cướp tài sản của quốc gia, bán nước bán đảo cho Tàu để được vinh thân. Bao nhiêu chiến sĩ từng “đi B” năm nào, giờ chỉ còn đau đớn, uất hận nhìn đám chóp bu cùng con cháu ăn chơi, phung phí trên đất nước không còn chiến tranh mà đầy những tai ương, đĩ điếm, xã hội băng hoai đến mức thê lương không thể nào cứu chữa!
    Đoàn Văn Vượn cũng lá “chiến sĩ phục viên” đấy, vừa bị cướp sạch đất , vừa bị tù 5 năm !
    Một quân đội chỉ biết cuối đầu mê muội phục vụ cho Đảng , quay mặt lại với Nhân Dân, một đám cầm quyền dốt nát, tham ô thối nát và hèn mạt nhất trong lịch sử dân tộc, nhất định không thể tồn tại lâu dài, khi lòng dân đã đầy ắp những căm thù!

  3. YoniTrinh says:

    Ko bít kwán kầytơ
    Dưới chưn đồi đứt mẹ
    Nay còn đó ko he???!!!

  4. DâM TiêN says:

    Đại DâM TiêN buồn quá đi thôi khi xa tỉnh nhỏ Pò Lây Ku, nơi
    máu đào đã thấm, lệ đã tràn, và vòng tay chưa mỏi mệt.. hà hà
    Xa PLK, lại lang thang mấy vùng chiến thuật, về dưỡng sức trai
    nơi KBC 4100 — bốn ngàn một đêm–săn sóc Khóa 18… THƠ:

    RỜI VÙNG CAO

    Đi từng bậc xuống, bồi hồi
    Trong men giã biệt, xa rời từ đây
    Trời xanh nhẹ vẫy khăn mây
    Núi nằm dim ngủ giang tay níu vời

    Cho ta đi nhé, đi thôi
    Biển Hồ chứa lệ những người xa nhau
    Này im, nghe, suối xôn xao
    Đành lòng dưới bóng cây cao êm đềm
    Xin đừng rộn rã lời chim
    Đời du sinh mỏi cánh tìm phương bay

    Ta bàn giao lại hôm nay
    Hai mùa mưa, nắng, xin thay ta cùng
    Đất ơi, đất mãi son hồng
    Hào quang ơi, mãi ôm vòng Chư Pao
    Đi theo niềm nhớ, bàn giao
    Những vùng hoang thảo hãy vào đặt tên
    Và cho nhau mới thân quen
    Hãy hoàn thành những mối duyên hẹn chờ

    Cho ta đi, khỏi buồn lo
    Ngoài trường giang sóng đang hò thuyền xuôi
    Đường xa thấm mặn mồ hôi
    Bàn giao chút nữa quên thôi: Thơ này!

    Ta đi tiếp nhận gió mây.

    ( Khi Xa Pleiku) — YY

    • Mai 7 Bó says:

      Lả lướt!

    • Lão Ngoan Đồng says:

      Chào anh lính “Cộng Trừ”
      của những ngày oanh liệt cũ :-) !

      Xưa & nay, tui đã nhiều lần:

      - cười khi đọc thơ Bút Tre:

      Anh đi công tác Plờ-Lây-
      Ku dài dằng dặc biết này ngày ra !

      - thổn thức khi nghe Thái Thanh hát bài này về Pleiku:

      http://www.youtube.com/watch?v=io6k4UhcUVo

      Còn chút gì để nhớ

      Sáng tác: Phạm Duy
      Trình bày: Ý Lan

      Thơ: Vũ Hữu Định

      Phố núi cao phố núi đầy sương
      Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
      Anh khách lạ đi lên đi xuống
      May mà có em đời còn dễ thương

      Em Pleiku má đỏ môi hồng
      Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
      Nên tóc em ướt và mắt em ướt
      Nên em mềm như mây chiều trong

      Phố núi cao phố núi trời gần
      Phố xá không xa nên phố tình thân
      Đi dăm phút đã về chốn cũ
      Một buổi chiều nào lòng vẫn bâng khuâng

      Xin cảm ơn thành phố có em
      Xin cảm ơn một mái tóc mềm
      Mai xa lắc trên đồn biên giới
      Còn một chút gì để nhớ để quên

      wikipedia:
      Vũ Hữu Định (1942-1981), tên thật Lê Quang Trung, là một nhà thơ người Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với bài thơ Còn chút gì để nhớ, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc cùng tên

      Tiểu sử

      Lê Quang Trung sinh năm 1942 tại Thừa Thiên – Huế trong 1 gia đình nghèo. Ông từng sống qua nhiều nơi ở Tây Nguyên, Sài Gòn, lập gia đình và định cư ở Đà Nẵng. Ông làm thơ đăng báo từ khoảng thập niên 1960, với bút danh Hàn Phong Lệ, về sau đổi thành Vũ Hữu Định. Tên Vũ Hữu Định bắt đầu phổ biến từ khi bài thơ Còn chút gì để nhớ của ông được Phạm Duy đem phổ thành nhạc vào năm 1970.

