WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Trận Hoàng Sa trong chiến tranh lạnh toàn cầu

Ảnh minh hoạ (internet)

Ảnh minh hoạ (internet)

1.-  CHIẾN TRANH LẠNH

Chiến tranh lạnh bắt đầu từ năm 1946, sau thế chiến thứ hai (1939-1945), là tình trạng tranh chấp căng thẳng, gay cấn và quyết liệt giữa hai khối tư bản và cộng sản (CS).  Nói trắng ra, đây là cuộc tranh chấp giữa hai tập đoàn quyền lợi tư bản và CS.  Hai tập đoàn quyền lợi nầy đối chọi nhau về tất cả các mặt, nhưng hai bên không trực tiếp đánh nhau vì các cường quốc đứng đầu hai khối cùng thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy ra, thì cả hai bên đều thiệt hại nặng nề.

Chiến tranh lạnh, có một số đặc điểm như sau: 1) Mỗi khối không phải là một tổ chức thống nhứt, không có chỉ huy chặt chẽ.  2) Các quốc gia trong mỗi khối vẫn duy trì quyền lợi riêng tư, nên trong nội bộ mỗi khối, các quốc gia vẫn xảy ra tranh chấp quyền lợi với nhau, nhiều khi không kém phần quyết liệt.  Ví dụ giữa Hoa Kỳ và Pháp trong khối tư bản, giữa Liên Xô và Trung Cộng trong khối CS.  3)  Quyền lợi quốc gia của các nước luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh và theo thời gian nên chính sách đối ngoại cũng thay đổi theo thời gian. (Ví dụ Hoa Kỳ, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng.)  4) Các nước nhỏ yếu bị các nước cường quốc lợi dụng.  Các cường quốc dùng các nước nhỏ để trao đổi quyền lợi giữa các cường quốc. 5) Trong chiến tranh lạnh, có một số tranh chấp địa phương, bùng nổ thành những điểm nóng, mà các cường quốc trong hai khối đứng về hai phía đối đầu nhau.

Từ khi xảy ra chiến tranh lạnh trên thế giới năm 1946, tại Á Châu, hai điểm nóng quan trọng là chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Việt Nam (1960-1975).  Trong cả hai cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam, Hoa Kỳ đều ủng hộ hai miền Nam tự do, chống lại hai miền Bắc CS, nhưng Hoa Kỳ áp dụng hai chiến lược khác nhau tại hai cuộc chiến nầy.

2.-  CHIẾN LƯỢC HOA KỲ TẠI NAM VIỆT NAM: PHÒNG THỦ

Tại Triều Tiên, Hoa Kỳ tấn công Bắc Triều Tiên để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức Hoa Kỳ lấy công làm thủ.

Tại Việt Nam, Hoa Kỳ không tấn công Bắc Việt Nam mà chỉ phòng thủ ở  Nam Việt Nam, tức Hoa Kỳ lấy thủ làm thủ.

Cả hai nước Triều Tiên và Việt Nam đều có biên giới giáp ranh với Trung Cộng ở phía bắc.  Khi quân Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên năm 1950, quân đội Hoa Kỳ cùng quân đội Liên Hiệp Quốc giúp Nam Triều Tiên, đánh đuổi quân Bắc Triều Tiên đến sông Áp Lục (Yalu River), là biên giới với Trung Cộng.  Quân Trung Cộng tràn qua giúp Bắc Triều Tiên.  Sau ba năm đánh nhau qua lại, hai bên đình chiến năm 1953 ở vĩ tuyến 38, chia hai nước Triều Tiên.

Vì vậy, khi tham chiến ở Việt Nam năm 1965, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.)  Hoa Kỳ lo ngại nếu đánh ra Bắc Việt Nam, thì Trung Cộng sẽ can thiệp như ở Triều Tiên, nên tại Nam Việt Nam, Hoa Kỳ chủ trương chỉ phòng thủ ở Nam Việt Nam, phía nam đường phi quân sự ở vĩ tuyến 17, không tấn công ra Bắc Việt Nam, tránh  đụng chạm đến Trung Cộng.

3.-  CHÍNH SÁCH KHÔNG CHIẾN THẮNG

Chiến lược phòng thủ của Hoa Kỳ có thể tóm gọn qua câu nói của đô đốc Grant Sharp, tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương 1964-1968: “Chính phủ chúng ta lập lại để làm rõ rằng những mục tiêu của chúng ta trong cuộc tranh chấp ở Việt Nam là giới hạn.  Chúng ta không buộc phải tiêu diệt chế độ Hà Nội, không cưỡng ép dân chúng Bắc Việt Nam phải chấp nhận một hình thức chế độ khác và cũng không tàn phá Bắc Việt Nam.  Chúng ta đơn giản muốn Bắc Việt Nam ngưng điều khiển và ngưng yểm trợ phiến quân Việt cộng ở miền Nam và đưa lực lượng của họ về nhà.  Chiến lược điều khiển chiến tranh của chúng ta phản ảnh những mục tiêu giới hạn nầy.” (Nguyên văn: “Our Government has repeatedly made it clear that our objectives in the Vietnam conflict are limited. We are not ought to destroy the Hanoi regime, or to compel the people of North Vietnam to adopt another form of government, nor are we out to devastate North Vietnam. We simply want North Vietnam to cease its direction and support of the Vietcong insurgency in the South and take its forces home. Our strategy for the conduct of the war reflects these limited objectives.”) (William D. Pawley & Richard R. Tryon, Jr., “Why the Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in 1990”, http://www.gratisbooks.com/, chữ khóa: “Getting bogged down in Vietnam”.)

Do chủ trương chiến tranh giới hạn (limited war), bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra  những “quy tắc tham chiến” (rules of engament) tức quy tắc quân đội ứng xử khi tham chiến ở NVN như một thứ cẩm nang, nhằm ngăn ngừa và giới hạn những ngẫu biến ở biên giới Hoa Việt hay vùng phi quân sự vĩ tuyến 17.

Quy tắc tham chiến hạn chế các mục tiêu tấn công, và hạn chế các hoạt động của Không quân, giảm hỏa lực làm giảm sức mạnh quân đội Hoa Kỳ.  Ai vi phạm, sẽ bị trừng phạt nặng.  (ví dụ trường hợp đại tướng John Lavelle năm 1972.)

Những quy tắc nầy bảo đảm rằng chúng ta không thể thắng và cộng sản cũng không thể thất bại.” (Nguyên văn: “These rules insured that we could not win and that the communists could not lose.”) (Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam – The Untold Story, University of Toronto, School of Continuimg Studies, The Moral Liberal. )

Thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa Barry Goldwater tuyên bố tại Taipei (Đài Bắc) khi đến Đài Loan viếng tang tổng thống Tưởng Giới Thạch, gọi đây là “chính sách không chiến thắng” (“no win policy”). (The Bryan Times, Thursday, April 17-4-1975.)

4.-  CHIẾN LƯỢC PHÒNG THỦ KHÔNG HỮU HIỆU VỚI KHỦNG BỐ VÀ DU KÍCH

Trong chiến tranh Nam Việt Nam, cộng sản Việt Nam sử dụng chiến thuật khủng bố và du kích.  Quân du kích CS khủng bố, đánh phá khắp nơi trên toàn quốc, gây thiệt hại mỗi ngày một ít, mỗi nơi một ít, nhưng “tích tiểu thành đa”, lâu ngày làm hao mòn quân đội Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ.

Thật rất khó chống lại du kích chiến, nhất là trong địa hình rừng núi như Việt Nam.  (Ngày nay, người Mỹ tận dụng hết khả năng quân sự vẫn không chống lại được du kích Al-Qaeda, Taliban, Afghanistan.)

Muốn chận đứng du kích CS ở Nam Việt Nam, chỉ có cách duy nhứt là chận đứng ngay từ gốc, tức là hậu phương lớn của du kích CS, là Bắc Việt Nam, tức phải tấn công Bắc Việt Nam, mới chận đứng được du kích CS trên toàn cõi Nam Việt Nam.  Như Hoa Kỳ đã từng đánh ra Bắc Triều Tiên trước đây mới chận đứng hẳn du kích CS ở Nam Triều Tiên.

