Cuối tháng 3/75 tuyến đầu thất thủ [2]
Tiếp phần [1]
Phạm Huấn nói:
“Tại những địa điểm tập trung quân, vô cùng hỗn loạn, đau thương khủng khiếp. Và hai Cửa Thuận An, Tư Hiền thật sự biến thành những “bãi chết”, trong vùng “Biển máu”
(Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 58).
Theo ông triệt thoái vội vã, không có kế hoạch, lịch trình, sự phối hợp Quân đoàn và Hải quân lỏng lẻo, cuộc lui binh cũng hỗn độn y như cuộc triệt thoái Cao nguyên, nó cũng chỉ là cuộc hành quân phá sản.
“Cuộc rút quân đã rối loạn, hỗn độn và thất bại ngay khi bước sang ngày thứ hai, 24-3-1975. Hệ thống chỉ huy, phối hợp giữa các đơn vị, vấn đề an ninh, tổ chức thật tồi tệ và bị tê liệt từ lúc khởi đầu. Các cấp chỉ huy ở những cấp cao nhất và có trách nhiệm về cuộc rút bỏ Huế, đã không thành thật với nhau, phản bội, dối trá và bỏ rơi cấp dưới.
Kế hoạch rút quân bằng đường biển, với hơn 20 ngàn Chủ lực quân, hàng mấy trăm chiến xa, đại bác, cùng với cả trăm ngàn dân chúng, các lực lượng địa phương quân, công chức và gia đình họ, nhưng hai cửa Thuận An và Tư Hiền không được phòng thủ bảo vệ. Sự phối hợp và chỉ huy giữa Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn và hải quân thật lỏng lẻo. Không có lịch trình lên tầu ưu tiên, rõ ràng cho các đơn vị. Các đơn vị Quân Đội và dân chúng cứ tiếp tục đổ về hai cửa biển này để rồi chết chồng chất lên nhau”
(Phạm Huấn, sách đã dẫn, trang 57)
Nói về nguyên nhân sự sụp đổ nhanh chóng của Quân đoàn I, ông Cao Văn Viên, cho rằng do sự rối ren của ta và nhất là lệnh của TT Thiệu không rõ ràng dứt khoát.
“Với cán cân lực lượng và địa hình thuận lợi cho CSBV, Vùng I, lực lượng VNCH không thể nào chống cự lâu dài trong cuộc tổng tấn công của địch. Nhưng phải nói, tình hình quân sự xấu đi một cách nhanh chóng vì sự sa sút tinh thần và những rối ren, lúng túng của ta, hơn là áp lực địch. Lệnh tái phối trí – tuy cần thiết – không rõ ràng và dứt khoát”
(Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 183)
Theo Tướng Viên binh sĩ nhiều người bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình trong làn sóng người tỵ nạn, họ quan tâm lo lắng về gia đình mình hơn là lo về đơn vị và sự tấn công của CS. Làn sóng người di tản làm náo loạn cả lên đã là một trong những nguyên nhân gây ra sụp đổ nhanh chóng cho cả Quân khu.
“Sự hỗn loạn, thất bại của cuộc tái phối trí ở vùng Một xảy ra không phải vì áp lực của Cộng quân, mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Trong những ngày cuối cùng ở Vùng I, vị tư lệnh Quân đoàn không chỉ đối phó với những khó khăn về quân sự, ông còn bận tâm với vấn đề tỵ nạn. Và khi chánh quyền trung ương bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ. Như chúng ta thấy, vấn đề tị nạn làm đảo lộn tất cả kế hoạch quân sự của Vùng I.”
(Cao Văn Viên. Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 184,185.)
Chúng ta thấy ông Cao văn Viên có nhiều mâu thuẫn, ông cho biết lực lượng địch tới hơn 8 sư đoàn (trang 160), gấp hai lần VNCH, ta không thể cầm cự lâu dài được, coi trên bản đồ ngày 19/3 (trang 166) ta chỉ còn kiểm soát được chưa tới 1/3 diện tích Quân khu I. Trong khi tại phía Bắc QK I phải rút từ Huế về Đà Nẵng, các tỉnh phía Nam Quân khu (Quảng Ngãi, Quảng Tín) đều phải hối hả rút về Chu Lai vì bị BV tấn công dữ dội mà ông lại nói không phải vì áp lực địch. Chẳng lẽ sự tấn công ồ ạt theo thế gọng kìm trên đánh xuống dưới đánh lên của BV không phải là áp lực gây hỗn loạn cho quân dân miền nam.
Tác giả Nguyễn Đức Phương (Sách đã dẫn trang 762, 763, 764) cho rằng Quân khu I thất thủ dễ dàng không có một lực lượng nào được tổ chức để đánh trì hoãn khi lui binh, theo ông có 4 nguyên nhân chính.
-Lực lượng Cộng Sản tại Quân khu I trội hơn nhiều so với sự phân tán mỏng của ta. Kế họach lui binh về các cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai có thể đúng tuy nhiên TT Thiệu chỉ chấp nhận lui binh cho đến giờ phút chót. Đến khi đã quá muộn ông lệnh cho Tướng Trưởng chỉ rút Sư đoàn TQLC còn tất cả bộ binh, thiết giáp, pháo binh đều bỏ lại, không có một kế hoạch nào để phối hợp Hải Lục Không quân trong trường hợp lui binh, hoàn toàn không có một sự tiên liệu nào.
-Ông Thiệu sai lầm trầm trọng khi cho rút Sư đoàn Dù về Vùng III quá nhanh, TQLC được đưa vào thay thế các vị trí của Nhẩy Dù khiến cho dân chúng hốt hoảng đổ dồn về Đà nẵng gây ra hỗn loạn. Đã phát thanh lời kêu gọi tử thủ Huế củaTổng thống sau lại cho lệnh bỏ Huế khiến dân chúng hoang mang mất tin tưởng vào chính phủ và quân đội, binh sĩ cũng mất tinh thần, hốt hoảng khi trông thấy trước nguy cơ sụp đổ như đã diễn ra tại Vùng II.
-Chiến tranh tâm lý có lẽ là nguyên nhân quyết định sự thất thủ Quân khu 1, tin đồn cắt đất nhường cho CS dồn dập từ Vùng II, nay Huế bỏ ngỏ khiến cho dân quân càng tin là đúng, dân di tản náo loạn cả lên, quân nhân bỏ hàng ngũ để tìm kiếm gia đình khiến cho đơn vị rã ngũ nhanh chóng.