      Vũ Hữu Định vào đời sớm, lập gia đình sớm và nghèo nàn trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình. Ngoài làm thơ, ông từng làm cán bộ xây dựng nông thôn ở Đà Nẵng. Ông từng trốn quân dịch nhưng rồi bị bắt lại.

      Sau biến cố 1975, ông ở lại Việt Nam và bị đưa đi học tập cải tạo 1 tháng.

      Ông được biết đến là một người mê rượu, tuy nghèo khó nhưng có máu giang hồ, tính tình phóng khoáng. Ngày 3 tháng 4 năm 1981, sau 1 chầu nhậu với bạn bè, ông bị té cầu thang (có thông tin cho rằng bị té lầu) và qua đời, hưởng thọ 40 tuổi.
      Bài thơ Còn chút gì để nhớ

      Thường đi kèm với tên tuổi của Vũ Hữu Định, là bài thơ Còn chút gì để nhớ. Tác phẩm gồm 4 khổ, mỗi khổ 4 câu, mỗi câu từ 7-8 chữ, mang theo những hình ảnh nhẹ nhàng, tế nhị của của phố núi Pleiku, từ cảnh vật:

      phố núi cao, phố núi đầy sương
      phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
      anh khách lạ đi lên đi xuống
      may mà có em đời còn dễ thương

      Tới con người:

      em Pleiku má đỏ môi hồng
      ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
      nên mắt em ướt và tóc em ướt
      nên em hiền như mây chiều trong

      Bài này được viết năm 1970, khi nhà thơ sang thăm 1 người bạn gái ở Pleiku. Cùng năm này, bài thơ được đăng báo Khởi Hành của Viên Linh và được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc, rồi trở nên phổ biến với giọng hát Thái Thanh. Ca khúc được phổ theo nhịp 3/4, điệu Boston, lời thơ vẫn giữ nguyên với khổ thơ cuối được nâng lên thành cao trào.

      Sau này nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, bạn thân của ông, cũng có 1 tiểu thuyết lấy tên Còn chút gì để nhớ.

    • Lão Ngoan Đồng says:

      Bài này
      sáo mòn
      mất hay.
      Đáng tiếc !

      Lão Ngoan

  5. Nói với Vũ binh Giang says:

    Chẳng phải 2 miền Nam Bắc là con chốt cho Tư Bản, Cộng sản mà miến Nam tự vệ bảo vệ cuộc sống tự do độc lập chống bọn chết đói CSBV vào cướp miền nam
    NHN

  6. DâM TiêN says:

    DâM tui cũng lưu đồn nơi Pờ lây Ku, sương mù, Catéka, Hàm Rồng,
    Toumorong,Chư Pao, Biển Hồ, Thanh Bình…một thời ấy a… Có yêu
    có nhớ lắm kìa. Rồi hết Cần Thơ, Nha Trang, dìa KBC 4100, coi 4/18…
    Có thơ để nhớ PLK, góp nhời tí ti cùng Phạm Tín Anh Ninh:

    BÀI THƠ TỈNH NHỎ

    Phố hẹp đường vòng dan díu nhau;
    Hàng cây trong gió bấc nghiêng đầu
    Bước đi chào bước về thân mật
    Tỉnh nhỏ thời gian chẳng đổi màu

    Khoác áo bốn mùa tôi đến đây
    Tình cờ tôi được chuốc men say
    Bốn phương trước lạ sau quen đó
    Góp lại niềm vui tỏa ứ đầy

    Thiếu nữ xem duyên trước kính đài
    Có mua rây nhẹ làm run vai.
    Nắng lên! cho bụi hồng thoa phấn
    Cho áo người con của dặm dài

    Ta yêu tỉnh nhỏ, chim yêu rừng
    Cửa sổ đêm mờ còn mở tung
    Phố xá làu tên tình quyến luyến
    Mời ta giang rộng đón tay vòng

    Mái ngói chạy dài ghé sát nhau
    Cao nguyên luôn ướp đậm hương màu
    Đèn vừa đủ sáng cho thư đọc
    Đủ sáng cho hồn không đêm thâu

    Bao số nhà ghi chiều chẵn, lẻ
    Bấy nhiêu tâm sự gởi cho em,
    Hỡi người thanh nữ bên thành nhỏ
    Có cảnh đẹp nào không trái tim?

