Thủ tướng Dũng và nền kinh tế thị trường “định hướng quyết liệt”
Ngày 27/06/2006, Quốc hội bầu ông Nguyễn Tấn Dũng lên làm Thủ tướng. Trong cuộc trả lời trực tuyến đầu tiên của một thủ tướng Việt Nam vào ngày 9/2/2007, ông dùng rất nhiều từ “quyết liệt”. Trong toàn bộ cuộc trả lời được ghi tại đây (Chính phủ, 9/2/2007), thủ tướng Dũng đã ít nhất 7 lần dùng từ “quyết liệt” trong mọi lĩnh vực, từ điều hành kinh tế, văn hóa xã hội tới chống ùn tắc giao thông, chống tham nhũng…
Thực ra thủ tướng Dũng không phải vị lãnh đạo cao cấp đầu tiên dùng từ “quyết liệt”. Các vị tiền nhiệm của ông như Võ Văn Kiệt hay Phan Văn Khải cũng có dùng từ này nhưng với tần suất rất thấp, chỉ đôi khi mới nghe thấy. Nhưng từ khi thủ tướng Dũng lên nắm quyền thì từ “quyết liệt” được dùng rất nhiều ở Việt Nam. Có thể khẳng định chắc chắn là do thủ tướng rất thích dùng từ này nên đã tạo ra một trào lưu ăn theo nói leo của đám cấp dưới đến nỗi theo tác giả bài này, có thể gọi thủ tướng là “Dũng quyết liệt” và nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây là “Nền kinh tế thị trường theo định hướng quyết liệt”.
Trong từ điển tiếng Việt, “quyết liệt” được định nghĩa là “kiên quyết” và “mãnh liệt”. Điều này cho thấy những người hay dùng từ “quyết liệt” là những người có “quyết tâm” cao, rất nhiệt huyết trong công việc, cống hiến hết mình, liên tục làm việc với cường độ cao để đạt được kết quả cao nhất trong công việc. Trong một nền hành chính còn trì trệ như ở Việt Nam thì nếu có những người thật sự “quyết liệt” như vậy thì quá là đáng quý quá. Vậy ở đây chúng ta thử điểm lại những lĩnh vực mà thủ tướng Dũng đã chỉ đạo “quyết liệt” xem hiệu quả của những chỉ đạo này tới đâu.
1. Quyết liệt tăng trưởng kinh tế
Thủ tướng Dũng là người thích tăng trưởng cao nên tất nhiên đây là lĩnh vực được thủ tướng ưu tiên “quyết liệt”. Ngay khi mới nhận chức, vào cuối năm 2006, khi họp Chính phủ:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Tập trung chỉ đạo quyết liệt, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ KT-XH năm 2006 (Chính phủ, 1/12/2006)
Trong kỳ họp Chính phủ tháng 10/2007, dù lạm phát đã tăng cao ở mức nguy hiểm nhưng thủ tướng vẫn chỉ thị:
… để đạt mục tiêu tăng GDP 8,5% trong năm 2007, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương phải tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp chỉ đạo mạnh mẽ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đề ra từ đầu năm đến nay. (Chính phủ, 6/10/2007)
Vào tháng 12/2007, lạm phát đã tăng hơn 12% nhưng khi họp bàn về kế hoạch cho năm 2008, thủ tướng Dũng vẫn chỉ đạo trước cho năm mới:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Điều hành quyết liệt ngay từ đầu năm 2008 để đạt tăng trưởng GDP 9% và chỉ số tăng giá cả thấp hơn tốc độ tăng GDP (Chính phủ, 24/12/2007)
Sang năm 2009, khi bàn kế hoạch cho năm 2010:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết tăng trưởng GDP năm 2009 ước tính ở mức 5,2%, thấp nhất trong 10 năm gần đây. Trong năm 2010 Chính phủ sẽ thực hiện quyết liệt 6 biện pháp để đạt tăng trưởng GDP 6,5%, thu nhập bình quân đầu người 1.200 USD. (Tiền phong, 20/10/2009)
Sang tới năm 2013, thủ tướng vẫn tiếp tục “quyết liệt”:
Trong phiên họp thường kỳ tháng 2 của Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả các giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và 02/NQ-CP…(Chính phủ, 28/2/2013)
Không rõ hiệu quả của sự “quyết liệt” trong điều hành và chỉ đạo của thủ tướng Dũng tới đâu mà từ khi thủ tướng lên cầm quyền, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng thấp hơn hẳn giai đoạn trước đó (và có rất nhiều khả năng là sẽ còn tiếp tục thấp trong thời gian tới):
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, 2002-2012
Đơn vị: %
2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 |
