WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (2) – Chiến trận

Tiếp theo phần 1

1.-   kế hoạch hành quân 

Về phía quân Thanh (thế thủ):  Đoàn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị dẫn đầu đến Thăng Long ngày 20 tháng 11 năm mậu thân (1788).  Sau khi phong vương cho Lê Chiêu Thống (19-12-1788), Tôn Sĩ Nghị sắp đặt việc đóng quân quanh thành, từ Thăng Long đến Hà Hồi (huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, Hà Đông), lập đồn trại cách khoảng từ đồn nọ đến đồn kia, đặt súng đại pháo, và chôn địa lôi bên ngoài.  Ngoài ra, họ Tôn lập thêm ba căn cứ bảo vệ Thăng Long ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết (huyện Thanh Liêm, Hà Nam), ở làng Nhật Tảo huyện Duy Tiên (Hà Nam) và ở Ngọc Hồi thuộc huyện Thanh Trì (Hà Đông).

Trong khi đó, đoàn quân Vân Nam do Ô Đại Kinh lãnh đạo đóng về phía tây bắc Thăng Long, hướng Phú Thọ, Sơn Tây.  Khi được tin đồn Ngọc Hồi thất thủ, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy, thì đoàn quân nầy vội vàng rút lui và  trở về Vân Nam an toàn.

Như thế, sau khi tạm chiếm Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị chỉ mới lo việc phòng thủ các vùng chiếm đóng, chủ yếu là Thăng Long và các khu vực phụ cận, chứ chưa nghĩ đến việc tiếp tục thế công, tiến xuống phía nam tiêu diệt nhà Tây Sơn.

Vua Chiêu Thống và quần thần nhà Lê nóng lòng mở cuộc phản công đánh Tây Sơn, nhưng Tôn Sĩ Nghị vẫn chậm rãi vì lúc đó sắp đến lễ Tết nguyên đán âm lịch cổ truyền của người Việt và người Hoa.  Lý do chính được các tài liệu mô tả là họ Tôn và quân Thanh ham hưởng thụ, trác táng và say sưa trong những ngày đầu chiếm đóng (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, tập san Sử Địa 9-10, tr. 221),  nhất là khi nhận được thư trá hàng của vua Quang Trung.  “Lời lẽ trong thư rất nhũn nhặn, khiêm tốn” viết từ Thọ Hạc (Thanh Hoa) (Cương mục, bd. tập 2, sđd. tr. 845) khi nhà vua tạm đóng quân ở đó khoảng đầu tháng 12 âm lịch.

Đặc biệt hơn nữa là khi vua Quang Trung đến Hà Hồi, thì có một viên tướng Thanh tên là Đô Khou Coung đến yêu cầu vua Quang Trung chọn một trong hai điều kiện: hoặc ra quy hàng, hoặc sửa soạn giao chiến vào ngày mồng 6 tháng giêng năm mậu thân (31-1-1789). (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, tập san Sử Địa 9-10, tt. 223-224.)

Ngoài ra, tại Thăng Long quân Thanh công khai kêu gọi dân chúng ở kinh thành đến mục kích tại chỗ trận chiến sắp xảy ra mà quân Thanh tin tưởng sẽ bắt được toàn bộ quân Tây Sơn. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Sử Địa 9-10, tt. 223-224.)  Đáp lại, vua Quang Trung lặng lẽ gấp rút hành động, khiến quân Thanh không kịp trở tay.

b)  về phía lực lượng Tây Sơn (thế công):  Chiến thuật hành quân sở trường của vua Quang Trung là tấn công bất ngờ và thần tốc.  Do đó, ngay sau lễ đăng quang và duyệt binh ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), nhà vua tức tốc dẫn quân bắc tiến.

Di chuyển trong bốn ngày, lực lượng Tây Sơn dừng lại tại Nghệ An ngày 29 tháng 11 (âm lịch).  Tại đây, vua Quang Trung mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đến hội kiến.  Nguyễn Thiếp  (1723-1804) là một nhân sĩ nổi tiếng, người làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn, xứ Nghệ An.  Trong cuộc gặp gỡ, nhà vua bàn luận với Nguyễn Thiếp kế hoạch hành quân.  Nguyễn Thiếp nói: “Người Thanh ở xa tới, mệt nhọc, không biết tình hình khó dễ thế nào, thế nên chiến thủ thế nào.  Và nó có bụng khinh địch.  Nếu đánh gấp đi thì không ngoài 10 ngày sẽ phá tan.  Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó.”  (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr 1052.)