    Tôi sợ thời gian gây nhớ nhung
    Muốn yêu Hiện tại đến vô cùng.
    Cố ghi âm lấy lời thầm ước,
    Thu cả hương yêu tận đáy lòng.

    (Quà tặng Quê Hương)– YY

    • Lão Ngoan Đồng says:

      Tớ phải công nhận,
      YY làm bài này có hồn :-) !

      Xin mua đứt bản quyền

      bốn câu đầu:

      “Phố hẹp đường vòng dan díu nhau;
      Hàng cây trong gió bấc nghiêng đầu
      Bước đi chào bước về thân mật
      Tỉnh nhỏ thời gian chẳng đổi màu”

      ["hẹp đường vòng dan díu"
      thiệt ... tình ui là tình :-) !
      Phải nói là ... quá đã :-)]

      & bốn câu cuối:

      “Tôi sợ thời gian gây nhớ nhung
      Muốn yêu Hiện tại đến vô cùng.
      Cố ghi âm lấy lời thầm ước,
      Thu cả hương yêu tận đáy lòng”.

      [Thiền hết mức ...
      khi chỉ yêu hiện tại !
      hương yêu thay cho thương yêu;
      dụng ngôn chọn chữ thật tuyệt vời :-) !!!]

      Lão Ngoan

    • Lâm Vũ says:

      Tôi sợ thời gian gây nhớ nhung
      Muốn yêu Hiện tại đến vô cùng.
      Cố ghi âm lấy lời thầm ước,
      Thu cả hương yêu tận đáy lòng.

      Bài thơ quá hay, quá thực. Đặc biệt bốn câu chót gây nơi tôi một xúc động lớn, diễn tả đúng tâm trạng của tôi trong giờ chút chia tay người yêu để đi về miền xa thẳm. Cám ơn nhà thơ Ý Yên.

  7. Vũ Bình Giang says:

    Cám ơn tác giả, cho biết sự thực và cảm xúc con người về Tây Nguyên.

    Tôi thấy, cuộc chiến vô nghĩa. Người Việt nam, cả bắc và nam, chỉ là con tốt đen cho hai phe. Tất cả, cũng chỉ vì sự dốt nát của các nhà chính trị hai miền. Kiêu hùng làm chi ?

    Chú ruột tôi, trung doàn trưởng công binh trung đoàn độc lậo, trực thuộc đoàn 559, lính miền bắc. Sau khi học trung cấp giao thống vào đầu năm 1960, đi vào nam ngay. Sau khi thống nhất vài năm, đang là đại tá, tư lệnh phó, bô tư lệnh công bình, 52 tuổi, xin về hưu. Sinh thêm 2-3 đứa con ở quê, vui với gia đình. Nói đến chiến tranh, chú không muốn nhắc lại.

    Anh họ tôi: Ngô văn Th, vốn là kỹ sư điện tử ở Pháp về Sài gòn năm 1973, là trung tá kỹ thuật ở sân bay Tân Sơn nhất, sau thống nhất, đi tù.

    • DâM TiêN says:

      Thưa Vũ Bình Giang: các lãnh tụ Xanh và Đỏ hai miền
      Nam Bắc chẳng dốt gì đâu. VN hai miền không thể nào
      thoát khỏi gọng kìm từ hai phía xanh đỏ đó thôi. Thế chiến
      quốc, thế tam quốc Nga-Mỹ-Tàu mà. Than rằng :

      Một dân tộc, hai hàng bia đỡ đạn;
      Một quê hương, hai thân phận chư hầu.
      Tôi chợt thấy thưng Thù và yêu Bạn:
      Chúng ta đều bình đẳng trước thương đau.

      (YY. Tiếng vọng ngàn thương).

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Riêng tặng YY
        lính viễn du khắp
        chốn quê hương
        & con chiên Chúa !