-Hệ thống chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân đoàn I đã không chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn khó khăn của cuộc lui binh, thiếu khả năng vô trách nhiệm là nguyên nhân chính khiến cho kế hoạch lui binh không thể thực hiện được. Vị Tư lệnh Quân đoàn thiếu khả năng điều động một bộ tham mưu hỗn hợp như Phạm Huấn đã viết.
Cũng theo Nguyễn Đức Phương nhiều sĩ quan cao cấp của Quân đoàn I mất tinh thần đào ngũ bỏ chạy, thiếu cấp chỉ huy các đơn vị lần lượt tan hàng, Cộng quân chiếm được đất mà không phải giao tranh.
Phạm Huấn nhân định rằng các Tướng Việt Nam gặp trở ngại khi lãnh đạo đất nước cũng như chỉ huy mặt trận.
“Một viên chức cao cấp của Mỹ, sau này đã phát biểu về cuộc rút quân tại Huế và Đà Nẵng:
‘Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, hầu như không ai có đủ kinh nghiệm, để tự mình có thể chỉ huy một cuộc hành quân qui mô với nhiều đại đơn vị trên chiến trường!’.
Sự sụp đổ mau chóng của Quân Đoàn I, vỏn vẹn trong 9 ngày, sau quyết định rút bỏ Huế lần thứ hai ngày 20-3-1975, đã làm kinh ngạc mọi giới. Những người ngưỡng mộ và kính phục Tướng Ngô Quang Trưởng đều nghĩ rằng, sự thảm bại này là hậu quả của quyết định sai lầm, trong chiến lược “Đầu bé Đít to’ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Nhưng theo thời gian, những bí mật được tiết lộ, Tướng Trưởng cũng là người phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất đối với những đau thương, kinh hoàng trong hai cuộc rút quân tồi tệ, thê thảm từ Huế và Đà Nẵng”
(Sách đã dẫn, trang 103, 104.)
Cuộc triệt thoái tại hai quân khu đều đã xẩy ra những biểu hiện tiêu cực của nhiều sĩ quan cao cấp bỏ đơn vị chạy, cả một quân khu không có ai chịu trách nhiệm.
“Kể từ ngày 15-3-1975, hệ thống chỉ huy tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I của Tướng Lâm Quang Thi và các Tư Lệnh Mặt trận 2 chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên đã không còn giữ đúng với trách nhiệm, quyền hành và vai trò của mình nữa. Không một Tướng Lãnh, một giới chức Quân sự cao cấp nào dám nhận trách nhiệm khi cần ban hành những quyết định quan trọng. Trung tá Đào Trọng Vượng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân nói rằng: ‘Họ lặn hết. Tất cả những lệnh đều do các Sỹ quan Phòng Nhì, Phòng ba, cấp Thiếu Tá chuyển lại’.
Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân từ Quảng Ngãi ra thay thế Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, phòng thủ tuyến đầu Vùng Giới Tuyến. Lực lượng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân với quân số 100 phần trăm, và Pháo Đội đại bác 105 ly khoảng 1500 người, từ ngày đầu tiên, cho đến ngày rút quân 23-3-1975, gần hai tuần lễ, không nhận được bất cứ một lệnh chính thức nào của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I, hoặc Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến”
(Phạm Huấn sách đã dẫn, trang 41.)
Nguyễn Đức Phương cùng một nhận xét như trên.
“Theo lời của Đại tá Nguyễn Huy Lợi thuộc Biệt Khu Thủ đô thì một số sĩ quan thuộc Quân đoàn I chạy thoát được về Sài Gòn cho biết tình trạng của quân đoàn như sau ‘Cấp tiểu đoàn không biết họ phải làm gì. Trung đoàn trưởng của họ đã đi mất và chính họ không biết phải đi đâu và không ai chỉ thị cho họ biết những gì phải làm. Sau quá nhiều chán nản tuyệt vọng, không một ai chịu trách nhiệm cho cả quân khu”
(Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 764, 765)
Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng cho rằng việc cấp chỉ huy bỏ đơn vị chạy trước là một nguyên nhân đưa tới sụp đổ Quân đoàn I, theo ông tại đây cấp chỉ huy không quân nhiều người đã lên trực thăng bay về phía Nam bỏ cấp dưới ở lại.
Sự thực khó thể chối cãi được là áp lực và hỏa lực vô giới hạn của BV đã khiến quân đội VNCH phải rút bỏ nhiều tỉnh, quận để co cụm lại lập phòng tuyến mới nên càng bị mất tinh thần. Các cấp chỉ huy không thấy một tia ánh sáng nào, ngay cả TT Thiệu cũng đã mất tinh thần rối trí chứ đừng nói các cấp thuộc hạ. Biết là tình thế không thể cứu vãn nổi nên nhiều người đành phải chọn kế “tẩu vi thượng sách”.
Theo ý kiến Tướng Toàn (trang 405, Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975), mặt trận Trị Thiên bỏ ngỏ vì TT Thiệu đã chủ trương rút bỏ những vùng rừng núi ít dân để bảo vệ những vùng trù phú. QK I chỉ giữ tới Đà Nẵng. Đó là một quyết định tai hại là nguyên nhân chính đưa tới thảm kịch như trên. Trang 407 ông nói đài BBC bình luận miền nam VN có thể sẽ chia cắt ngang từ vĩ tuyến 13, miền nam khó có thể tồn tại được, nguồn tin đã thúc đẩy quân dân hối hả chạy về phương nam. Quân đoàn II bị thảm bại trên đường triệt thoái cũng đã ảnh hưởng nặng đến tinh thần QK I. Sáng ngày 20/3, TT Thiệu đã tuyên bố tử thủ Huế đến chiều lại cho lệnh rút bỏ khiến người dân không ai còn tin tưởng vào chính phủ.