Lời bàn của Nguyễn Thiếp rất hợp ý với vua Quang Trung.  Lo việc tuyển quân mười ngày ở Nghệ An và Thanh Hoa, vua Quang Trung lại tiếp tục dẫn quân ra đi ngày mồng 10 tháng chạp (5-1-1789).  Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), nhà vua đến Tam Điệp.  Nơi đây, lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà do đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy đang đợi nhà vua.  Ở lại Nghệ An và Thanh Hoa mười ngày, nghỉ ngơi tại Tam Điệp cũng mười ngày, vua Quang Trung lại mở cuộc tấn công ào ạt gấp rút trong sáu ngày sau đó để thanh toán chiến trường, chứng tỏ chắc chắn vua Quang Trung đã được tin tình báo từ Thăng Long cho biết cáo thị của quân Thanh về việc động binh xuất hành năm mới vào ngày mồng 6 Tết.

Nhà vua đưa ra kế hoạch tấn công như sau:  Thứ nhất, đại tư mã Ngô Văn Sở và nội hầu Phan Văn Lân làm tiên phong.  Thứ hai, đô đốc Lộc và đô đốc Tuyết cầm thuỷ binh vượt biển, đi vòng lên phía bắc, vào sông Lục Đầu, đô đốc Tuyết ở lại Hải Dương, để tiếp ứng, đô đốc Lộc tiến thẳng lên phiá bắc, tới Yên Thế để chận đường rút lui của quân Thanh.  Sông Lục đầu là khúc sông Thái Bình, giáp giới Bắc Ninh và Hải Dương, là nơi tập trung 3 sông Nguyệt Đức (Đuống), Nhật Đức (Thương) và sông Cầu.  Thứ ba, đô đốc Bảo và đô đốc Mưu (có sách chép là Long) lãnh tượng binh và kỵ binh đi đường bộ, vượt núi, tấn công các mục tiêu từ Hà Đông đến Thăng Long.  Thứ tư Hô Hổ Hầu (không biết họ tên) chỉ huy hậu quân, lo việc đốc chiến.  Thứ năm vua Quang Trung chỉ huy trung quân nhắm thẳng Thăng Long trực chỉ.  Kế hoạch hành quân của vua Quang Trung chứng tả nhà vua rất am tường địa hình đất Bắc lúc đó.

2.-   Diễn tiến chiến cuộc 

Trận Sơn Nam:  Ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân, tuyên bố ăn Tết trước khi lên đường, hẹn ngày mồng 7 năm mới, sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc mừng chiến thắng.  (HLNTC hồi thứ 14, bd. tập 2, sđd. tr. 182.)

Tối hôm đó (30 Tết), quân Tây Sơn vượt sông Giản (Giản Thủy) ở Ninh Bình.  Đến Sơn Nam, trấn thủ Hoàng Phùng Nghĩa (có sách chép Lê Phùng Nghĩa), tướng của vua Lê Chiêu Thống, bỏ chạy.  Các toán thám tử của quân Thanh đều bị quân Tây Sơn chận bắt giết sạch, nên tin tức không lọt về Thăng Long. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 143.)

Trận Hạ Hồi:  Vua Quang Trung thúc quân tiếp đến Hà Đông.  Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (28-1-1789), nhà vua cho quân vây kín đồn Hà Hồi (huyện Thường Phúc, Hà Đông), rồi ra lệnh các tướng đặt loa hô lớn; quân sĩ đồng thanh đáp ứng vang trời, làm cho quân trong thành nghe lớn tiếng, sợ hãi xin hàng.

Trận Ngọc Hồi:  Sau Hà Hồi, lực lượng Tây Sơn đến Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì) sáng sớm mồng 5 Tết (30-1-1789).  Đây là phòng tuyến chính của quân Thanh để bảo vệ Thăng Long.  Vua Quang Trung biết quân Thanh phòng thủ ở đây khá kiên cố, trên thành có đại bác và chung quanh thành có địa lôi (mìn = landmine) bảo vệ.