        Niềm Tin

        Thơ Nhất Tuấn

        Nhạc Anh Linh

        http://www.youtube.com/watch?v=UG1AkunPzAs

        Lại một Noel nữa
        Mấy mùa giáng sinh rồi
        Anh ở đồn biên giới
        Thương về một khung trời
        Chắc Đà Lạt vui lắm
        Mimosa mimosa nở vàng
        Anh đào khoe sắc thắm
        Hương ngào ngạt không gian
        Mấy mùa giáng sinh trước
        Chỗ hẹn anh chờ hoài
        Lần này không về được
        Hồi hộp đợi tin anh
        Em biết chăng đời lính
        Nắng sớm với sương chiều
        Gió rừng rồi mưa lũ
        Đã làm anh vui nhiều
        Cùng cầu cho thế giới
        Cho nhân loại hoà bình
        Cho đôi ta gặp lại
        Trong một mùa giáng sinh.

      • Lão Ngoan Đồng says:

        Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp.
        Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng
        (…)
        Nếu một mai bỗng đổi dời phen nữa
        Ông anh hùng ông cứu được quê hương
        Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
        Lùa cả nước vào học tập yêu thương
        (Cao Tần)

    • Dao Cong Khai says:

      Nếu nghĩ như Võ Bình Giang thì có lẽ nhiều người chả muốn vào mấy trang web tiếng VN đọc làm chi nữa, kiêu hùng chi, kiêu hãnh gì mà vào những trang tiếng Việt này… Ai cũng có cái đúng của riêng mình. Nhưng nếu nhắc lại VN thì có gì đáng nhắc tới ngoài những kỷ niệm khi chưa sống dưới chế độ VC? Đó là những ngày chiến tranh và có những người bắt buộc phải nhập cuộc trong chiến tranh đó.

      You tưởng người ta thích đi lính lắm sao. Thanh niên miền Nam đâu có mấy ai tình nguyện vào lính. Có những đơn vị chỉ toàn lính “tình nguyện” nhưng thực chất hầu hết họ là những thanh niên tới tuổi quân dịch, “tình nguyện” xin vào những đơn vị đó vì đàng nào họ cũng phải đi lính. Tuy nhiên khi vào lính người ta cũng chấp nhận cái lý tưởng chung của những người lính chống cộng diệt cộng là để bảo vệ an vui cho xã hội mình phía sau lưng.

      Nếu ông chú ruột của you, có thái độ triết lý sau cuộc chiến như vây, ông ta không đi lính thì những người bên đây cũng đâu đến nỗi phải đi lính. You đặt chúng tôi vào hoàn cảnh không có quyền lựa chọn nào khác hơn là nếu không bắn thì mình sẽ bị bắn. Nếu những người như ông chú ruột you đều bị bắn thì chắc chắn chúng tôi sẽ hạnh phúc hơn. Chính ông ta chắc cũng tự hiểu như vậy.

      Ai muốn nhắc lại chuyện ngày xưa nữa, nhưng nếu nhắc lại VN thì có gì đáng nói hơn là những ngày khói lửa chiến tranh nhưng cố hương còn chút đáng yêu hơn ở chỗ đó. Không thì ta chỉ nên nhắc chuyện về VN kiếm gái, đề tài này mới đáng chú ý.

  8. Lê duc Thông says:

    anh Ninh, nho lam Pleiku. Do Be con song chu anh. Thong

    • Khánh 1/44 says:

      Anh Thông,
      Đỗ Bê tử trận vài tháng sau khi làm TĐT.1/44..Chắc lúc ấy anh Thông đã rời Kontum.(Hay là anh nhầm Mai Xuân Bê còn sống và đang ở Cali)

  9. Nguyễn Tấn Trung says:

    Cảm ơn tác giả đã cho đọc giả một bức tranh hiện thực vừa lãng mạnh vừa bi hung của những năm tháng sắp kết thúc của cuộc chiến bi thảm của dân tộc chúng ta.

  10. MDZ says:

    Chú ruột tôi cũng đã nằm lại ở phố núi cao đi dăm phút đã về chố cũ ngày 26 tháng 3 năm 1971.Đại úy Lê Văn Thành (33 tuổi) để lại vợ và hai con rưỡi.Ngày tất niên đi phát lương cho lính và dính mìn vc,tử thương cùng với tài xế.Cùng với anh PTAN tưởng nhớ những người con,người lính trẻ của Quân Đội VNCH kiêu hùng đã bỏ mình bảo vệ Miền Nam,bảo vệ lý tưởng tự do cao đẹp.

Phản hồi