Phải nói đài BBC tuyên truyền xuyên tạc với mục đích phá hoại hơn là loan tin cũng là một trong những nguyên nhân chính đưa tới thảm cảnh hỗn loạn, tháo chạy tại miền Trung.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, người đóng vai chính tại chiến trường Hoả tuyến có viết sách về cuộc chiến Mùa hè đỏ lửa 1972 nhưng không thấy, không nghe nói ông viết sách về sự sụp đổ Quân đoàn I năm 1975. Về Quân đoàn I trong trận chiến này chỉ thấy ghi lại trong một bài ngắn “Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn Một” đã đăng trên nhiều báo Việt Ngữ tại Hải ngoại từ nhiều năm qua. Nhưng bài này không phải do chính Tướng Trưởng viết ra mà do một người khác ghi lại (Lê Bá Chư, Lịch sử ngàn người viết) lời thuật của Tư lệnh nên cũng không thể coi đó là hoàn toàn ý kiến của ông.
Nội dung bài viết có nhiều điểm trái ngược với các tài liệu, sách vở nói về cuộc Triệt thoái này. Mở đầu bài viết nói.
“Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh binh chủng khác. Lần này thì chỉ một mình tôi thôi”
Theo ông Cao Văn Viên, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương và cả ý kiến của Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư lệnh phó Quân khu I thì trong các buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại dinh Độc Lập ngày 11/3, ngày 13/3 và 19-3 do ông Thiệu chủ tọa như đã nói trên đều có mặt Đại Tướng Cao Văn Viên, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng Văn quang, riêng buổi họp ngày 19-3 thì có thêm Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Tổng thống Thiệu không hề gặp riêng một Tướng nào, không nghe thấy một tài liệu nào nói như vậy. Về ngày 13/3 nêu trên, Tướng Hoàng Lạc, phó Tư lệnh Quân khu 1 cho biết Tướng Trưởng được mời về Sài Gòn trình bầy trước Hội đồng an ninh Quốc gia, các tài liệu của BộTTM, của Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương cũng đều nói như vậy.
Bài viết nói tiếp
“Nhưng khi tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi…..
… Tôi trình bầy cặn kẽ những ý kiến cũng như những dự định của tôi lên tổng thống nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút khỏi Quân Đoàn 1 càng sớm càng hay….
Lệnh của tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt nam sẽ thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên”
Theo Tướng Cao Văn Viên, Tướng Hoàng Lạc, tác giả Nguyễn Đức Phương… trong phiên họp ngày 13/3 TT Thiệu chỉ mới lệnh cho Tướng Trưởng rút Sư đoàn Dù về Sài Gòn và báo cáo tình hình Quân sự của Vùng I, không nghe nói ông Thiệu cho lệnh rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm 13/3 như trong bài của Tướng Trưởng. Theo ông Cao Văn Viên.
“Buổi họp ở Dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng 3, 1975 đã được thuật lại rõ ràng ở trên. Trong dịp đó tổng thống Thiệu đã cho hai vị tư lệnh quân đoàn I và III (tướng Trưởng và tướng Toàn) biết ý định sắp xếp lại lãnh thổ VNCH sao cho phù hợp với sự cắt giảm viện trợ quân sự. Tuy nhiên tổng thống Thiệu chưa cho lệnh rút quân ở bất cứ nơi nào lúc đó, trừ việc bỏ An Lộc ở vùng III. Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14 tháng 3 xảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam Ranh tổng thống Thiệu ra lệnh tái phối trí lực lượng của quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột”
(Những Ngày Cuối Của VNCH trang 162)
Theo như Nguyễn Đức Phương đã nói ở trên, Tổng thống Thiệu chỉ chấp nhận lui binh vào giờ phút chót. Ngày 13/3 ông Thiệu chỉ thị cho Tướng Trưởng trả Sư đoàn Dù về Sài Gòn và tái phố trí lực lượng tại Quân khu I chứ chưa hề cho lệnh rút bỏ bất cứ một tỉnh nào. Cho đến ngày 20/3 khi tình hình Huế khẩn trương ông lệnh cho Tướng Trưởng tùy cơ ứng biến, có thể rút về bảo vệ Đà Nẵng nếu tình hình đòi hỏi.
Trong một cuộc nói chuyện với một nhà báo tại Hải ngoại, cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cho rằng những bài nói về ông, khen cũng như chê có nhiều điều không đúng và ông không thích báo chí nói đến mình, như vậy bài trên đây có thể chưa chắc đã nói đúng ý của vị cựu Tư lệnh Quân khu.
Trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh, Tướng Cao Văn Viên đã kết luận.
“Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim ‘Rashomon’. Một trăm nhân chứng, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hãy để cho hậu thế lượng định và phán xét”
(Lâm Lễ Trinh, Về Nguồn, trang 276).
Xem như thế sự thật chỉ là tương đối. Cũng trong bài phỏng vấn này, theo ông Cao Văn Viên, Tướng Trưởng cho biết Bộ tổng tham mưu không tăng viện theo lời yêu cầu của Quân khu I. Tướng Viên cho điều này không đúng vì ông đã tăng cường cho Tướng Trưởng cả hai Sư đoàn tổng trừ bị Dù và TQLC rồi. Bộ Quốc phòng Mỹ trả nhuận bút cho các Tướng lãnh lưu vong Việt Nam để viết tài liệu về chiến tranh Đông Dương. Trong một phiên họp thu thập dữ kiện cho Mỹ, Tướng Trưởng phát biểu sở dĩ thất bại là do lãnh đạo kém, chính phủ Trung ương thiếu nhân tài. Tướng Đồng Văn Khuyên, Trần Đình Thọ bênh vực cho Bộ TTM tranh luận trả lời ông Trưởng: Bộ Tham mưu đã yểm trợ hết mình cho Quân khu I, hai Sư đoàn Tổng trừ bị Dù và TQLC đều đã được tăng phái cho Quân đoàn I.
Như chúng ta đã biết năm 1972 cũng tại chiến trường Trị Thiên, hồi ấy VNCH có đầy đủ tiếp liệu đạn dược, được yểm trợ hùng hậu của không quân chiến thuật và pháo binh mà còn phải có yểm trợ của B-52. Tình hình tháng 3/1975 hoả lực VNCH bị cắt giảm 70%, áp lực và hoả lực BV lại mạnh hơn 1972 nhiều. Cái khó nó bó cái khôn, lãnh thổ quá rộng, lực lượng tổng trừ bị không còn. Ngoài ra TT Thiệu cũng không muốn giữ miền Trung nhưng tinh thần buổi họp ngày 11/3/1975 tại dinh Độc Lập. Cuộc lui binh của Quân đoàn I cũng chịu chung số phận với cuộc triệt thoái Cao nguyên chỉ là hành quân phá sản đã làm sụp đổ toàn bộ Quân khu khiến cho VNCH mất hơn một nửa các lực lượng tinh nhuệ.