Nhà vua sắp đặt cách tấn công như sau: Đi đầu là tượng binh gồm 100 thớt voi to khỏe (theo Cao Tông thực lục), trong đó có một số voi trang bị súng thần công (theo Thánh vũ ký), vừa bộ chiến tấn công, vừa phá thế trận địa lôi bao quanh thành Ngọc Hồi, vừa dùng súng phá thành.  Sau tượng binh là toán cảm tử xung phong.

Theo Hoàng Lê nhất thống chí, vua Quang Trung cho lấy 60 tấm ván, ghép ba tấm thành một bức lớn, bện rơm (ngọn cây lúa bị cắt khi gặt) thấm nước bao bọc ở ngoài, 10 người khiêng một bức, tất cả có 20 bức đi trước. (HLNTC, bd. tập 2, sđd. tr. 183.)  Theo sau mỗi bức ván lớn làm mộc che là 20 quân sĩ mang đầy đủ võ khí, dàn hàng ngang tiến tới.  Theo Cao Tông thực lục, vua Quang Trung không dùng ván, mà dùng rạ (thân cây lúa còn lại sau khi gặt), bó thành bó tròn lớn làm mộc, lăn chạy trước, theo sau là khinh binh tấn công rất dũng mãnh. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 144.)

Cuộc tấn công đồn Ngọc Hồi khai diễn sáng sớm mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-1-1789).  Trong thành, quân Thanh bắn súng ra dữ dội, nhưng quân Tây Sơn nhất quyết thúc voi tiến tới, dùng súng đại bác phá hủy thành.  Kỵ binh của quân Thanh tiến ra khỏi thành gặp tượng binh của Tây Sơn, bị voi trận tấn công, liền hoảng sợ bỏ chạy.  Thành bị phá, quân Tây Sơn tràn vào thành đánh cận chiến.  Quân Tây Sơn rất thiện nghệ về cận chiến, chia quân Thanh thành từng toán nhỏ, rồi tiêu diệt.  Quân Thanh chết rất nhiều.  Số quân Thanh bỏ chạy bị chính địa lôi của họ nổ làm cho thiệt mạng.  Những kẻ thoát được, lại bị cánh quân Tây Sơn do đô đốc Bảo chỉ huy, từ hướng Đại Áng tiến lên đánh đuổi tiếp.

Dưới đây là hình ảnh vua Quang Trung trong trận chiến Ngọc Hồi ngày mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu do một người Tây phương lúc đó chạy loạn vì chiến cuộc, chứng kiến và kể lại.

Gò Đống Đa

Gò Đống Đa

“Ngày 30-1 [mồng 5 tháng giêng âm lịch], Quang Trung rời Kẻ Vôi [Hà Hồi] trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiến đấu không hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa.  Theo lời đồn, ông đeo hai cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính Trung Hoa làm rất nhiều người chết về tay ông.  Ông luôn mồm hô xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu.” (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 224.)

Trận Đống Đa:  Sau khi hạ đồn Ngọc Hồi, quân Tây Sơn tiếp đánh các đồn quân Thanh ở Văn Điển (Thanh Trì, Thường Tín, Hà Đông), Yên Quyết (ngoại thành Hà Nội).  Quân Thanh thiệt hại nặng, đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh đều tử trận.

Ngoài ra, một cánh quân Tây Sơn khác đến vây Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn (gò Đống Đa) ở Khương Thượng (ngoại ô Thăng Long).  Sau một hồi chống cự quyết liệt, thế quân Thanh yếu dần, lại không được tiếp ứng.  Sầm Nghi Đống biết không có cách gì thoát thân, liền thắt cổ tự tử trên cây đa.  Binh sĩ dưới quyền Sầm Nghi Đống đều tử trận.  (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 225.)

3.-   kết quả

Được tin đồn Ngọc Hồi thất thủ sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, Tôn Sĩ Nghị sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng Phan Khải Đức (người Việt, trấn thủ Lạng Sơn đầu hàng quân Thanh) đi quan sát tình hình.

Liền trưa hôm đó, quân Tây Sơn xuất hiện tại Thăng Long.  Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp và thắng yên cương, đã vội lên ngựa bỏ trốn cùng vài kỵ binh, bỏ lại lại ấn quân, sắc thư, cờ tiết… (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Nxb. Tân Việt in lần thứ 7,tt. 374-375.)