7,08 | 7,34 | 7,79 | 8,44 | 8,17 | 8,5 | 6,23 | 5,32 | 6,78 | 5,89 | 5,03 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
2. Quyết liệt chống lạm phát
Do hậu quả của chính sách mở rộng đầu tư để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà sau khi thủ tướng Dũng lên nắm quyền, lạm phát bắt đầu có xu hướng tăng cao. Ngay từ năm 2007, thủ tướng Dũng đã tỏ ra “quyết liệt” với lạm phát. Trong cuộc họp ngày 12/8/2007 với các Bộ, ngành:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Quyết liệt kiềm chế tốc độ tăng giá thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP. (Chính phủ, 12/8/2007)
Sang năm 2008, đợi mãi lạm phát chưa xuống, thủ tướng lại tiếp tục “quyết liệt” nhiều lần nữa, ví dụ:
Thủ tướng vừa chỉ đạo các bộ, ngành quyết liệt kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô những tháng cuối năm…(Vneconomy, 26/6/2008)
Sau đó, do lạm phát là vấn đề nóng nên thủ tướng liên tục chỉ đạo “quyết liệt” về vấn đề này, chẳng hạn:
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11/2010, Thủ tướng đã yêu cầu các Bộ, ngành địa phương tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn thị trường, giá cả. (Infotv, 3/12/2010)
Các năm sau cũng thế:
“Các bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, kiên trì, đồng bộ các giải pháp và các chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ về bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội”. (Petrotimes, 5/5/2011)
Họp với các địa phương ngày 25/12/2012 về kế hoạch cho năm 2013, thủ tướng cũng căn dặn:
Các địa phương cố gắng, quyết liệt kiểm soát ngay trong tháng một tới. Quy luật hàng năm cho thấy CPI quý một chiếm tỷ lệ lớn trong lạm phát cả năm. (Vnexpress, 26/12/2013)
Chỉ tiếc là tốc độ tăng trưởng GDP càng được thủ tướng “quyết liệt” chỉ đạo thì càng giảm trong khi lạm phát được chỉ đạo “quyết liệt” thì lại ngày càng tăng.
Tỉ lệ lạm phát của Việt Nam, 2002-2012
Đơn vị: %
2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 |
4 | 3 | 9,5 | 8,4 | 6,6 | 12,63 | 19,9 | 6,88 | 11,75 | 18,58 | 6,81 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
3. Quyết liệt với DNNN
Có thể nói thủ tướng Dũng là một tín đồ rất sùng bái DNNN tới mức mê tín. Tháng 2/2011, sau khi Vinashin sụp đổ, thủ tướng vẫn nói:
“Nếu trong khủng hoảng vừa qua, với những nguy cơ về tăng trưởng âm, về an sinh xã hội, ổn định các chỉ tiêu vĩ mô, nếu không có các doanh nghiệp nhà nước, chắc chắn chúng ta không đạt được những thành quả như hôm nay”, Thủ tướng khẳng định. (Chính phủ, 15/2/2011)
Mười tháng sau đó, thủ tướng lại nhấn mạnh:
“Đánh giá hiệu quả của DNNN phải công bằng, không thể nói DNNN là “ăn hại”. Những kết quả mà DNNN đã đóng góp là không thể phủ nhận. Nếu không có DNNN thì Nhà nước không thể điều tiết, ổn định vĩ mô” (Vietnamnet, 8/12/2011)
Đặc biệt, thủ tướng Dũng có niềm si mê cuồng nhiệt với các tập đoàn lớn, đa ngành. Nhà báo Huy Đức cho biết:
Trước Đại hội Đảng lần thứ X, ông Nguyễn Tấn Dũng được giao làm Tổ trưởng biên tập báo cáo kinh tế của Ban chấp hành Trung ương trước Đại hội. Ông đòi ghi vào báo cáo chủ trương cho doanh nghiệp nhà nước được kinh doanh đa ngành. Các thành viên trong tổ phản đối vì điều này ngược với quan điểm phát triển doanh nghiệp nhà nước xác lập từ thời thủ tướng Võ Văn Kiệt. Thay vì tiếp thu, ông Nguyễn Tấn Dũng đã viết ra giấy, buộc các thành viên trong tổ phải ghi vào Báo cáo kinh tế nguyên văn: “Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”. (FB của Huy Đức)
Năm 2008, khi họp mặt với các tập đoàn con cưng, thủ tướng phê bình:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng thẳng thắn chỉ ra một số yếu kém, hạn chế của Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, đó là quy mô của các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước còn nhỏ, thể hiện ở việc không có Tập đoàn nào được xếp vào danh sách 500 doanh nghiệp hàng đầu thế giới” (Chính phủ, 22/2/2008).