VNCH mất khoảng 450 xe tăng , trên 400 khẩu đại bác, đạn dược, quân trang quân dụng coi như mất hết, phần đất còn lại của miền nam không thể nào tồn tại được nếu không có yểm trợ của B-52.
Dân tỵ nạn và di tản
Theo ông Cao văn Viên vị Tư lệnh Quân khu I trong khi đương đầu với địch ông còn phải quan tâm giải quyết vấn đề tỵ nạn đang trầm trọng (Những Ngày Cuối của VNCH từ trang 174-185). Khi Kontum, Pleiku mất người dân lo sợ chính quyền cắt đất nhường cho Cộng sản, hàng chục nghìn người đổ dồn về Đà Nẵng mua vé máy bay vào Sài Gòn, hôm 14/3 các Lữ đoàn Dù được điều động để về Sài Gòn khiến dân chúng hốt hoảng kéo nhau về Đà Nẵng. Ngày 19/3 Thủ Tướng Khiêm ra Đà Nẵng giải quyết vấn đề tỵ nạn, Thủ tướng cho thành lập Ủy ban Liên bộ để lo giúp dân tỵ nạn Quân khu để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Thủ Tướng hứa sẽ tăng nhiều tầu chở dân di tản và giúp đồng bào tỵ nạn. Trong khi ấy tại địa phương các đoàn thể, hội từ thiện, phú thương… đóng góp vào cuộc cứu trợ hiệu quả hơn của Trung ương nhưng vấn đề tỵ nạn vượt quá khả năng của họ.
Từ ngày 17/3 đường Quốc lộ Một tràn ngập người và xe cộ, tại các bến cảng, tầu chở quân như quân dụng cho chiến trường Huế Đà Nẵng bị dân và lính ép phải chở họ rời bến, giới phụ trách bến tầu phải thuyết phục họ mãi. Ngày 21/3 BV cắt đường Quốc lộ I, dân tỵ nạn bèn đi về miệt biển, tầu bè được mướn hay bị cướp để chạy loạn nhưng không đủ. Ngày 23/3 tầu Trường Thanh do Bộ tổng tham mưu mướn chở được hơn 5,000 người. Huế bỏ ngỏ đêm 25/3, dân quân rút theo bờ biển về Đà Nẵng. Tam Kỳ mất 24 /3, Chu Lai di tản ngày 26/3, dân Quảng Ngãi, Quảng Tín chạy về Đà Nẵng. Ngày 26/3 Tướng Trưởng gửi Tướng Hoàng Lạc Tư lệnh phó QK I về Sài Gòn trình Tổng thống và Thủ Tướng giải quyết ngay vấn đề tỵ nạn vì thành phố sắp rơi vào tình trạng hỗn loạn khiến Đã Nẵng sẽ tự sụp đổ không cần Việt Cộng tấn công. Lưu thông trong thành phố ứ đọng, dân số trước đấy chỉ có 300,000 nay có tới hơn một triệu, cướp của giết người giữa ban ngày.
Ngày 27/3 chuyến phi cơ dân sự đầu tiên mướn của Mỹ đáp xuống Đà Nẵng nhưng mỗi khi có máy bay xuống hỗn loạn diễn ra dữ dội. Các chuyến bay dân sự phải đình chỉ, giới hữu trách cho thay bằng 4 máy bay C-130, nhưng hỗn loạn liên tục nên 4 chiếc này chỉ cất cánh được một lần vào ngày 29/3. Bến tầu cũng hỗn loạn, các tầu thả neo ngoài khơi Đà Nẵng, dân dùng thuyền bè từ bờ ra tầu, mỗi tầu được chừng 10 ngàn thì nhổ neo về Cam Ranh, Vũng Tầu, Phú Quốc…
Việt Cộng pháo kích tấn công Đà Nẵng mạnh vào đêm 28 /3, dân chúng tiếp tục tìm đường lánh nạn bằng thuyền bè dưới những trận mưa pháo của địch, nhiều người chết chìm khi lội từ bờ ra tầu. Bộ TTM đề nghị Phó thủ tướng Phan Quang Đán trưng dụng 13 tầu thương thuyền để chở dân tỵ nạn và kêu gọi các nước đồng minh giúp chở dân ra khỏi vùng giao tranh . Các nước hưởng ứng lời kêu gọi nhưng không thể gửi tầu tới ngay được trong khi tình hình ngày một thê thảm. Với con số người tỵ nạn quá đông cuộc di tản không thực hiện được như ý muốn, dân tỵ nạn tràn ngập các trại ở Vùng III và Phú Quốc.
Tướng Viên nói khi chính quyền bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ, nó đã làm đảo lộn kế hoạch quân sự của Vùng I. Người dân bị ám ảnh của quá khứ, họ quá sợ hãi khi nhớ lại cuộc tàn sát tập thể của CS tại Huế hồi Mậu Thân 1968 cũng như tại Đại lộ Kinh hoàng Quảng Trị năm 1972 để rồi hối hả bồng bế nhau chạy về phương nam.
Cuộc di tản náo loạn khiến cho binh sĩ hoang mang không còn tinh thần chiến đấu đã là một trong những nguyên nhân chính yếu đưa tới sụp đổ cho cả Quân khu. Thầy Mạnh Tử nói Thiên thời bất như Địa lợi, Địa lợi bất như Nhân hòa. Khi kẻ địch cất quân đánh nước ta là chúng có Thiên thời, nước ta có hào sâu, thành cao là ta có Địa lợi, nhưng khi quân địch đến, quân ta quăng gươm giáo chạy là ta không có Nhân hòa.
© Trọng Đạt
©Đàn Chim Việt
——————————————–
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Đại Nam 2001.
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Ngô Quang Trưởng : Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I, do Lê Bá Chư ghi chép, (Lịch Sử Ngàn Người Viết) Sài Gòn Nhỏ Dallas ngày 26-1-2007.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản 2005.
Nguyễn Văn Toàn, Lê Bá Khiếu, Nguyễn Văn: Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975
Trần Văn Nhựt: Cuộc Chiến Dang Dở, nhà xuất bản An Lộc, 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1991.
Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản QĐND Hà Nội, tái bản lần thứ tư, 2003
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Lâm Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.
Marilyn B. young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents – Oxford University press 2002.
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn, Ai Mất. Người Việt Dallas 7-10-2005.
Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
Nguyễn Văn Châu: Nhớ Về Quân Đoàn I, Sài Gòn Nhỏ Dallas 25-8-2006.
Phan Nhật Nam: Một Đời Trung Liệt, Ba Lần Giữ Nước, Tướng Quân Ngô Quang Trưởng, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2-2-2007.
Đàn Chim Việt thực ra chỉ là bộ phận tuyên truyền của những kẻ bán nước! Đàn Chim Việt chưa đủ trình độ làm báo yêu nước, cứu quốc. Gọi Đàn Chim Việt có lý tưởng bão vệ dân tộc là mọi người lầm to!
Vai trò của Mỹ trên trường chính trị thế giới là rất lớn. Mọi việc va chạm lớn nhỏ, rồi đụng đũa đụng bát ở bất cứ khu vực nào cũng có Mỹ tham gia. Nếu đe doạ nhỏ, họ góp tiếng nói ngoại giao, thêm tiền đóng góp cho xôm tụ. Đe doạ lớn, họ sẵn sàng nhảy bổ vào với sức mạnh quân sự và nhiều sức mạnh khác cùng cộng hưởng.
Việc bỏ rơi VNCH thôi không nhắc đến nữa, việc các binh sĩ Mỹ từ Việt Nam trở về bị lãng quên cũng có khác gì ? Nay họ được vinh danh, kể như thế cũng là đã muộn, một số không nhỏ đã ra đi trong tủi hổ về tinh thần, họ bị hội chứng Việt Nam ám ảnh cho đến khi về với nước Chúa.
Việc tấn công một quốc gia rồi dựng lên một chính phủ bù nhìn, từ xưa đến nay, từ nước nhỏ đến nước lớn đều rất khoái thực hiện. Vấn đề là sức mạnh phải dài hơi và hết sức tốn kém, có thể khi quay lưng đi, mọi việc lại đâu vào đấy, như “đá bèo” vậy thôi.
Thế mới biết Việt Nam chịu nhiệt ở Cam pu chia 10 năm kể cũng là giỏi và không uổng phí.
Cả miền biên giới tây nam giờ đây đã được hoạch định rõ ràng. Ảo mộng đòi lại đất đai trù phú miền Nam bộ đã “cho, tặng, nhận” từ 300 năm nay coi như dập tắt từ gốc. Trời có xụp, Chú Sam có trả lại đất cho người da đỏ thì lịch sử đất đai Việt Nam cũng đã có trước đó cả trăm năm rồi.
Ai khôn, ai dại kể cũng là câu chuyện dài, nhưng Việt Nam dứt khoát không dại khi đưa quân giúp đỡ bạn vàng Cam pu chia, kể cả bây giờ ông Hun sen trở cờ.
Các anh VNCH thua cũng là phải với cái đầu óc suy nghĩ thiển cận ích kỷ của các anh ,mỗi một cái việc chăm sóc cái nghĩa trang của nhưng người cùng một thời chinh chiến với mình các anh cũng có rất nhiều ý kiến này nọ ,thực chất các anh chỉ vì mưu lợi cá nhân cho nên cái tâm các anh không đủ sáng ,không thể làm được những chuyện ân nghĩa ở đời .Thằng Mỹ nó không thèm đếm xỉa đến những người đã hy sinh cho sự xâm lược của nó ,đến hôm nay có ông lãnh sự quán tại việt Nam là người gốc Việt chứ người Mỹ thì chưa chắc họ đã đến ,các anh cũng có rất nhiều người về thăm quê hương nhưng thử hỏi có bao nhiêu người ghé thăm nơi này ,hay là chỉ biết hưởng thụ ăn chơi ,sang bên đó có người hỏi lại kêu là CSVN không cho vào . Các anh trách móc người CS tại sao các anh không nghĩ biết bao chiến sĩ cộng sản họ hy sinh ,họ cũng bị tù đày với những trò bẩn thỉu của các anh ,họ cũng chịu sự tra tấn dã man của các anh ,họ cũng nằm rải rác khắp nơi trên mảnh đất Việt Nam mà chưa tìm thấy xác họ không phải là người hả ? hay chỉ những người lính đánh thuê các anh mới là người ,tôi nói thật một điều nhé nhà nước Việt Nam quá nhân đạo với các anh rồi đó chứ cứ để cho dân họ còn cày xới bới các anh lên mang ra vãi ngoài đường chứ đừng có nói có chỗ mà nằm cho đến hôm nay .Ông Nguyến Đạc Thành vì nghĩa tình đã làm một việc cao cả ,các anh bên đó lại trách móc nói xấu đúng là lũ ruồi nhặng . Ông Nguyễn Thanh Sơn đại diện cho chính quyền nhà nước đến đó thắp nén hương để cho các anh thấy rằng người CS họ rộng lượng như thế nào ,các anh tưởng các anh quan trọng lắm sao ,đừng có tự sướng ,HHHG dân tộc chỉ dành cho những người có tâm có lòng thôi ,chứ giá trị con người của các anh có đáng một xu không ? các anh bỏ đất nước ra đi thì ở trong nước vẫn phát triển tốt không cần có sự đóng góp của các anh .Với lời lẽ thù hận ngu xuẩn này thì mong rằng các anh cứ ở bên đó mà sống đừng bao giờ bước chân vào Việt Nam .Chúng tôi không hoan nghênh .
Điều quan trọng là chúng ta bàn đến lịch sử để làm gì ? là rút ra bài học cho chúng ta và con cháu. Đất nước Việt Nam ngày nay không khác miền Nam Việt Nam lúc 1975, tương lai đất nước được quyết định bởi một cá nhân và hiện nay do một thiểu số là đảng cs bao che cho nhau .Kẻ thù truyền kiếp Trung cộng vẫn đang nuôi mộng bá chủ biển Đông, Đông-Nam-Á, nếu toàn dân Việt Nam vẫn để cho bọn thiểu số cs bán nước tiếp tục cai trị, vẫn ngây thơ tin tưởng vào lòng yêu nước giả dối của chúng, chúng đã và sẽ dâng đất nước Việt Nam cho Trung cộng từng bước một, chỉ có tự do, dân chủ là phương cách duy nhất để đảm bảo là giới lãnh đạo phải biết bảo vệ đất nước, nếu họ không có khả năng làm được thì nhân dân sẽ thay thế họ bằng người khác xứng đáng hơn.