Sau khi qua khỏi cầu nổi Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt đứt cầu nổi. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 145.)  Đây là người Thanh tự thú, chứ các sách Việt như Cương mục (bd. tập 2, sđd. tr. 847), Hoàng Lê nhất thống chí, (bd. tập 2, sđd. tr. 186) đều viết là cầu phao bị gãy.  Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về hướng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang).  Số người chết đuối nhiều không thể đếm hết được.

Lê Chiêu Thống, lúc bấy giờ có mặt trong doanh trại Tôn Sĩ Nghị, liền chạy theo họ Tôn, chỉ kịp sai người về cung hộ vệ thái hậu cùng hoàng tử vượt sông.  Em vua là Lê Duy Chỉ đưa hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu đã bị chặt đứt, không qua sông được, phải bỏ trốn về hướng tây.

Ô Đại Kinh đóng bản doanh ở Phú Thọ (lúc đó thuộc Sơn Tây), được tin Tôn Sĩ Nghị thất trận, nhờ một cựu quan nhà Lê tên là Hoàng Văn Thông hướng dẫn rút lui trở về lại Vân Nam.

Theo Thánh vũ ký, khi chạy về tới Trấn-nam quan, Tôn Sĩ Nghị “bỏ hết ngoài cửa quan lương thực, khí giới thuốc súng vài mươi vạn (cân).  Quân ta [Thanh] và ngựa trở về không đầy một nửa.”  (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.)  Đó là sự ghi nhận của sử liệu Trung Hoa.

Như thế, nếu cánh quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị lãnh đạo đi vào từ biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn thấp nhất khoảng 10,000 cùng 10,000 trợ thủ theo sử liệu Trung Hoa như đã trình bày ở trên, và quân Thanh trở về không đầy một nửa, thì người Thanh (quân và phu) thiệt hại tối thiểu khoảng 10,000 người kể cả một số tướng lãnh nổi tiếng là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh, Sầm Nghi Đống.

Theo ghi nhận trong nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ về những sự kiện đáng ghi nhớ xảy ra trong địa phận giáo hội từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789, thì riêng trận Ngọc Hồi – Thăng Long, quân Thanh chết khoảng 10,000 người, trong đó ít nhất một phần ba bị chết đuối vì chen nhau qua cầu khi bỏ chạy và sau đó cầu bị chặt gãy.  (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 224.)  Số liệu nầy trùng hợp với số liệu của Ngụy Nguyên, người nhà Thanh, trong sách Thánh vũ ký.  (Hoàng Xuân hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.) Ngoài ra, tại Đống Đa, quân Thanh tử trận khoảng 1,000 người.  (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, bđd. tr. 225.)

Trong số quân Thanh mất tích hay tử trận, có một số đã bỏ trốn. Theo thư của vua Quang Trung gởi sang nhà Thanh do Hô Hổ Hầu đưa qua Trung Hoa, khoảng 800 người đã ra trình diện hay bị bắt, và về sau được vua Quang Trung ra lệnh trả về Trung Hoa. (ĐNCBLT, bd. tập 2, tr. 521.)

Về phía Đại Việt, không có sử liệu Việt nào viết về sự thiệt lại của lực lượng Tây Sơn.  Cũng theo nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, thì lực lượng Tây Sơn thiệt mất khoảng 8,000 quân trong trận Ngọc Hồi -Thăng Long, trong đó có một vị chỉ huy cao cấp là Đô đốc Lân (nhưng không phải Phan Văn Lân) mà vua Quang Trung rất thương tiếc.  Nhà vua đã cử hành tang lễ vị đô đốc nầy rất trọng thể trong khi cuộc chiến còn tiếp diễn.   (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch,  Sử Địa 9-10, tr. 225.)

Kết quả là lực lượng Tây Sơn đã toàn thắng oanh liệt trong mùa xuân năm Kỷ dậu 1789.