Vì không đánh ra Bắc Việt Nam để chận đứng du kích từ tận gốc, mà chỉ mở những cuộc hành quân bình định ở Nam Việt Nam và ngồi chờ du kích đến quấy phá mới phản công, nên dù trang bị tối tân, quân đội Nam Việt Nam và Hoa Kỳ không thể tiêu diệt hết khủng bố và du kích của CS ở Nam Việt Nam.

Hoa Kỳ còn lo ngại quân đội Nam Việt Nam bất ngờ tấn công ra Bắc Việt Nam để giải tỏa áp lực của CS ở Nam Việt Nam, nên Hoa Kỳ ngăn chận tất cả những đề nghị từ phía Việt Nam Cộng Hòa tấn công ra Bắc Việt Nam.  Ví dụ trong cuộc mít-tin tại Sài Gòn ngày 19-7-1964, kỷ niệm Ngày Quốc hận [ngày ký kết Hiệp định Genève 20-7-1954], trung tướng Nguyễn Khánh hô hào Bắc tiến.  Đại sứ Maxwell Taylor và các viên chức Mỹ có mặt tại cuộc mít-tin tránh né không bình luận. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 42.)  Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi gởi thư lên chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đề nghị Bắc tiến; đồng thời tướng Thi còn gởi thư cho đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn công khai đề nghị Bắc tiến. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319=344.)  Năm 1972, trong mùa hè đỏ lửa. quân Bắc Việt Nam tràn qua vùng phi quân sự ở vĩ tuyến 17.  Quân đoàn I đề nghị đưa quân vượt qua vĩ tuyến 17 đánh ngược ra Bắc.  Được tin nầy, phía cố vấn Hoa Kỳ liền giới hạn cấp số xăng, cấp số đạn và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh Việt Nam Cộng Hòa nhằm chận đứng cuộc Bắc tiến. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas, 2005, tr. 103.)

Với chiến lược phòng thủ tại NVN, quân đội Hoa Kỳ không thất bại, nhưng quân đội Hoa Kỳ cũng không chiến thắng, dậm chân tại chỗ.  Trước tình hình nầy, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ quyết định thay đổi sách lược.

5.-  HOA KỲ THAY ĐỔI VÌ LÝ DO QUỐC NỘI

Chiến tranh kéo dài, dân chúng Hoa Kỳ mệt mỏi, chán nản, nổi lên phản đối.  Phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ lên mạnh chỉ sau vài năm Hoa Kỳ tham chiến.  Trong niên khóa 1969-1970, xảy ra 1,800 cuộc biểu tình, 7,500 người bị bắt giữ, 247 vụ đốt phá, 462 người bị thương mà 2/3 là cảnh sát và 8 người chết. Từ tháng 1-1969 đến tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, hay âm mưu ném bom, hay đe dọa ném bom liên hệ đến chiến tranh, gây thiệt hại 21 triệu Mỹ kim, hàng trăm người bị thương và 43 người chết. (Richard Nixon, No more Vietnams, London: W. H. Allen, 1986, tr. 126.)

Phong trào phản chiến Hoa Kỳ lên cao vì trong thời điểm nầy, ngoài quân đội chuyên nghiệp, Hoa Kỳ còn có binh sĩ động viên.  Thân nhân binh sĩ động viên phản đối mạnh mẽ chiến tranh vì sợ con em phải bỏ mạng trên chiến trường Việt Nam.  (Luật động viên ở Hoa Kỳ được bãi bỏ ngày 27-1-1973.  Ngày nay, quân đội Hoa Kỳ chỉ gồm toàn quân nhân chuyên nghiệp.)

Tin tức phản chiến, chống chiến tranh Việt Nam, được các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ đưa lên truyền hình, chiếu liên tục suốt ngày làm nản lòng dân chúng Hoa Kỳ.  Có thể nói phong trào phản chiến Hoa Kỳ là đồng minh hữu hiệu và là nội tuyến đắc lực của Công sản Việt Nam.  Các chính trị gía và các đảng phái muốn đắc cử, phải điều chính sách lược để thu phục lòng dân Hoa Kỳ, mới được phiếu bầu.

6.-  HOA KỲ THAY ĐỔI VÌ LÝ DO QUỐC TẾ

Vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, các chính trị gia Hoa Kỳ dựa trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), như sau: “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiễn nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó.  Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít võ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.” (Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334.)

Từ  đó, giới chính trị  Hoa Kỳ đưa ra nhận định mới.  “Hy sinh Nam Việt Nam mới thật là đáng giá.  Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Nam Việt Nam mà ít hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.” (Roger Warner, sđd. tr. 336.)  Lúc đó, cuộc tranh chấp Liên Xô – Trung Cộng càng ngày càng gay gắt.  Hoa Kỳ muốn khai thác mối chia rẽ nầy, lôi kéo Trung Cộng về phía Hoa Kỳ.

Bill Sullivan, thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, trả lời một cuộc phỏng vấn rằng:  “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy nghe ra có vẽ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn.  Đặc biệt nữa là người Trung Quốc đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Quốc tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.” (Roger Warner, sđd. tr. 336.)

Vì vậy, lúc đó người Hoa Kỳ nghĩ rằng: “Thua trận ở Việt Nam lành mạnh cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận.  Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia.  Rằng đó là lợi thế… Đó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Đông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.” (Roger Warner, sđd. tr. 333.)

Như trên đã viết, dù là tư bản hay cộng sản, quyền lợi của mỗi nước luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh.  Trước đây, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản nhất là Trung Cộng.  Nay cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ tìm cách rút lui khỏi Việt Nam.  Năm 1969, tổng thống Richard Nixon đưa ra kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh (Vietnamization), là một mỹ từ để chỉ việc chuyển gánh nặng quân sự cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rồi Hoa Kỳ rút quân đội Hoa Kỳ về nước.

Đồng thời, Hoa Kỳ nhận thấy hố chia rẽ giữa Trung Cộng và Liên Xô càng ngày càng sâu rộng.  Hoa Kỳ tìm cách thân thiện với Trung Cộng, vừa nhờ Trung Cộng áp lực với Bắc Việt Nam để Hoa Kỳ rút quân, đem tù binh Hoa Kỳ về nước, vừa lôi kéo Trung Cộng về phía Hoa Kỳ, tách xa Liên Xô.

7.-  TRUNG CỘNG: THAM VỌNG XUỐNG ĐÔNG NAM Á

Các lãnh tụ Trung Cộng không khác gì các vua chúa Trung Hoa ngày xưa, luôn luôn nuôi mộng xâm lăng Việt Nam để tràn xuống Đông Nam Á.  Lịch sử cho thấy quân đội Trung Hoa thời quân chủ không thể chiến thắng được quân đội Đại Việt.  Vì vậy, lần nầy, Trung Cộng thay đổi sách lược, nhìn ra Biển Đông nhắm đến Hoàng Sa, là quần đảo của Việt Nam trong Biển Đông, nằm trên thủy lộ chiến lược từ eo biển Malacca ra Thái Bình Dương.

Nguyên từ 24-2 đến 29-4-1958 tại Genève, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về luật biển. Do những tranh cãi tại Genève về chiều rộng của hải phận quốc gia và hải phận quốc tế, Mao Trạch Đông tuyên bố ngày 28-6-1958: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn.  Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.) Phát biểu nầy là khởi đầu cho chủ trương mới của Trung Cộng về Biển Đông và Thái Bình Dương.

Năm tháng sau, ngày 4-9-1958, Quốc hội Trung Cộng đưa ra bản tuyên cáo về hải phận, gồm 4 điều.  Trong 4 điều nầy, Trung Cộng đưa ra hai điểm quan trọng: 1) Xác định hải phận Trung Cộng rộng 12 hải lý. 2) Xác định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc lãnh thổ Việt Nam, là của Trung Cộng (điều 1 và điều 4).

Đáp lại tuyên cáo ngang ngược nầy, Phạm Văn Đồng thủ tướng Bắc Việt Nam, thừa lệnh Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản Việt Nam, gởi cho Trung Cộng công hàm ngày 14-9-1958, tán thành bản tuyên cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Cộng, tức Bắc Việt Nam tán thành chuyện hải phận 12 hải lý của Trung Cộng, đồng thời tán thành luôn  rằng các quần đảo Hoàng Sa,và Trường Sa, thuộc lãnh thổ Trung Cộng.  Đây là tội phản quốc lớn lao nhất trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim.