Nguyễn đức Phương
“Các sĩ quan cao cấp Quân đoàn I lại chính là những người đầu tiên đào ngũ. Thiếu sự điều động, chỉ huy, các đơn vị đã lần lượt tan hàng , giặc chiếm đất mà không cần phải giao tranh…”
(Nguyễn đức Phương, Chiến tranh VN toàn tập trang 764)
Một phần vì ông Thiệu ban lệnh lệnh rút bỏ Huế ngày 20-3, một phần vì đài BBC loan truyền những tin tức động trời gây hoang mang và người dân chạy loạn làm náo loạn… đã xui khiến ra thảm trạng này
Hy vọng như lời tiên đoán, năm 2014-2016 VNCH sẽ về lại VN nhưng không phải lật đổ chính quyền mà là 1 phần về xây dựng đất nước,1 phần bị Mỹ tống cổ về nhà sống hông nổi do ăn bám lâu năm, giờ không làm nổi nên năng nỉ mấy chú công an cho vô tù ngồi được ăn cơm tù cho khỏe!
Theo tôi, chế độ nào của có cái tốt cái xấu. nếu là người Việt Nam thì có lòng tự tôn dân tộc.
Nếu bàn luận về lịch sử thì phải bàn luận lịch sử Việt Nam từ thời xa xưa( Từ khi dựng nước Việt đến bây giờ).
Việt Nam bị nghìn năm đô hộ phương Bắc, ai là người đứng lên chống lại?
Việt Nam bị thực dân Pháp chiếm và cai trị ai là người xả thân để dành lại nước Việt Nam này…
Từ xa xưa người Việt Nam chúng ta không muốn bất kì thế lực nước ngoài nào cai trị. họ chiến đấu vì nền độc lập của một đất nước.
Vậy cớ gì phải đưa người nước ngoài cai trị dân tộc mình? Lịch sử chứng minh rõ ( Thực dân Pháp vào Việt Nam nói là khai phá nền văn minh) vậy mà chỉ cướp bóc và tàn phá, thử hỏi người Mỹ vào có như vậy không?
Từ khi người Mỹ vào dân ta ( Bắc – Nam ) tương tàn.
Các bác cứ nói chế độ này là tay sai cho nước này nước khác. Thử hỏi ai là người khai phá phương Nam?
” Từ thủa mang gươm đi mở cõi.
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Ai đã đánh đuổi Thực dân Pháp? Sao không mời người Mỹ vào đánh đuổi? mà đến khi mới dựng nước xong, dân thì nghèo đói, dốt nát (do hậu quả của thực dân Pháp cai trị), lực lượng quốc phòng thì yếu thí lúc đó mới mời người Mỹ vào để xây dựng nền dân chủ để đánh lại người bảo vệ đất nước bảo vệ dân tộc mình. Quả là ấu trĩ.
chiến tranh đã qua, đã chở thành quá khứ( đã ghủ yêu) sao không xây dựng đất nước còn ngồi mà nói xấu chế độ này chế độ kia. Người CSVN hay người VNCH vẫn là người Việt Nam nếu các Bác thực sự yêu nước Việt Nam. Tại sao không giám nhìn thẳng vào sự thật. Thật đáng xấu hổ nếu là người Việt Nam.
@Dân Việt
DẠ KINH CHÀO DÂN VIỆT
Xin trích từng Ý một của Dân Việt để bình…
“Theo tôi, chế độ nào của có cái tốt cái xấu. nếu là người Việt Nam thì có lòng tự tôn dân tộc.”
ĐÚNG , NHƯNG CỘNG SẢN NGOÀI CÁI XẤU , KHÔNG CÓ CÁI TỐT NÀO HẾT MÀ CÒN CHỨA CHẤP MUÔN NGÀN CÁI ÁC CHO NÊN PHẢI DIỆT TRỪ CHO TẬN GỐC
“Nếu bàn luận về lịch sử thì phải bàn luận lịch sử Việt Nam từ thời xa xưa( Từ khi dựng nước Việt đến bây giờ).Việt Nam bị nghìn năm đô hộ phương Bắc, ai là người đứng lên chống lại?”
TRẢI QUA NHIỀU THẾ HỆ DÂN VIỆT CHỐNG LẠI NHƯNG… CÁC SỬ GIA CHO RẰNG CHIẾN THẮNG NGÔ QUYỀN NĂM 535(?) KẾT THÚC 1000 NĂM ĐÔ HỘ
“Việt Nam bị thực dân Pháp chiếm và cai trị ai là người xả thân để dành lại nước Việt Nam này…”
RẤT NHIỀU THẾ HỆ VIỆT CHỐNG LẠI NHƯ THẾ HỆ HOÀNG HOA THÁM , TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH , RỒI ĐẾN THẾ HỆ CỦA NGUYỄN THÁI HỌC…, PHAN BỘI CHÂU…
TUY NHIÊN CÁC SỬ GIA QUẢ QUYẾT HỒ CHÍ MINH LÚC THIẾU THỜI LẠI MUỐN THI VÀO TRƯỜNG “CÔNG CHỨC THUỘC ĐỊA ” ĐỂ TRỞ THÀNH TAY SAI CHO THỰC DÂN !
Từ xa xưa người Việt Nam chúng ta không muốn bất kì thế lực nước ngoài nào cai trị. họ chiến đấu vì nền độc lập của một đất nước. Vậy cớ gì phải đưa người nước ngoài cai trị dân tộc mình?
ĐÚNG ! BỞI VẬY DÂN VIỆT VÔ CÙNG TỨC TỐI KHI ĐẢNG CỘNG SẢN BUỘC TOÀN DÂN VIỆT TA PHẢI ….” THỜ BÁC MAO , THỜ STALIN BẤT DIỆT ” …..