Để nhanh chóng làm cho các tập đoàn này “được xếp vào danh sách 500 của thế giới”, thủ tướng đã chỉ đạo:
Các Tập đoàn, DNNN cần tập trung đầu tư quyết liệt vào sản xuất kinh doanh, đóng góp lớn hơn nữa vào tăng trưởng kinh tế đất nước, đồng thời góp phần giảm lạm phát… Chính phủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước triển khai các công trình, dự án trọng điểm của Nhà nước có hiệu quả cao, đúng tiến độ. (Chính phủ, 22/2/2008)
Năm 2011, thủ tướng lại “quyết liệt” giao chỉ tiêu cho các tập đoàn là phải tăng trưởng được 15% bất chấp lạm phát đang tăng vùn vụt.
Năm 2011, Thủ tướng giao nhiệm vụ cho toàn khối: Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư để đạt mức tăng trưởng bình quân 15%. Trên tinh thần đó, Thủ tướng yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty đi đầu trong việc xây dựng các kế hoạch và triển khai một cách sát sao, đồng thời quyết liệt, nỗ lực thực hiện các giải pháp đẩy mạnh đầu tư, sản xuất kinh doanh (Chính phủ, 15/2/2011)
Kết quả sau khi nhận được chỉ đạo là phải đầu tư “quyết liệt” để tăng trưởng nhanh, tình hình các DNNN ngày càng bết bát, lỗ lã, nợ nần tăng cao khủng khiếp. Tính tới cuối năm 2012 thì tổng nợ phải trả của các DNNN là hơn 1,33 triệu tỷ đồng hay hơn 60 tỷ USD.
Sang tới đầu năm 2013, lại tiếp tục có chỉ đạo:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu, trong năm 2013, thực hiện quyết liệt việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo Đề án đã được phê duyệt, trọng tâm là tập đoàn kinh tế và tổng công ty;… (Chính phủ, 16/1/2013)
4. Và “quyết liệt” trong một số lĩnh vực khác
Thủ tướng Dũng còn quyết liệt trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ chống tham nhũng, xóa đói giảm nghèo, giảm nhập siêu, giảm lãi suất, giảm tiêu chảy… cái gì thủ tướng cũng quyết liệt hết. Dưới đây là một vài ví dụ:
Quyết liệt chống tham nhũng:
Thủ tướng đã “quyết liệt” chống tham nhũng từ lúc mới nhậm chức:
Ngày 27/7, tại Hà Nội, BCĐ Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã tiến hành phiên họp lần thứ 4. Tại phiên họp, Thủ tướng chỉ đạo : công tác phòng, chống tham nhũng phải được tiếp tục làm quyết liệt từ Trung ương đến địa phương. (Tiền phong, 27/7/2007)
Nhưng tham nhũng mãi không giảm nên thủ tướng là Trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng TW càng quyết liệt hơn:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ yêu cầu đặt ra là phải tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nội dung phòng, chống tham nhũng theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Hà Nội mới, 25/4/2012)
Quyết liệt xóa đói giảm nghèo:
Thủ tướng đề nghị Bộ và ngành LĐ-TB&XH …tập trung làm quyết liệt hơn nữa công tác giảm nghèo, đặc biệt giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc… (Người cao tuổi, 8/1/2013)
Quyết liệt giảm lãi suất:
Thủ tướng khẳng định, Chính phủ đang quyết liệt chỉ đạo các biện pháp điều hành hạ lãi suất, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, trong đó tập trung vào xử lý nợ xấu và hàng tổn kho. (Diễn đàn doanh nghiệp, 26/1/2013)
Quyết liệt ngăn chặn phá rừng:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, các bộ, ngành và các tỉnh Tây Nguyên quyết liệt tập trung ngăn chặn nạn phá rừng (VOV, 17/1/2012)
Quyết liệt xử lý nợ xấu:
Thủ tướng yêu cầu… Ngân hàng Nhà nước quyết liệt hơn nữa trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu thông qua quỹ trích lập dự phòng rủi ro, cơ cấu lại nợ… (Người đồng hành, 28/2/2013)