Năm 1963, trong cuộc họp với đại diện đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng Cộng Sản Việt Nam), Mao Trạch Đông nói: “Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.”  Tháng 8-1965, trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore…” (Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, Hà Nội: NXB Sự Thật, 10-1979, Chương “Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc”.)  Trong khi đó, Hoa Kỳ xích lại với Trung Cộng từ năm 1971.

8.-  HOA KỲ – TRUNG CỘNG XÍCH LẠI GẦN NHAU

Tháng 3-1969, chiến tranh giữa Liên Xô và Trung Cộng bùng nổ ở trên sông Ussuri.  Trung Cộng muốn tìm một đồng minh mới để làm đối trọng với Liên Xô.  Trong khi đó, Hoa Kỳ đang tìm cách rút lui dần dần khỏi Việt Nam, cũng muốn thân thiện với Trung Cộng để nhờ Trung Cộng áp lực với Cộng sản Việt Nam và tách Trung Cộng ra khỏi Liên Xô.  Hai kẻ cựu thù Hoa Kỳ và Trung Cộng nay đều có nhu cầu xích lại gần nhau.

Sau một thời gian thăm dò, liên lạc, thương thuyết mật giữa các phái đoàn Hoa Kỳ và Trung Cộng, ngày 9-7-1971, Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh.  Năm sau, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đi thăm Trung Cộng ngày 21-2-1972.  Nixon thông báo cho các lãnh tụ Trung Cộng biết là Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân khỏi Nam Việt Nam, không đòi hỏi Bắc Việt Nam rút quân khỏi Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ không báo cho Việt Nam Cộng Hòa biết.

Khi Richard Nixon về nước, Chu Ân Lai qua Hà Nội tường thuật cho giới lãnh đạo Bắc Việt Nam.  Bắc Việt Nam liền mở cuộc tấn công Nam Việt Nam mạnh mẽ từ tháng 4-1972. (Mùa hè đỏ lửa).  Lúc đó, “Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao đổi một “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách 12 dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa”.” (Henry A. Kissinger, Ending the Vietnam War, New York:  Nxb. Simon & Schuster, 2003, tr. 246. Huy Đức trích lại, Bên thắng cuộc, I: Giải phóng, New York: Osin Book, 2012 , tr. 109.)  Đổi lại, Trung Cộng giúp Hoa Kỳ bằng cách áp lực Bắc Việt Nam trở lại thảo luận nghiêm chỉnh tại Hội nghị Paris, nhằm giải quyết chiến tranh Việt Nam.

Như thế, ngay từ năm 1972, Hoa Kỳ ngầm hứa hẹn đồng ý để cho Trung Cộng tự do hành động ở Hoàng Sa. Trung Cộng chờ đợi cơ hội ra tay.  Cuối cùng, Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19-1-1974.

Cần chú ý về thời điểm nầy: 1) Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn ra khỏi Nam Việt Nam, và không trở lui nữa. 2)  Liên Xô tăng cường viện trợ gấp 4 lần cho Bắc Việt Nam để tấn công Nam Việt Nam. 3) Nam Việt Nam bận rộn chống đỡ cuộc tấn công của Bắc Việt Nam. 4) Trung Cộng dự đoán Bắc Việt Nam sẽ thắng thế, nên quyết định chiếm Hoàng Sa trước khi Nam Việt Nam sụp đổ. 5) Đầu năm 1974, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tìểu Bình quyết định kế hoạch tấn công Hoàng Sa.  Ngày 17-1-1974, Mao Trạch Đông phê chuẩn báo cáo của Diệp Kiếm Anh xin đánh Hoàng Sa. (Tân Hoa Xã ngày 6-8-2013 và BBC ngày 20-12-2013.)

9.-  PHẢN ỨNG CỦA HOA KỲ SAU TRẬN HOÀNG SA

Lúc đó Cơ quan Trung Ương Tình báo (CIA) Hoa Kỳ theo sát tình hình Biển Đông và Hoàng Sa.  Hằng ngày, CIA ra bản tin Central Intelligence Bulletin (CIB) và trình nạp thẳng đến Văn phòng tổng thống Hoa Kỳ.  Bản tin ngày 19-6-1971 viết: “Những đoàn công voa hải quân từ Yu-lin (Du Lâm) trên đảo Hải Nam hiện tới Hoàng Sa thường xuyên, nhất là Woody Island (đảo Phú Lâm), một trong những đảo lớn nhất trong nhóm. Bảo vệ đoàn tàu chủ yếu là tàu khu trục, là tàu chiến lớn nhất trong hạm đội Nam Hải của Trung Quốc.”  (BBC, ngày 30-12-2013.) Như thế Chính phủ Hoa Kỳ nắm bắt rất rõ những hoạt động của Hải quân Trung Cộng ở Biển Đông. Năm 1972, khi xảy ra chiến cuộc “Mùa hè đỏ lửa”, Hoa Kỳ đã giao cho Trung Cộng một “thông điệp miệng” về vấn đề Hoàng Sa (đã trình bày ở trên).

Trong trận Hoàng Sa, quân đội Hoa Kỳ hoàn toàn làm ngơ và tránh xa Hoàng Sa, đến nỗi phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại “gọi điện thoại về Bộ tư lệnh Hải Quân xin can thiệp với cố vấn Mỹ yêu cầu Đệ thất Hạm đội Mỹ vớt các thủy thủ Việt Nam, nhưng dường như họ có được chỉ thị nên không một chiến hạm nào đến gần nơi cuộc xảy ra hải chiến.” (Hồ Văn Kỳ Thoại, Can trường trong chiến bại, tr. 171.)

Sau trận Hoàng Sa, gặp Han Hsu (Han Xu), quyền trưởng phái đoàn liên lạc TC tại Washington DC ngày 23-1-1974, ngoại trưởng HK Kissinger nói: “Hoa Kỳ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo nầy.”  (BBC Vietnamese, cập nhật 12:24 GMT – thứ Hai, 3 tháng 10, 2011.)

Gần một tuần sau trận Hoàng Sa (19-1-1974), trong cuộc họp tại Bộ Ngoại giao HK ngày 25-1-1974, do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ tọa, đô đốc Thomas H. Moorer, tham mưu trưởng Liên quân HK, báo cáo với Kissinger: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề… Chỉ thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực [Hoàng Sa].” (BBC Vietnamese, cập nhật 12:24 GMT – thứ hai, 3 tháng 10, 2011.)

KẾT LUẬN

Chiến tranh lạnh toàn cầu đưa đến trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974.  Ngược lại trận Hoàng Sa đánh dấu sự thay đổi mối quan hệ quốc tế trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

Trận Hoàng Sa một lần nữa cho thấy khi Việt Nam có nội chiến, đất nước chia rẽ, nội lực dân tộc sút giảm, kẻ thù bên ngoài thừa cơ hội xâm lăng nước ta.

Trận Hoàng Sa tiêu biểu cho lập trường bảo vệ đôc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Việt Nam Cộng Hòa.  Trong khi đó, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam theo chủ nghĩa cộng sản, làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, phạm tội phản quốc, nhượng đất đai của tổ tiên cho ngoại bang, để mưu cầu viện trợ nhằm tấn công Việt Nam Cộng Hòa, thực hiện tham vọng thống trị toàn cõi Việt Nam.

Hoa Kỳ đến giúp Việt Nam Cộng Hòa vì quyền lợi của Hoa Kỳ, và cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ sẵn sàng rút quân về nước, bỏ rơi đồng minh.  Từ năm 1972, Hoa Kỳ đã ngầm thỏa thuận về Hoàng Sa với Trung Cộng. Cũng vì quyền lợi của Trung Cộng, Trung Cộng sẵn sàng tách ra khỏi Liên Xô và xích lại gần với Hoa Kỳ, làm thay đổi cục diện chiến tranh lạnh toàn cầu.

Đây là một kinh nghiệm quý báu về vấn đề đồng minh trong tương quan quyền lợi giữa các nước.  Chỉ có đồng minh khi có quyền lợi.  Hết quyền lợi, hết đồng minh.