(THỰC HIỆN CÁC CHƯƠNG TRINH KINH TẾ Y CHANG NHƯ BÁC MAO , BÁC STALIN , ĐẤU TỐ LUNG TUNG…)
Lịch sử chứng minh rõ ( Thực dân Pháp vào Việt Nam nói là khai phá nền văn minh) vậy mà chỉ cướp bóc và tàn phá, thử hỏi người Mỹ vào có như vậy không?
TỘI ÁC CỦA THỰC DÂN PHÁP THÌ MIỄN BÀN.
( TỔ MẸ MẤY THẰNG TÂY !)
TUY NHIÊN , SỰ THẬT THÌ VIỆT NAM ĐÃ BỎ CHỬ HÁN SAU HƠN MẤY TRĂM NĂM ĐỘC TÔN MÀ DÙNG CHỮ QUỐC NGỮ A, B , C LÀ MỘT ĐIỀU KHÔNG THỂ NGỜ ĐƯỢC TRONG NỀN VĂN HIẾN NƯỚC NHÀ…
NGÀY NAY DÂN VIỆT CÓ THỂ MẠNH DẠN MÀ NÓI THẲNG CHÚNG TA CHẲNG HỀ CÓ BÀ CON GÌ VỚI BỌN HÁN TỘC , MẤY ANH VIẾT NÓI KHÁC , CHÚNG TÔI VIẾT NÓI KHÁC ,
CHỚ NẾU KHÔNG CÁI THẰNG PHỤC TÙNG TRUNG QUỐC ” VÔ NGUYÊN TẮC ” NÔNG ĐỨC MẠNH LẠI VIẾT THÊM MỘT CÂU TRONG BÀI NHẠC…
” Việt Nam Trung Quốc
Sông Liền Sông, Núi liền núi
CHỬ VIẾT Y CHANG
Hồ Chí Minh Mao trạch ĐÔNG….
CÙNG CHUNG CỘNG SẢN MÁU HỒNG
CÙNG NHAU TIẾN LÊN CÁCH MẠNG THÀNH CÔNG ”
THÌ BỎ MẸ… HẾT CỨU !
“Từ khi người Mỹ vào dân ta ( Bắc – Nam ) tương tàn.”
TRẬT !
CÁC CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG CỦA CỘNG SẢN KHIẾN BẮC NAM TƯƠNG TÀN
BỎ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN , TỔNG TUYỂN CỬ THÌ MỌI CHUYỆN HUỀ CẢ LÀNG
HỒ CHÍ MINH KHÔNG CHỊU BỎ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Các bác cứ nói chế độ này là tay sai cho nước này nước khác. Thử hỏi ai là người khai phá phương Nam?
” Từ thủa mang gươm đi mở cõi.
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”
NHIỀU THẾ HỆ KHAI PHÁ , CÓ CÔNG CỦA CÁC ĐỜI VUA LÊ THÁNH TÔN , CÁC VUA TRẦN… NHƯNG CÁC SỬ GIA VẨN COI TRỌNG SỰ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN…
Ai đã đánh đuổi Thực dân Pháp?
TRÊN DANH NGHĨA THÌ LÀ VIỆT MINH NHƯNG TRÊN THỰC TẾ , HIỆN NAY ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC ( TÀU BÀNH TRƯỚNG ) LẠI DÀNH CÔNG LAO NÀY LÀM CÁC SỬ GIA… BẬT NGỮA ! KHONG BIET TINH SAO?
“Sao không mời người Mỹ vào đánh đuổi?”
MỜI RỒI ! CÓ GIẤY TỜ BẰNG CHỨNG HẲN HÒI NHƯNG MỸ KHÔNG GIÚP VÌ CHO RẰNG VIỆT MINH LÀ CỘNG SẢN, NGU GÌ TỐN TIỀN TỐN CỦA ĐI GIÚP CỘNG SẢN ĐỂ RỒI NÓ CHƯỞI MÌNH!
“…mà đến khi mới dựng nước xong, dân thì nghèo đói, dốt nát (do hậu quả của thực dân Pháp cai trị), lực lượng quốc phòng thì yếu thí lúc đó mới mời người Mỹ vào để xây dựng nền dân chủ để đánh lại người bảo vệ đất nước bảo vệ dân tộc mình. Quả là ấu trĩ.
(VĂN CHƯƠNG HƠI LƯỢM THƯỢM )
“chiến tranh đã qua, đã chở thành quá khứ( đã ghủ yêu) sao không xây dựng đất nước còn ngồi mà nói xấu chế độ này chế độ kia. Người CSVN hay người VNCH vẫn là người Việt Nam nếu các Bác thực sự yêu nước Việt Nam. Tại sao không giám nhìn thẳng vào sự thật. Thật đáng xấu hổ nếu là người Việt Nam.”
PHẢI ! TẠI SAO KHÔNG NHÌN THẲNG SỰ THẬT MÀ ĐẤU TRANH GIẢI THỂ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN , ĐỘC TÀI ĐẢNG TRỊ RA KHỎI VIỆT NAM
HAI TRIỆU DÂN VƯỢT BIÊN BỎ NƯỚC CHƯA ĐỦ HAY SAO?
38 NĂM BỊ CÔNG AN ĐÀN ÁP , NHÀ CỬA RUỘNG VƯỜN BỊ QUY HOẠCH , ĐẢNG CƯỚP ĐI CHƯA ĐỦ HAY SAO ?
NỢ CÔNG NGẬP ĐẦU DO ĐẢNG GÂY RA CHƯA ĐỦ HAY SAO?
CÔNG LÝ BỊ ĐẢNG NẮM , HỒNG HƠN SỰ THẬT , COI PHIM VIET BÁO NGOÀI Ý ĐẢNG CŨNG BỊ Ở TÙ …., HON 38 NĂM CHƯA ĐỦ HAY SAO?
CÔNG NHÂN BỊ BỐC LỘT THẶM TỂ BỞI TƯ BẢN NƯỚC NGOÀI DO ĐẢNG RƯỚC VÀO , MỜI GỌI ĐẦU TƯ CHUA ĐỦ HAY SAO?
TƯ SẢN DÂN TỘC TRONG NƯỚC BỊ ĐẢNG ĐÁNH TỚI TẤP TỜI BỜI CHƯA ĐỦ HAY SAO?