Quyết liệt tái cơ cấu ngân hàng
Tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu NHNN chỉ đạo thực hiện quyết liệt, toàn diện việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn 2011-2015. (Pháp luật TP.HCM, 18/12/2011)
Quyết liệt đưa tiền về doanh nghiệp:
Chính phủ yêu cầu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan khác chỉ đạo quyết liệt làm sao để dòng tiền ra được và tới các doanh nghiệp. (VTC, 28/2/2013)
Quyết liệt giảm nhập siêu:
Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ ngành quyết liệt trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. (Sài Gòn giải phóng, 16/3/2011)
Quyết liệt thực hiện bảo hiểm y tế:
Thủ tướng yêu cầu… ngành Y tế cần quyết liệt thực hiện BHYT toàn dân… (Bảo hiểm xã hội, 20/2/2013)
Quyết liệt chống tiêu chảy:
Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành và địa phương cần triển khai nghiêm các nội dung phòng, chống dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm với tinh thần quyết liệt ở mức cao nhất;(Sức khỏe đời sống, 2/11/2007)
Quyết liệt giảm tai nạn giao thông:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Ủy ban an toàn giao thông quốc gia, các Bộ Giao thông vận tải, Công an và các cấp chính quyền tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, quyết liệt hơn nữa các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi tai nạn giao thông (Tuổi trẻ, 26/5/2011)
Quyết liệt giảm quá tải bệnh viện:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp để giảm quá tải bệnh viện, “xóa” tình trạng người bệnh phải nằm ghép và đề án phải hoàn thành trước 30/6. (Dân trí, 1/3/2012)
Quyết liệt trong công tác ngoại giao:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, năm 2012, ngành Ngoại giao phải tiếp tục tập trung nắm chắc tình hình để tham mưu, kiến nghị, đề xuất cho Đảng, Nhà nước khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, đồng thời ngành cần tận dụng tối đa các cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực, quyết liệt hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. (Chính phủ, 14/12/2011)
5. Kết luận
Trên đây chỉ là một số dẫn chứng tiêu biểu vì tác giả không muốn làm độc giả quá hoa mắt vì những chỉ dụ “quyết liệt” đã được thủ tướng ban hành. Tóm lại, có thể thấy rằng thủ tướng Dũng đã “quyết liệt” trong rất nhiều lĩnh vực nhưng bất hạnh thay cho thủ tướng và người dân Việt Nam là hầu như lĩnh vực nào mà được thủ tướng “quyết liệt” điều hành và chỉ đạo thì lĩnh vực đó chỉ có càng ngày càng tệ đi. Quyết liệt thúc đẩy tăng trưởng thì tăng trưởng ngày càng đi xuống. Quyết liệt kiềm chế lạm phát thì lạm phát ngày càng tăng lên đến mức cao thứ nhì thế giới trong năm 2011. Quyết liệt kiềm chế tham nhũng thì tham nhũng và đi kèm với nó nạn chạy chỗ, chạy chức, chạy quyền ngày càng lan rộng và ăn sâu vào nền kinh tế, vào thể chế, vào toàn bộ xã hội. Quyết liệt điều hành đám con cưng tập đoàn thì đám con cưng ngày càng ăn tàn phá hại, nợ đầm nợ đìa…