Chiếm được Hoàng Sa, chẳng những Trung Cộng kiểm soát sự lưu thông trên Vịnh Bắc Việt, mà còn kiểm soát thủy lộ từ Malacca qua Biển Đông, nhập vào Thái Bình Dương.  Trong tương lai Hoàng Sa càng trở nên quan trọng khi Trung Cộng bắt đầu thành lập khu vực “nhận diện phòng thủ không phận” (Air Defense Identification Zone = ADIZ) trên quần đảo nầy.

Khi Hoa Kỳ thay đổi sách lược toàn cầu, rút quân và cắt giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, Nixon và Kissinger dự liệu là Việt Nam Cộng Hòa có thể bị sụp đổ trong vòng 18 tháng sau hiệp định Paris. (Kenneth Hughes, The Paris “Peace” Accords Were a Deadly Deception (Jan 31, 2013).

Tuy nhiên, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng, chống trả cộng sản mãnh liệt, khiến Kissinger đã than một câu để đời: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi?  Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai dẳng hoài.” (Ron Nessen, It Sure Looks Different from the Inside, Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 129.  Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C K Promotions, INC, 1987, tr. 512.)

Nghe câu nầy thì thật buồn cho thế thái nhân tình, nhưng đồng thời phải khâm phục sức chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.  Quân đội chúng ta không thua trận, nhưng phải ngưng chiến đấu vì sự thay đổi của hoàn cảnh chính trị thế giới.

Hoàn cảnh chính trị thế giới và bạo lực CS đã đẩy chúng ta ra khỏi Việt Nam, nhưng không một thế lực nào có thể đẩy Việt Nam ra khỏi trái tim chúng ta.  Người Việt luôn luôn nuôi mộng trở về quang phục quê hương, giải thể chế độ cộng sản bạo tàn, đòi lại Hoàng Sa cho tổ quốc thiêng liêng.

Ngày nay tình hình Đông Á đang thay đổi một lần nữa, là cơ hội cho chúng ta vận động giải thể nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.  Người Việt Hải ngoại chúng ta cần phải hết sức ủng hộ một cách thực tế những nhà tranh đấu dân chủ trong nước, những phong trào đòi hỏi dân chủ trong nước.  Trào lưu dân chủ sẽ xóa bỏ độc tài.

Chỉ khi nào chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì người Việt mới bắt đầu tính sổ đòi đất, đòi biển với Trung Cộng; bởi vì giải thể chế độ cộng sản Việt Nam mới chấm dứt những cam kết ngầm giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng Cộng Sản Trung Quốc, từ thời Hồ Chí Minh năm 1950 cho đến Hội nghị Thành Đô năm 1990.  Chấm dứt những cam kết ngầm mới có thể nói chuyện đòi đất đòi biển trở về với tổ quốc chúng ta.

© Trần  Gia Phụng

(California, 05-01-2014)

 

88 Phản hồi cho “Trận Hoàng Sa trong chiến tranh lạnh toàn cầu”

  1. Người Việt tị nạn CS says:

    Chuyện lọa có thiệt:
    Những lần biểu tình chống CS và chống lẫn nhau trước đây mà chống lẫn nhau là chính, cũng như những cuộc diễn hành của những tết trước của người Việt quốc gia tị nạn CS tại Little Saigon, mọi người đều thấy rợp trời cờ vàng ba sọc đỏ và băng rôn, biểu ngữ nền vàng chữ đỏ là màu sắc quốc kỳ VNCH. Không hiểu sao lần diễn hành tết Giáp Ngọ năm 2014 này lại thấy chỉ lèo tèo vài cái cờ vàng ba sọc đỏ, toàn bộ băng rôn, biểu ngữ lại là nền đỏ chữ vàng là biểu tượng màu sắc của cờ đỏ sao vàng CSVN, giống y chang màu sắc băng rôn, biểu ngữ rợp trời ở trong nước. Chẳng lẽ, người Việt quốc gia tị nạn Cộng sản ở Mỹ không tôn thờ cờ vàng ba sọc đỏ nữa, mà quay sang tôn thờ cờ đỏ sao vàng của CSVN hay sao? Lọa quá.
    http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=181942&zoneid=1#.Uu5sIT1_vHo

    • lethiep says:

      không nhìn thấy cờ Vàng bay rợp trời?

      Trí óc không biết phân biệt được màu đỏ trong ngày Tết tượng trưng cho sự may mắn, còn màu đỏ trên lá cờ Quỷ Đỏ Việt cộng tượng trưng cho máu của hàng triệu nạn nhân của chúng .

      Hèn chi chỉ sống được qua ngày làm nghề dư lợn viên xoàng xĩnh,hèn mạt .

      • Ma VNCH says:

        Màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn và chiến thắng. Màu vàng tượng trưng cho tàn lụi và tan rã. Cờ VNCH có nền màu vàng hèn chi VNCH bị chết.

      • lethiep says:

        Tại sao lá cờ đỏ sao vàng lại có màu đỏ ? Trả lời : Vì nó ướt đẫm máu của dân Việt . Dư lợn viên đọc nhá :

        - Theo giáo sư Rummel trong quyển “Death by Government” thì cộng sản Việt Nam với tội ác tàn sát đồng bào. Trong giai đoạn 1945-1957, đã giết những thành phần mà họ gọi là các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác khuynh hướng chính trị, và những người trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư tưởng cộng sản cũng bị họ giết. Căn cứ vào tài liệu, số người bị giết trong giai đoạn này vào khoảng 50.000 người.

        - Trong giai đoạn cải cách ruộng đất trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người bị đấu tố (được hiểu là bị giết). Sau khi sửa sai thì đảng với nhà nước đưa ra con số 123.266 người bị coi là oan. Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan.

        - Trong Tết Mậu Thân năm 1968, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, thì số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người!

    • Trực Ngôn says:

      Cám ơn bác Người Việt tị nạn CS đã post link hướng dẫn!

      Nhìn You Tube với lá đại kỳ “CỜ VÀNG” trông rất “hoành tráng”. Nhưng trong hình của báo Người Việt thì những chiếc xe của cựu Nữ Sinh Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt thì đều vắng bóng CỜ VÀNG!

      Hơn nữa, CỜ VÀNG nhỏ cầm tay nhiều, nhưng thiếu cỡ trung (cờ tập thể). Có lẽ đấy cũng là “chủ ý” của phóng viên NV muốn nhắc nhở BTC lưu ý cho lần tổ chức tới, cần nhiều CỜ VÀNG cỡ trung để cho buổi lễ thêm “hoành tráng” và trang trọng hơn?

    • Tị Nạn CS thứ thiệt says:

      @Người Việt tị nạn CS says: ” Loạ quá ”

      Đây mới là chuyện thật. . .không Loạ chứ ?

      http://www.haingoaiphiemdam.com/Mong-4-Thang-2-Nam-2014-Cau-Chuyen-Xuan-Co-Vang-Tai-Truong-Tieu-Hoc-Rosa-Parks-City-Heights-San-Diego-12955

  2. Tô Mã Ý says:

    Ý kiến rất ngắn của TM Ý. Lạnh hay Nóng, cũng là tiêu diệt Mác Xít!

    Chúng ta chẳng nên rỗi hơi tin vô những tuyên bố này nọ của các ông lờn,
    cũng chẳng quá tin vô những sách vở, những bài báo có dụng ý đánh lừa
    Thằng CS nói hay cho nó; anh cu Sam chạy lỗi cho Sam. Ngay cả khi anh
    cu Sam la ơi ới rằng anh ta ” tháo chạy,” thì anh ta …chạy sang tiêu diệt
    Cộng Phỉ Liên Sộ, Đông Âu, Baltiques kia kìa…

    TMY tôi tin vô common sense, quan sát và ghi nhận thực tế. Những gì đã
    thành sự thật không chối cãi, thì ta đâu còn cần mang sách vở, lời tuyên bố
    này nọ ra làm dẫn chứng cái chi nữa, cho nó rối tò vò ra…

    Vấn đề toàn quốc Việt Nam là : thằng Mỹ trong kế hoạch toàn cầu, nó cần
    dùng đến Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa hay là Miền Bắc Cộng Sản ?– Dĩ
    nhiên Mỹ nó phải dùng thằng Cộng Sản Con mà uýnh vô hai tên CS Bố Mẹ
    là Nga Tàu. Vì thế Việt Nam Cộng Hòa tươi đẹp phải chịu phận ” kẻ thua
    cuộc,” dành cái thắng cho Cộng phỉ Bắc Kỳ để Mỹ nó khai thác, hỉ?