Muốn nữa còn nữa…
KI’NH BA`Y
Chuyện dưới đây thấy trên mạng copy lại gởi các CAM và những cậu cô đi Mỹ lúc còn nhỏ tuổi chưa biết nhục quốc thể ? ( Nguyển hoàng Phúc và Trần Tưởng ) hình có lẻ đã đăng báo lâu rồi nhưng cứ đưa lời dịch lên cho mọi người biết để tìm cách ngăn ngừa cuyện xấu hổ này :
VC RA GIÁ BÁN CÁC CHÁU GÁI CỦA BÁC HỒ ! Đăng báo không sợ là do có các quan chức và công an ăn chia :
ĐIỀU KIỆN MUA VỢ: “Gái trinh Việt Nam từ giá 6000 đô. Bảo đảm . Giao hàng nội trong 3 tháng. Bảo đảm trong một năm nếu cô dâu bỏ chạy sẽ bù một cô khác miễn phí. ”
nguyên văn trên đăng báo tại Việt Nam.
Sao lại có thể đi đến con đường mạt vận này một cách bỉ ổi như vậy được ?
Phụ nữ Việt Nam hôm nay còn thua xa … , thật ra đây chỉ là một đám người mất hết nhân tính mới làm được những trò này .
Đau lòng quá mức , không hiểu các ” bậc yên hùng ” còn có đủ ” đảm lược ” để nhào vô những cuộc ” mua bán ” như thế này không ? Mong là quý vị còn giữ lại chút liêm sỉ , chút lương tri cuối cùng , đừng ham vui mà làm cho con cháu sau này chúng nó chê cười , khinh bỉ quý vị !!!
Bọn cai trị cộng đảng Việt Nam thì còn biết gì nhân tính và nhục quốc thể ?
Dương Nguyễn cưng,
Viết cái tên mà cũng trật lất. Đây là diễn đàn VN nên viết họ trước tên sau. Chừng nào sống ở Mỹ trong giao dịch với cái cơ quan Mỹ thì mới tên trước họ sau nhá.
Cưng nói rằng theo Nguyễn Đức Phương nhiều sĩ quan cao cấp QDI mất tinh thần đào ngủ bỏ chạy… Là ai dzậy cưng. Ai mất tinh thần, ai bỏ chạy? Nguyễn Đức Phương viết như thế ở đâu dzậy? QDI có 9 ông Tướng : Tương NQ Trưởng Tư lệnh. Tướng LQ Thi Tư lệnh phó Quân Đoàn kiêm Tư lệnh Tiền Phương. Tướng HV Lạc Tư Lệnh phó Quân Khu. Tướng BT Lân Tư lệnh Sư Đoàn TQLC, Tướng TV Nhật Tư Lệnh SD 2BB, Tướng ND Hinh Tư Lệnh SD 3 BB , Tướng NV Điềm Tư Lệnh SD 1 BB Tướng HV Kỳ Thoại Tư lệnh Vùng I Hải Quân , Tướng Nguyễn Đức Thắng Tư Lệnh SD 1 Không Quân. Ông nào bỏ chạy dzậy cưng. Tướng mà còn ở lại Tá, Úy dám chạy không cưng? Cho cưng biết chỉ có Tướng HV Lạc được Tướng Trưởng cử về Sàigon để họp với Thủ Tướng Khiêm. Sau đó không trở ra lại Huế. Tám ông Tướng còn ở lại đến giờ phúrt cuối cùng. Còn Tỉnh Trưởng không có quân thì ở lại để cho VC bắt à?
Cưng chả biết mẹ gì về quân sự. Dốt mà hay nói chữ. Trước khi chỉ trích phê bình ai thì cần phải có kiến thức và lòng trung thực để có thể nhìn vấn đề khách quan hơn.
Trong 10000 cuộc lui quân trên thế giới may ra chỉ có 1 cuộc lui quân thành công. Hành quân rút lui là cuộc hành quân khó nhất trong quân sự. Phải có lực lượng cản hậu , phải có lực lượng tiếp trợ. Đội hình lui quân phải trật tự kỷ luật tuyệt đối. Phải được phi pháo yểm trợ tối đa không ngừng nghĩ. Và đặc biệt vấn đề sinh tử là không có dân chạy trong đội hình rút lui. Có dân trong đội hình là 99.99% tiêu tán đường. Cuộc rút quân ở QDI và QD II không có các yếu tố trên nên thất bại là điều đương nhiên. Chê trách gì cưng. Vấn đề tiến thoái lưởng nan. Không rút cũng chết mà rút quân cũng chết. Nếu rút quân thành công thì có cơ hội tái phối trí. Tìm đường sống trong cỏi chết. Chỉ là một sự chọn lựa.
Cuộc rút quân tại Dambe của LLXKQDIII/ Lữ Đoàn3 Kỵ Binh cùng hai Chiến đoàn BDQ 5, và 333 dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Trần Quang Khôi Tư lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh thành công vì có nghi binh , có B52 yểm trợ và lúc nào cũng có Đại Đội trực thăng võ trang của Hoa Kỳ yểm trợ. Dùng tính di động nhanh, hoả lực mạnh mẽ của Thiết giáp và đặc biệt không có dân chúng trong đội hình rút quân. Một cuộc rút quân đẩm máu nhưng thành công. Các tài liệu của VC sau nầy cho thấy tụi nó thuộc Sư 5 và Sư 7 VC đã đổ thừa lẫn nhau để cho bọn Nguy chạy thoát.
Thôi vài đường lả lướt cho cưng hiễn. Cứ ở dưới đáy giếng hoài. Cứ ôm mãi huyền thoại chiến thắng 3 đế quốc thực dân nói bậy nói bạ người ta cười thối cả đầu.
Khà khà khà !!!
PS: Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương mới gửi cho qua bài viết “Chiến Dịch HCM phần 1 mới cắt chỉ. Đây là một cây viết lương thiện, tận tụy và trung thực. Hiếm lắm đó cưng. Không khen bậy bạ mà cũng không chê vô lối. 1-Trung thực , 2- Trung thực – 3- Trung thực … Đọc đã lắm cưng
Dù VNCH bị thất bại và đã đi vào dĩ vãng, nhưng vẫn để lại niềm thương tiếc và yêu mến của nhiều người.
Chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở “Những sự thật cần phải biết – phần 2”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”
Tôi gọi họ là Anh Hùng
http://danlambaovn.blogspot.ch/2013/03/toi-goi-ho-la-anh-hung.html#.UVV65DebVL4