Có thể có người cho là từ “quyết liệt” với thủ tướng Dũng đã trở thành “sáo ngữ”, nói quen miệng nên đụng đâu nói đó. Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như vậy. Việc thủ tướng Dũng liên tục dùng từ này thể hiện rõ tư duy của ông về cách điều hành nền kinh tế nói riêng và điều hành nhà nước nói chung. Thủ tướng cho rằng có thể dùng ý muốn, ý chí chủ quan của mình để can thiệp vào sự vận hành khách quan của nền kinh tế và bắt nền kinh tế đi theo ý muốn chủ quan của mình. Điều này là hết sức nguy hiểm. Khi một quốc gia chấp nhận nền kinh tế thị trường tức là cũng phải chấp nhận rằng, về cơ bản thị trường thông minh hơn trí khôn chủ quan của con người. Kinh nghiệm phát triển hàng trăm năm qua cho thấy, dù có nhiều khiếm khuyết thì thị trường vẫn là cơ chế kinh tế tốt nhất để tạo ra của cải và sự phồn vinh cho xã hội. Một nhà nước khôn ngoan là nhà nước xây dựng một cơ chế thị trường minh bạch, dựa trên cơ chế cạnh tranh để cho các chủ thể trong nền kinh tế tự vận hành và nhà nước chỉ là người tham gia chỉnh sửa những khuyết tật của thị trường như hiện tượng ngoại ứng, độc quyền hay thiếu hụt hàng hóa công. Nếu cứ cố gắng dùng các công cụ hành chính can thiệp mạnh và hướng các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế đi theo ý muốn chủ quan của mình thì gần như không tránh khỏi thất bại cay đắng.
Thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong vài năm qua đã cho thấy điều đó rất rõ. Chính vì thủ tướng Dũng đã muốn các tập đoàn con cưng của mình nhanh chóng “sánh vai” với các tập đoàn lớn trên thế giới nên đã “quyết liệt” dồn quá nhiều nguồn lực khan hiếm cho những cái cối xay tiền như Vinashin, Vinalines, EVN, TKV[i]… Đáng lẽ phải chống lạm phát bằng cách minh bạch hóa chi phí của các tập đoàn nhà nước, tạo cơ chế để bắt buộc các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường thì lại can thiệp thô bạo bằng các mệnh lệnh hành chính như chỉ thị không được tăng giá điện, giá than… làm thị trường ngày càng trở nên méo mó và cuối cùng khi không kìm được giá nữa thì phải tăng đột ngột ở biên độ cao làm cho nền kinh tế phải chịu các cú sốc không đáng có.
Việc liên tục dùng từ “quyết liệt” ở tần suất cao cũng cho thấy tính cách của thủ tướng Dũng là chỉ thích làm việc theo suy nghĩ chủ quan của mình, không muốn nghe những lời can gián hay nói trái của cấp dưới. Điều này thể hiện quá rõ qua việc thủ tướng giải thể Ban nghiên cứu của Thủ tướng ngay khi mới nhậm chức hay ký Quyết định 97/2009/QĐ-TTg thu hẹp đáng kể quyền phản biện của các tổ chức. Bản thân Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW là một viện nghiên cứu của chính phủ nhưng khi phê phán chính phủ nhiều quá cũng bị thủ tướng nhắc nhở:
Người đứng đầu Chính phủ đề xuất Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương hoàn thiện hệ thống thể chế, “không nên phê phán Chính phủ nhiều nữa, cần tập trung vào làm”. (Vietnamnet, 8/12/2011)
Một quốc gia mà người lãnh đạo cao nhất không muốn nghe những lời nói trái của trí thức, chỉ thích nghe tâng bốc, nịnh bợ mình thành “thủ tướng xuất sắc nhất châu Á”, chỉ thích làm theo ý muốn chủ quan của mình thì làm sao quốc gia đó có thể phát triển trong một môi trường quốc tế cạnh tranh ở mức độ rất cao như hiện nay? Nguy hiểm hơn nữa là tư duy điều hành này của thủ tướng Dũng vẫn không có gì thay đổi dù thủ tướng đã phải chịu sức ép mà xin lỗi trước Quốc hội vào cuối năm 2012. Cứ nhìn những chỉ đạo trong thời gian gần đây của thủ tướng thì vẫn đầy những từ “quyết liệt”. Ngạn ngữ phương Tây có câu rất hay là: “You cannot teach an old dog new tricks” nghĩa là “Bạn không thể dạy trò mới cho một con chó già” rất đúng trong trường hợp này. Như vậy đã có thể nhìn thấy trước tương lai của Việt Nam trong những năm tới, nếu thủ tướng Dũng còn nắm quyền rồi.