    Mà này ơi, chúng ta con dân VNCH chớ buồn mà chi..lúc non sông cần thanh
    bình…buốn mà chi em, khi trận chiến Hoàng Sa là ngọn đèn bật sáng
    như một tín hiệu từ đầu năm Ngựa, mã đề dương cước…Trọng Lú…

    Cuối cùng, Ý tôi khẩn thiết vái lạy mấy ông chủ tịch công đồng đây đó nên bớt
    cái…vây vo, xem lá Cờ Vàng là cờ….cộng đồng ! Không! Khô ng! Cờ Vàng
    vẫn là quốc kỳ của nước Việt Nam Cộng Hòa đang bị chiếm đóng trái phép.

    ( Trung sĩ Tô Mã Ý, 110 xuân hồi hương)

  3. LeQuocTrinh says:

    Góp ý với ông Trần Gia Phụng,

    Tuy tôi đồng ý với tác giả trên nhiều nhận định về lịch su cận đại VN, nhưng tôi vẫn thấy ông TG Phụng còn bỏ sót nhiều chi tiết quan trọng khác góp phần làm tan vỡ chính thể VNCH ở miền Nam (1955-1975), như sau:

    1)- Tác giả đã cố tình quên lãng cuộc di cư khổng lồ của gần 1 triệu người dân miền Bắc 1954 bỏ hết ruộng vườn, nhà cửa, cơ nghiệp để vào Nam tìm tự do, trong đó có rất nhiều nhân tài về nghệ thuật (âm nhạc, thơ ca, văn nghệ), và trà trộn không ít những cán bộ tuyên giáo CS vào Nam để quấy phá chính thể VNCH, gieo rắc hận thù;

    2)- Tác giả cố tình không nhắc đến những viện trợ giúp đỡ tiền của, vật chất, quân sự, ngoại giao, giáo dục mà chính phủ Hoa Kỳ và dân Mỹ đã tận lực giúp đỡ miền Nam sau khi Hiệp Định Geneve ký kết (1954). Hiện nay, thử đảo mắt nhìn xem số phận 1 triệu người dân di tản Sirya chạy sang các nước Trung Đông bị sống vấn vưởng ra sao, bị xua đuổi như thế nào tuy LHQ vẫn cố gắng viện trợ nhưng không thành công. Đừng để cho người dân Mỹ có cảm tưởng xấu về dân tộc VN theo kiểu “ăn cháo đá bát”;

    3)- Tác giả cố tình không nhắc đến những sai lầm chính trị chết người của gia đình ông NĐ Diệm, về buổi họp kín đáo bí mật giữa ông cố vấn NĐ Nhu và Phạm Hùng (MTGPMN) trong khu rừng Lộc Ninh. Chính quyền Mỹ có thể kết án rằng đây là âm mưu thầm kín nhằm “đâm dao sau lưng người Mỹ”;

    4)- Tác giả quên khuấy phong trào Pháp nạn chống đối gia đình NĐ Diệm (1962-1963) hàng trăm ngàn Phật tử xuống đường biểu tình gây bất ổn xã hội miền Nam, thực chất là có bàn tay lông lá của ĐCS VN (miền Bắc) giật dây sau lưng;

    5)- Tác giả không hề biết rằng gia đình ông NĐ Diệm đã có nhiều công lao vun trồng một chính thể trong sạch, nhân bản và khai phóng tốt nhất cho VN trong 9 năm ngắn ngủi. Nền giáo dục VNCH thời kỳ đó đã gieo trông nhiều hạt giống tốt về lòng yêu nước, tinh thần dân chủ, tính lý luận khoa học cho thế hệ trẻ, mà tôi đã từng hưởng được;

    6)- Tác giả quên rằng, theo thứ tự thời gian:

    a)- Hai năm sau Hiệp Định Geneve 1954 ký kết: TQ bắt đầu gửi chiến hạm xâm chiếm vài đảo nhỏ trong HS-TS (1956);

    b)- Hai năm sau đó : PV Đồng chính thức và công khai ký bức công hàm bán nước cho TQ (14/09/1958) để đổi lấy súng ống đạn dưọc nhằm thôn tính miền Nam;

    c)- Hai năm sau đó: Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời (1960) để chính thức khai chiến, vũ trang dùng bạo lực gieo rắc khủng bố xã hội miền Nam;

    d)- Hai năm sau đó: Phong trào Pháp Nạn bùng nổ vì một lý do ấu trĩ đòi hỏi treo cờ Phật Giáo khắp mọi nhà, đòi hỏi hưởng những ưu đãi ngang hàng với Công Giáo (1962-1963) mà tổ chức nhắm mục tiêu chính trị chính yếu, kích động đa số Phật tử hiền lành, khuấy động dư luận Mỹ và khiêu khích giới quân sự HK, đưa đến cuộc đảo chính lật đổ ông NĐ Diệm;

    Thiết nghĩ khi bàn về lịch sử cận đại VN thì chớ nên bỏ quên nhiều sự kiện nổi bật góp phần làm thay đổi vận mệnh dân tộc VN. Chúng ta thuộc thế hệ đi sau, nhờ có kiến thức KHKT, sống an toàn trong xã hội dân chủ Bắc Mỹ, học hỏi nhiều sự thật nhờ mạng lưới Internet đưa lại, thì cũng không nên nhắm măt’ nói càn để tiếp tục gieo rắc sai lầm mãi.

    Lê Quốc Trinh, Canada
    02-02-2014

    • NGUYEN HUU DU says:

      Bác Lê Quốc Trinh đòi hỏi một bài viết tổng quát tương quan giữa chiến tranh lạnh và cuộc chiến Hoàng Sa, mà phải mang hết nội dung của bác thì dài lê thê. Bác Trinh cay chuyện ông Diệm bị lật đổ nên viết càn về vụ Phật giáo. Rồi ông Nhu có gặp Phạm Hùng đâu mà bác nghe lời ông Cao Xuân Vỹ viết bậy. Lúc đó, Phạm Hùng đâu đã vào Nam. Bỏ đi chuyện “hoài Ngô” bác Lê Quốc Trinh.
      NHD

  4. Biệt động quân says:

    Tôi thấy chuyện này rất kỳ cục, vì VNCH luôn luôn tuyên bố là một quốc gia độc lập mà bất cứ việc gì VNCH cũng phải xin phép Mỹ, Mỹ cho làm thì mới được làm. Việc Bắc tiến để đánh giặc, giữ nước mà cũng phải xin phép Mỹ, Mỹ không cho thì đành chịu. Vậy VNCH đâu phải là quốc gia độc lập, có chủ quyền, mà đó là một quốc gia chư hầu hoàn toàn lệ thuộc Mỹ về mọi mặt.
    Có người nói rằng, nếu VNCH không nghe Mỹ thì Mỹ cắt viện trợ, không cấp vũ khí nên VNCH không giám tự tiện Bắc tiến. Vậy tại sao CS Bắc Việt bị Liên Xô và Trung Quốc, nhất là Trung Quốc, khuyên không nên đánh Mỹ vì không thể thắng Mỹ, năm 1968 Trung Quốc ngăn cản CS Bắc Việt đàm phán với Mỹ tại hiệp định Pari, Trung Quốc cắt giảm viện trợ quân sự và kinh tế, rút chuyên gia về nước, chặn hết vũ khí hạng nặng do Liên Xô viện trợ cho CS Bắc Việt, mãi sau 1975 mới trao trả cho CS Bắc Việt, ngăn cản CS Bắc Việt giành toàn thắng năm 1975 bằng cách nhờ đại sứ Pháp tại Sài Gòn khuyên Dương Văn Minh đừng đầu hàng để Trung Quốc giúp đỡ VNCH giữ miền Nam thành một quốc gia riêng nhằm có lợi cho Trung Quốc, vân vân… Vậy mà CS Bắc Việt vẫn cứ đánh Mỹ, đàm phán với Mỹ, đánh tan chế độ VNCH và giành toàn thắng ngày 30/4/1975.
    Thiết nghĩ, có lẽ đường lối, quyết sách, tầm nhìn chiến lược và sách lược về mọi mặt của ban lãnh đạo VNCH quá hạn hẹp, không đủ khả năng lãnh đạo một quốc gia, nên mới phải lệ thuộc tuyệt đối vào Mỹ về mọi mặt, và cuối cùng bị tan rã, đầu hàng không điều kiện, VNCH bị xóa tên trên bản đồ thế giới.