(Còn tiếp)

Toronto 12-2-2013
©Trần Gia Phụng

 

5 Phản hồi cho “Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (2) – Chiến trận”

  1. Vo Tong says:

    Không biết ông sử học Trần Gia Phụng có tham khảo tài liệu của Nguyễn Duy Chinh khi viết bài này chưa ạ ? các tài liệu quan trọng của Nguyễn Duy Chinh như: Nguyễn Huệ, Nguyễn Hue Ra Bắc, Quân sử nhà Thanh, Thanh Trieu Động Binh … nếu chưa thì xin sử gia dành chút thời gian nguyên cứu bộ tài liệu rồi hãy viết sử !
    Viết sử rất quan trọng, co thể nói là môn khoa học nhân văn quan trọng bậc nhất nhì . Nếu chúng ta chê trách người cộng sản Việt Nam viết sử lếu láo 1 chiều, viết sử cho kẻ chiến thắng thì chúng ta cũng nên nghĩ lại chúng ta là ai !!!
    Sao đến thế kỹ 21 rồi và dân tộc Viet Nam vẫn còn lạc hậu, u mê trong tăm tối và chưa đóng góp 1 cai gì cho văn minh tiến bộ của loài người nhưng người Viet nam vẫn còn tự thích ru ngũ và tự sướng thế này .
    Buồn !

  2. quang phan says:

    Dù là thù địch với nhà Tây Sơn Quang Trung Nguyễn Huệ, sử quan nhà Nguyễn phụ trách soạn bộ Đại Nam Liệt Truyện vẫn ghi tổng số quân Thanh lên tới “20 vạn” [200,000]. [“Nghị độc phụng chiếu xuất Lưỡng Quảng Vân Quí lượng lộ binh nhị thập vạn, phân vi lưỡng đạo;” q. XXX [Ngụy Tây], tr. 30B, (Sài Gòn: 1970), tr. 124-25; (Huế, 1993) II:515] (Huệ) .

  3. quang phan says:

    Đề tài này có lẽ đã không được viết nếu đã không có Nguyễn gia Kiểng ( Thông Luận ) đần đôn, lếu láo viết rằng con số 20 chục vạn quân Tàu rất xa sự thật . Tên ngu xuẩn , loạn trí này lập tức đã bị dũa cho te tua trên các trang mạng .

    Bàn về võ công hiển hách của vua Quang Trung, hai sử gia nổi tiếng Phạm Văn Sơn và Trần Trọng Kim đã viết như sau:

    Sử gia Phạm Văn Sơn : “…triều Thanh liền huy động binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông và Quảng Tây được tất cả là 200.000 người, chia làm ba đạo kéo vào nội địa nước tạ .
    Đạo thứ nhất do chính họ Tôn và đề đốc Hứa thế Hanh chỉ huy theo đường Nam Quan đổ xuống .
    Đạo thứ hai do đề tổng họ Ô, lĩnh quân Vân Quý ( hai tỉnh Vân Nam, Quí Châu) từ Tuyên Quang tiến sang.
    Đạo thứ ba do điền châu tri phủ, Sầm nghi Đống từ Cao Bằng kéo vào “ .

    Sử gia Trần Trọng Kim : “… Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng-đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường, chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn sĩ Nghị phải bỏ cả ấn-tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp-sợ, tướng-sĩ nhà Thanh thất đảm………………………….Vua Càn-long nghe lời tâu ấy sai Tôn sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây, Quí-châu, Vân-nam, đem sang đánh Tây-sơn. Tôn sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo, sai quan tổng-binh tỉnh Vân-nam và Quí-châu đem một đạo sang mạn Tuyên-quang[1], sai Sầm nghi Đống 岑 宜 棟 là tri-phủ Điền-châu đem một đạo sang mạn Cao-bằng. Sĩ Nghị cùng với đề-đốc là Hứa thế Hanh 許 世 亨 đem một đạo sang mạn Lạng-sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An-nam “.

    • Vĩnh Tường says:

      quang phan là ai, học vấn cỡ nào mà dám mở miệng chê người khác là “lếu láo”? Thái độ này phải gọi là gì nếu không phải là chính điều đương sự chê người khác?

      • quang phan says:

        Không biết thì đứng dựa cột mà nghe, mà đoc công trình nghiên cứu của những đại sử gia Phạm Văn Sơn và Trần Trọng Kim , chớ những Vĩnh Tường, Nguyễn gia Kiểng ọc oẹ những câu xuyên tạc lịch sử chỉ
        khiến thiên hạ bịt mũi mà thôi .

Leave a Reply to Vo Tong