Như đã nói ở trên, việc thủ tướng Dũng ở đâu, lĩnh vực nào cũng dùng từ “quyết liệt” cũng đã góp phần tạo nên một trào lưu ăn theo nói leo ở các quan chức thấp hơn. Bây giờ mở bất cứ văn bản nào của các bộ ngành, cơ quan hành chính mọi cấp, trong diễn đàn của hội đồng nhân dân, Quốc hội… đi đâu cũng thấy từ “quyết liệt”. Một người có IQ ở mức bình thường cũng thừa hiểu rằng với mức lương chính thức ở mức chưa đủ sống như hiện nay, muốn các viên chức nhà nước làm việc ở mức “bình thường” cũng đã khó chứ đừng nói là bắt họ “quyết liệt”. Từ “quyết liệt” may lắm chỉ phù hợp trong những tình huống khẩn cấp như chống bão lớn, cứu đói trên diện rộng… Dùng từ “quyết liệt” quá nhiều trong khi ai cũng biết là chả thể “quyết liệt” nổi chính là làm cho xã hội trở nên quen với thói dối trá, lãnh đạo thì thêm quen với việc hô hào suông những lời rỗng tuếch, thùng rỗng kêu to, mồm miệng đỡ chân tay.
Tóm lại, nếu thủ tướng Dũng và bộ máy dưới quyền vẫn tiếp tục giữ tư duy điều hành nền kinh tế theo kiểu “quyết liệt” như từ giữa năm 2006 tới nay thì thủ tướng càng Quyết, nền kinh tế sẽ càng Liệt hay nói đúng hơn là thủ tướng và bộ máy của mình đang Quyết (tâm) làm đất nước Liệt đi như thực tế đang diễn ra.
© Trần Ngân
Nguồn: Viet-studies
[i] Cùng với Phó thủ tướng lúc đó là ông Sinh Hùng đã ký văn bản ép các ngân hàng cho Vinashin vay 10.000 tỷ (Vneconomy, 25/9/2008) thì thủ tướng Dũng cũng chỉ đạo ngân hàng cho Tập đoàn điện lực EVN vay 10.000 tỷ để làm vốn lưu động (Tuổi trẻ, 6/9/2011)
Đồng chí Ba Dũng tôi xin có ý kiến kiếm tiền và lợi nhuận cho đảng và quân đội nhân dân là lập một đạo binh hộ lý như đảng đã phục vụ các đồng chí trong thời giải phóng miền nam , xin xem bài dưới đây sẽ động nảo mà có kế hoạch ngay : Sau 38 năm giải phóng gái Việt không nghề không biết đảng đang cần đến chị em và đảng hay đĩ cùng một loại là kiếm tiền không cần liêm sĩ :
Cách đây đã lâu, trên mạng cũng như ngoài đời có lưu truyền truyện “đảng và Đĩ”. Trong một cuộc lục soát “quy mô lớn” một “khu đèn đỏ” vào ban đêm, công an thành Hồ đã bắt một “bộ phận không nhỏ” ma cô và chị em ta. Sáng hôm sau, trên một bức tường xuất hiện bài thơ:
“Phong kiến như thể nước Tàu
Cũng không cấm chuyện thụt vào thụt ra.
Văn minh như thể nước Nga
Cũng đâu cấm chuyện thụt ra thụt vào.
Lạc hậu như thể nước Lào
Lại càng không cấm thụt vào thụt ra.
Anh hùng như thể nước ta
Tại sao lại cấm thụt ra thụt vào?”
“Cuộc chiến giữa đảng và Đĩ” còn đang tiếp diễn – kẻ đi bắt, người hành nghề chui – thì đùng một cái, trong dịp Tết này, các báo rộ lên tin nhà cầm quyền thành Hồ đề nghị nhà nước CSVN cho lập khu “đèn đỏ” và chính thức thừa nhận hiện có “đội quân” mại dâm lên tới trên 15,000 người, tương đương hai sư đoàn. Chi Cục Phòng Chống Tệ Nạn Xã Hội nói rằng thành phố này hoàn toàn bó tay trước tệ nạn mại dâm “ngày càng diễn biến phức tạp, dưới các hình thức hết sức tinh vi”.