    • Nguyen Thien says:

      Anh BĐQ, miền Nam không có chủ trương chiến tranh. Trong hiến pháp của MN, họ không lấy chiến tranh, tấn công và Bắc Tiến làm mục đích cuả họ. Miền Nam chỉ tự vệ và không Bắc Tiến vì MN thuộc về thế giới tự do, họ đang xây dựng và hoàn thiện từng bước một chế độ dân chủ (vẫn còn chưa hoàn tất) và không có đủ tài chánh, thời gian và nhân lực thì ngu dại gì mà đi đánh nhau và xâm lăng Miền Bắc.

      Anh có biết cái giá mà MB xâm lăng MN là 1.146.250 liệt sĩ, 780.000 thương binh, 3000 nghĩa trang liệt sĩ, 780.000 ngôi mộ, 300.000 bộ đội còn đang mất tích; con số thiệt hại thật sự còn cao hơn nữa (có thể là 3 triệu hoặc 4 triệu người MB đã chết) vì ai mà không biết CS luôn luôn nói giối. (http://www.baomoi.com/Hoi-nghi-bieu-duong-nguoi-co-cong-tieu-bieu-toan-quoc-nam-2012-Am-ap-nghia-tinh-dong-chi-dong-doi/122/8840640.epi)

      Về mặt quân sự, MN không thể Bắc tiến vì

      1/ Dân Miền Bắc bị VC tuyên truyền quá mức, dân quân sẵn sàng đánh trả bất cứ “kẻ địch” nào, nên đánh ra Bắc sẽ bị thiệt hại rất nặng.. Thêm vào đó, trong khi dân chúng MN đang có cuộc sống văn minh, còn dân chúng MB do CS cai trị vẫn còn sống trong cuộc sống quá đơn sơ, nghèo khổ, sống theo chế độ “tem phiếu”. Cho đến tận bây giờ, 40 năm sau, cũng vẫn còn rất khó khai hóa được lớp cán bộ nhà Sản như hiện nay ta đã thấy. (Nhà văn Dương Thu Hương nói: Tôi khóc ngày 30 tháng Tư 75 vì thấy nền văn minh đã thua chế độ man rợ)

      2/ Miền Nam không có đủ có quân số để phòng thủ thì lấy đâu mà đem quân tấn công? MN chỉ có khoảng 14 sư đoàn 1,3,5,7,9,18,22,23, BĐQ, sư đoàn ND, sư đoàn TQLC. Việc phòng thủ MN là hết sức vất vả, nếu đem quân Bắc tiến thì bộ đội đánh úp hậu phương MN thì làm sao đây? Chưa kể là vũ khí của quân đội VNCH khá thô sơ trong giai đoạn 1954-1970. Giới chính trị gia Mỹ rất đểu, chúng chỉ trang bị cho QĐVNCH súng cá nhân bắn phát một, lên đạn, rồi mới bắn phát thứ hai như carbin M1, (chỉ có các đơn vị như ND, TQLC, BĐQ mới có súng M16); trong khi đó, bộ đội Bắc Việt được viện trợ 2 triệu khẩu AK-47.

      3/ Về tài chánh, Mỹ rất chặt chẻ về tiền bạc. Tất cả chiến phí trong chiến tranh VN là để chi trả cho quân đội Mỹ tham chiến ở VN. Bắt đầu từ 1967-1973, Mỹ mới viện trợ cho MN hàng năm trung bình chừng 1 tỷ-1,5 tỷ đô la về quân sự và dân sự. Trong khi đó, ở MB kể từ 1960-1975, Trung Quốc viện trợ 20 tỷ đô la và Liên Xô viện trợ 11 tỷ đô la. Số tiền thật sự mà TQ và LX viện trợ cho MB còn cao hơn nữa. Cho đến nay, viện trợ tài chánh và quân sự cho miền Bắc (MB) trong chiến tranh VN vẫn còn là sự bí mật mà TQ và LX chưa noí hết ra.
      ( http://hoangtran204.wordpress.com/2014/01/04/nam-1989-trung-quoc-lan-dau-tien-thua-nhan-goi-320-000-quan-qua-tham-chien-o-viet-nam-trong-nam-1965-1968-va-vien-tro-ha-noi-20-ty-do-la/)

      4/ Về mặt chiến lược, Mỹ chọn chiến lược phòng ngự như bài chủ đã viết. Mỹ rất tự cao tự đại khi tham dự chiến tranh VN đó là họ chỉ muốn ĐƠN PHƯƠNG đánh VC. Khi xem ra không thể ôm đồm và bị thiệt hại nhân mạng khá nhiều, và đồng thời họ nhận ra QĐVNCH thiện chiến, thì cũng là lúc mà họ lên kế hoạch rút quân về nước (1970). Khi ấy, họ mới bắt đầu bàn giao súng M16 cho các sư đoàn bộ binh trong QĐVNCH (1970, 1971). Trước khi rút khỏi VN năm 1973, Mỹ tháo gỡ các vũ khí có hỏa lực mạnh trên các tuần dương hạm, hộ tống hạm do Hải Quân VNCH đang sử dung. (Tài liệu nói về các sự kiện này đầy rẫy trên mạng, chỉ cần bỏ vài phút search trên google.com là đọc được). Đến năm 1974, thì đạn dược, nhiên liệu, thuốc men ngành quân y bắt đầu thiếu hụt trầm trọng, và QĐVNCH phải dè xẻn, quân viện năm 1974 còn 700 triệu đô la, năm 1975 chỉ còn 300 triệu đô la…và MN phải thua cuộc. Trái lại, trong thời gian từ 1971-1975, thì số quân viện của MB được tăng vọt lên, vì LX và TQ tranh đua nhau viện trợ cho MB để tranh dành MB. (theo Lịch sử Kinh tế Việt Nam của Đặng Phong)

    • lethiep says:

      Dư lợn viên đọc bản tin dưới đây nhá :

      Tác giả: Trọng Đạt : Theo bản tin của BBC.com ngày 10-5-2006 một buổi hội thảo qui mô tổng kết cuộc chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm 2006, cuộc hội thảo tập hợp nhiều tham luận của các sử gia và tướng lãnh trong quân đội Bắc Việt. Trong số các bài đọc ở hội thảo, tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng thuộc Viện Lịch Sử Quân Sự Cộng Sản Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc trong cuộc chiến.

      Tham luận ghi nhận trong 21 năm chiến đấu, Việt Nam “đã nhận được sự ủng hộ chí nghĩa, chí tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới , đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.”

      Bài viết thống kê những con số về vũ khí, đạn dược và trang bị kỹ thuật mà khối xã hội chủ nghĩa đã viện trợ.

      Khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN viện trợ từ năm 1955 đến 1975 qua từng giai đoạn như sau:

      Giai đoạn 1955-1960: Tổng số 49,585 tấn gồm : 4,105 tấn hàng hậu cần, 45,480 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật trong đó Liên Xô viện trợ 29,996 tấn, Trung Quốc viện trợ 19,589 tấn.
      Giai đoạn 1961-1964: Tổng số 70,295 tấn gồm 230 tấn hàng hậu cần, 70,065 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, trong đó Liên Xô: 47,223 tấn: Trung Quốc 22,982 tấn, các nước XHCN khác 442 tấn.
      Giai đoạn 1965-1968: Tổng số 517,393 tấn, gồm 105,614 tấn hàng hậu cần và 411,779 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, trong đó Liên Xô 226,969 tấn, Trung Quốc 170,798 tấn , các nước xã hội chủ nghĩa khác 119,626 tấn.
      Giai đoạn 1969-1972: Tổng số 1,000,796 tấn gồm 316,130 tấn hàng hậu cần, 684,666 tấn hàng vũ khí, trang bị kỹ thuật trong đó Liên Xô :143,793 tấn, Trung Quốc 761,001 tấn , các nước xã hội chủ nghĩa khác 96,002 tấn.
      Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724,512 tấn gồm 75,267 tấn hàng hậu cần , 649,246 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật, trong đó Liên Xô: 65,601 tấn, Trung Quốc 620,354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác : 38,557 tấn

      *** Sau khi Mỹ rút, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà:

      -Tài khoá 1973 : hai tỷ mốt (2,1 tỷ)
      -Tài khoá 1974 : một tỷ tư (1,4 tỷ)
      -Tài khoá 1975 : bẩy trăm triệu (0,7 tỷ). – , trong khi đó thì cuộc khủng hoảng dầu lửa đã làm giá săng nhớt tăng gấp bốn . Bởi vậy mãi lực thật của ngân khoản ấy chỉ là trên dưới 350 triệu, bằng 3% của mức chi tiêu 1970-71.

    • lethiep says:

      Này dư lợn viên, những đứa nào làm tay sai, nhận chỉ thị của bọn đế quốc Trung- Xô là dưới đây này :

      Tổng bí thư Lê Duẩn : “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” .

      Trong thư đề ngày 06-6-1938, Hồ chí Minh gửi Lenin. “Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó, hay là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi một việc làm gì mà theo đồng chí cho là có ích” . (Trích Hồ Chí Minh Toàn Tập . Sách của đảng cộng sản Việt Nam)

      Trong “Hồ Chí Minh Toàn Tập”, HCM viết: “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin và Quốc Tế IIIlà một đảng cộng sản thế giới. Các đảng cộng sản ở các nước, như là chi bộ, đều phải tuân theo kế hoạch và qui tắc chung. Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Quốc Tế 3 thì các Đảng không được làm.”

      Khi Lenin qua đời, Hồ chí Minh viết trên tờ báo Pravda của đảng CS Liên Xô, số ra ngày 27/1/1924 , như sau :

      “Khi còn sống, Người là cha, là thày, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Nay Người là ngôi sao dẫn đường đưa tới cách mạng xã hội. Lênin sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta. Người bất tử . ”

      Rồi khi Stalin qua đời, phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng sản Tố Hữu làm thơ :

      Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
      Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?
      Thương cha, thương mẹ, thương chồng
      Thương mình thương một, thương Ông thương mười

    • lethiep says:

      Tổng thống Nga Putin : Kẻ nào tin những gì Cộng sản nói là không có cái đầu.

      Nguyễn Khải -đại tá Cộng sản: Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ và không hề run sợ .

      Người Việt hải ngoại hưỡn đâu mà ngồi đọc tài liêu của bọn ngụy quyền Việt cộng . Xem ra chỉ có dư lợn viên bdq mới rớ tới những đống rác đó để quăng lên diễn đàn .

      Không có súng đạn của Trung- Xô thì bè lũ Hồ chí Minh có xâm lược được Miền Nam không hử dư lợn viện ?

      Xót thương cho dân Việt sống khốn khổ trong sự kềm kẹp của Quỷ Đỏ Việt cộng ” Miền Bắc điêu tàn nên đời họ khổ “, nên Miền Nam mới nảy sinh khát vọng giải phóng Miền Bắc, khốn thay, Hoa kỳ không chịu giúp cho súng đạn để thực hiện khát vọng này .

      Người Mỹ chỉ đồng ý chi tiền cho Miền Nam tung những nhóm biệt kích ra Miền Bắc với những nhiêm vụ thu thập tin tức tình báo, phá hủy vài mục tiêu quân sự , rải truyền đơn …mà thôi . Khởi đầu, những nhóm này trực thuộc Sở Khai Thác Địa Hình do đại tá Lê Quang Tung chỉ huy, dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm.

      Còn những đứa nào gây chiến tranh thì chúng nó đã tự khai dưới đây nè :

      Ngay khi Hiệp Ước Genève 1954 chưa kịp ráo mực, Việt Minh đã trắng trợn vi phạm, bí mật gài để lại Miền Nam 60,000 đảng viên :

      Trong “Tổng Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học”, Hà Nội, 1996, cho biết năm 1954, Hồ chí Minh đã để lại Miền Nam 60,000 đảng viên .

      Theo Võ văn Kiệt trong “Nhớ Đồng Chí Lê Duẩn” đám đảng viên này được đặt dưới quyền lãnh đạo của Lê Duẩn – Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ. Vào ngày cuối cùng của thời hạn tập kết ở Cà Mau, sau khi giả bộ lên tàu tập kết, Lê Duẩn đã tìm cách rời khỏi tàu vào lúc nửa đêm để ở lại . Võ Văn Kiệt viết “Chiếc tàu áp chót neo đậu ở thị trấn Sông Đốc, Cà Mau, Anh Ba lên tàu như người đi tập kết để che mắt kẻ thù, đến nửa đêm, Anh bí mật rời tàu, quay trở lại “.

      **”Ai gây ra Cuộc Chiến Việt Nam ?” – Sử gia Trần Gia Phụng : Trong thời gian nghỉ họp, Chu Ân Lai- thủ tướng Trung Quốc và là trưởng phái đoàn Trung Cộng tại Genève- về nước và mời Hồ Chí Minh bí mật hội họp tại thị trấn Liễu Châu (Liuzhou), thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), từ 3 đến 5-7-1954.

      Trong cuộc họp Liễu Châu, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai Việt Nam, đồng thời Châu Ân Lai còn đưa ra kế hoạch cho Việt Minh (VM) ( tức phe Hồ chí Minh) rằng trước khi rút ra Bắc, VM nên kiếm cách phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, để hữu dụng về sau.

  5. quang phan says:

    Thỏa ước Hoa kỳ – Liên xô chia đôi vùng ảnh hưởng đưa dân Trung và Đông Âu châu vào Thiên Đường Mù Cộng sản

    Trong chuyến du hành năm ngày ở Nga và Âu châu, khi dừng chân ở xứ Latvia ngày 7/5/2005, Bush tuyên bố Hoa kỳ nhận lỗi lầm đã ký thoả ước Yalta năm 1945 chia đôi ảnh hưởng ở Âu châu với Nga sô, và do đó đã khiến cho hàng triệu người ở các nước vùng Đông và Trung Âu rơi vào tay Cộng sản.
    Hiệp định Yalta được ký kết khi Trận Thế Chiến Thứ Hai sắp chấm dứt giữa ba lãnh tụ Franklin Roosevelt của Hoa kỳ, Winston Churchill của Anh, và Josef Stalin của Nga.

    Bush condemns Soviet oppression, expresses regret for U.S. role.
    Article from: Knight Ridder Washington Bureau (Washington, DC) | May 7, 2005 |

    RIGA, LATVIA _ President Bush on Saturday called Soviet oppression in Europe “one of the greatest wrongs of history” and accepted some American blame for it.

    Speaking to a Latvian audience with bitter memories of Soviet domination, Bush expressed regrets about the 1945 Yalta agreement that divided Europe into U.S. and Soviet spheres of influence. The pact, approved by Franklin Roosevelt, Winston Churchill and Josef Stalin near the end of World War II, effectively cleared the way for the creation of Soviet satellites in Eastern and Central Europe.

    Bush said the agreement “left a continent divided and unstable” and led to the “captivity of millions” of Europeans who fell under Soviet control.

  6. quang phan says:

    Tác giả Trần Gia Phụng : … Nixon và Kissinger dự liệu là Việt Nam Cộng Hòa có thể bị sụp đổ trong vòng 18 tháng sau hiệp định Paris. Tuy nhiên, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng…..
    Nghe câu nầy thì thật buồn cho thế thái nhân tình, nhưng đồng thời phải khâm phục sức chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa ” .Trích

    The Paris “Peace” Accords Were a Deadly Deception . (Jan 31, 2013) . “… that Saigon, “even when fully modernized,” would not survive “without U.S. combat support in the form of air, helicopters, artillery, logistics and major ground forces. “-

    ( Tạm dịch: Sài gòn, cho dù được tối tân hóa đầy đủ, sẽ không tồn tại mà không có sự hỗ trợ quân sự của Hoa kỳ từ không yểm, trực thăng, pháo binh, tiếp liệu và các lực lượng bộ chiến “) .

    Hì hì . Đồng Minh chỉ muốn “tháo chạy” nên suy luận nhảm . Thử hỏi trong quá khứ ,quân đội Việt Nam Cộng Hòa có bao giờ từng được tối tân hóa không để mà nay có thể suy diễn được khả năng chiến đấu của họ ra sao nếu được trang bị với những vũ khí tối tân như của quân đội Hoa kỳ ?

    Đa số các xe tăng, đại bác , phi cơ, tàu chiến mà quân đội Miền Nam có trong tay đều thuộc loại chế tạo hay sản xuất từ những thập niên 40 và 50.

    Nói về không yểm thì quân đội Hoa kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đều phải cần đến sự yểm trợ của các phi cơ phản lực loại F, pháo đài bay và Hạm Đội 7 .

    Đồng Minh chỉ có hai chữ “tháo chạy ” trong đầu nên quên lãng kết cuộc của Cuộc Chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Dù không có bộ binh Hoa kỳ trợ lực , đạo quân nhà nghèo Miền Nam, tuy chỉ được chi viện bèo 2 tỷ đô la – so với chiến phí 26 tỷ mà hơn nửa triệu lính bộ chiến Hoa kỳ trong năm 1968 phải cần đến – đã đánh tan tác 14 sư đoàn chính quy, 26 trung đoàn đôc lập với đại pháo 130 ly và hơn 600 xe tăng T-54 của quân Bắc phương xâm lược .

  7. Nguyễn Văn says:

    Chiến tranh lạnh đã làm tăng sức mạnh của Mỹ cả về quân sự và kinh tế. Nhưng sức mạnh của Mỹ ngày càng yếu dần khi không còn đối thủ. Ngày nay, đối thủ của Mỹ không phải là Tàu, Nga, hay bất cứ nước nào mà là lòng sợ hãi.

    VOA: Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khẳng định sự chú trọng tới hoạt động ngoại giao; chính phủ Obama chuyển trọng tâm chính sách đối ngoại từ hành động quân sự sang ngoại giao.

    Thế này là thế nào?
    Thật là sai lầm. Quân sự không mạnh thì làm sao tiếng nói ngoại giao có trọng lượng? Sức mạnh mềm mà không tiền không súng đạn thì nói ai sẽ nghe?
    Chính sách co vòi này thì đồng minh chỉ với Mỹ chỉ có mà … chết! Mong ông tổng tư lệnh này xuống lẹ lẹ kẻo Mỹ đang yếu ngày càng yếu thêm. Ông phó hay bà cựu ngoại trưởng cũng không đủ sức đấu với thế trận mới; cần một ông tông tông cứng rắn để… cứu Mỹ.

    • Tudo.com says:

      @Nguyễn Văn says:

      Ông nào, Bà nào cũng vậy thôi, ngôn ngữ của giới chính trị mà.

      Bây giờ Trung Cộng không cần đánh Mỹ, chỉ tấn công Đài Loan hay Nhật thôi !

      TC có dám thử không ? ? ?

  8. quang minh says:

    Sự lệ thuộc ngoại bang thời nào cũng thế.Không ai cho không ta bất cứ cái gì,quyền lợi vẩn là cốt lỏi.Phải thành thật công nhận rằng nếu hai miền Nam-Bắc Việt nam không dựa vào ngoại bang thì không có cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn bôi đen lịch sử 4000 năm văn hiến.Nhưng người CS Miền Bắc không phải chỉ dựa mà lại làm tay sai cho ngoại bang mới đưa đến thảm cảnh như ngày hôm nay với thân phận một thuộc địa kiểu mới của Trung Quốc.Phải làm sao đây?

    • Tudo.com says:

      @quang minh says:”thân phận một thuộc địa kiểu mới của Trung Quốc.Phải làm sao đây?”

      Phải. . .Diệt cho được đám Việt Gian CS !

  9. Phan Huy says:

    Hận Hoàng Sa

    Bãi Cát Vàng, Bãi Cát Vàng
    Cô đơn giữa biển, thênh thang nước trời;
    Ấy hòn đảo nhỏ quê tôi,
    Hoàng sa hai tiếng, nghìn đời gọi tên.
    Cớ sao giặc nước Hồ Minh,
    Đem dâng đại Hán, tỏ tình chúa tôi.
    Một ngày đen tối bảy tư,
    Biển đông dậy sóng, giặc thù vào đây.
    Tàu to, súng lớn, giăng đầy,
    Hăm he chực nuốt đảo gầy bơ vơ.
    Miền Nam thân yếu thế cô,
    Đồng minh đã đánh nước cờ thí xe.
    Giặc đông bủa kín tứ bề,
    Những toan lấy thịt quyết đè Hoàng sa.
    Xả thân bảo vệ sơn hà,
    Tận trung báo quốc, Văn Thà lưu danh.
    Xưa Hoàng Diệu chết theo thành,
    Ngày nay Nguỵ soái bỏ thân theo tàu.
    Bảy tư nghĩa sĩ trước sau,
    Đã cùng chiến hạm đi vào sử xanh.
    Bây giờ đã bốn mươi năm,
    Còn nghe vọng khúc quân hành Hoàng Sa:
    “Ta là người lính quốc gia
    Liều thân bảo vệ quê nhà dấu yêu
    Xác ta gởi đảo tiền tiêu
    Hồn ta theo sóng thuỷ triều hồi hương
    Về cùng đất mẹ thân thương
    Góp phần ngăn rợ bắc phương hung tàn.”
    Phách người chiến sĩ hải quân
    Còn vương theo ngọn Cờ Vàng hôm nay.

    http://fdfvn.wordpress.com

  10. Quốc Lê says:

    Cám ơn sử gia Trần Gia Phụng, đã đưa ra những dữ kiện lịch sử cùng các phân tích rất cụ thể, phù hợp với tình hình hiện nay.
    Thực sự Đảng CSVN chỉ là một bọn phản quốc, sẳn sàng bán nước cầu vinh, tự nguyện làm tay sai cho ngoại bang. Với sự hổ trợ tối đa của Liên Sô và Trung Cộng, đã thôn tính miền Nam VN và thống trị trên toàn lãnh thổ VN. Giờ đây Đảng CS đã hiện nguyên hình , chỉ là một bọn cướp , ngu dốt, tham nhũng, tàn ác với dân mà hèn nhát trước kẻ thù. Chính bọn họ đã tạo một đất nước với đầy dẫy đĩ điếm và cướp bóc, một xã hội ngày càng xa rời đạo đức, mỗi ngày xảy ra biết bao điều ghê tởm.
    Cũng như hầu hết những người Việt nam quan tâm tới sự tồn vong của đất nước, tương lai của dân tộc, tôi vững tin là Đảng CS VN và bọn cầm quyền sẽ sớm bị nhận chìm bởi làn sóng dân chủ trong nước, đang ngày một dâng cao. Ngươi dân trong nước ngày càng nhìn rõ bộ mặt man rợ bán nước cầu vinh của bọn họ và ý thức được trách nhiệm của mình. Họ đã dần dần bước ra khỏi bóng tối của sự sợ hãi kéo dài bao thập niên qua, Nhất định bọn CSVN sẽ không tồn tại lâu dài nữa và lịch sư dân tiếc sẽ ghi tội ác tày trời của bọn họ.
    Hởi những người Việt nam còn lương tri, hãy một lòng đứng lên làm lịch sử. Các chế độ CS trên thế giới đã cáo chung từ lâu, bức tường ô nhục Đông Đức đã bị đập nát, chẳng lẽ chúng ta cứ để cho bọn CS VN đè đầu cỡi cổ mãi hay sao? Tuổi trẻ và trí thức Việt nam hãy nêu gương tiên phong, chứng tỏ cho thế giới biết, người Việt nam chúng ta không hèn, không khiếp nhược, sớm đưa dân tộc ra khỏ đám “mây mù thế kỷ”
    Cả thế giới đang ở bên cạnh chúng ta!

Phản hồi