Người dân Miền Nam chắc còn nhớ sau tháng 4/1975, đảng CS vừa cướp hết tài sản và các phương tiện sản xuất tại miền Nam vừa đổ hết mọi tệ đoan xã hội lên đầu Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa. Sau 38 năm cai trị bằng chế độ độc tài và bần cùng hóa nhân dân, họ đã làm cho các tệ nạn xã hội gia tăng khủng khiếp đến mức báo động và hết thuốc chữa.
Thật vậy, trước năm 1975, Sài Gòn chỉ có bia ôm. Dưới chế độ CS, ngoài bia ôm, thành Hồ còn có cà-phê ôm, karaoke ôm, tắm ôm, võng ôm, đấm bóp ôm, hớt tóc ôm, ráy tai ôm, câu ôm, du lịch ôm, ôm tới bến… Tất cả các hình thức kinh doanh đó đều có “ôm”. Tùy theo giá cứng hay mềm, sẽ là ôm đứng, ôm ngồi hay ôm nằm từ A đến Z.
Việc kinh doanh “ôm” phát triển một phần là do nghèo đói vì người dân không có việc làm mà ruộng đất thì bị cưỡng chế tịch thu; phần khác là do kiếm tiền dễ dàng vì khách sẵn sàng “chi đẹp” cho tới khi cạn túi :
“Chưa đi thì nhớ Sài Gòn
Đi về mới thấy không còn một xu.
Nằm buồn ngẫm nghĩ mình ngu,
Cái mồm ăn một “con cu” ăn mười.”
Sau các “cú đấm thép, tập đoàn kinh tế quốc doanh như Vinashin, Vinalines…” bị thất bại và ngân hàng “trống lốc” vì nợ xấu, có lẽ đảng thấy “con cu” ăn gấp mười cái mồm nên đang tính làm luật để lo “thức ăn” cho “con cu” hòng thu lời nhanh chóng một cách hợp pháp mà không sợ bị lỗ vốn. Họ đã đưa ra lý luận rằng nhiều nước đã làm như vậy, vừa thu được thuế vừa kiểm soát được bệnh tật (?).
Toan tính đó đã đi ngược lại truyền thống đạo đức của dân tộc nên đã bị nhiều người phản đối. Họ cho rằng lý luận như trên là cách nói mỵ dân. Hợp thức hóa nạn mại dâm là “lợi bất cập hại”. Hơn nữa, đảng thò tay vào đâu thì hư tới đấy. Đảng thò tay vào quân đội thì quân đội trung thành với đảng và không bảo vệ ngư dân trên Biển Đông, đảng thò tay vào công an thì công an khủng bố nhân dân miễn là “còn đảng còn mình”, đảng thò tay vào giáo dục thì thầy trò đổi tình lấy điểm và “phao thi” trắng sân trường, đảng thò tay vào tòa án thì tòa xử theo luật rừng… Nay đảng mà thò tay vào đùi chị em ta thì làm sao họ có đời sống tốt đẹp hơn được?
Liên minh Quốc tế chống buôn bán phụ nữ (Coalition Against Trafficking in Women) cũng chỉ ra rằng: “Ở Hà Lan, Đức và Australia, việc hợp pháp hoá mại dâm đã không thể bảo vệ phụ nữ hành nghề, không làm giảm mại dâm trẻ em hay buôn bán người trái phép từ nước ngoài, cũng như không ngăn ngừa được sự lây lan HIV/AIDS. Hợp pháp hoá mại dâm – nghĩa là hợp pháp hóa phụ nữ bán dâm, những kẻ bảo kê, “dắt gái”, nhà chứa và khách mua dâm – đã biến các nước này thành những nhà thổ lớn.”
Điều người dân lo ngại nhất là đời sống gia đình, xã hội sẽ đảo lộn theo chiều hướng rất xấu. Mại dâm chưa là hợp pháp mà đã lôi cuốn cả giới nữ sinh, sinh viên, ca sĩ, siêu người mẫu, hoa hậu, á hậu, hoa khôi, nam giới… nhập cuộc “sôi nổi”(*). Vào thập niên 1990, đã có truyền miệng truyện tiếu lâm cười ra nước mắt như sau:
“Trong một lớp học, thầy giáo hỏi học sinh xem các em ước mơ gì trong tương lai. Đa số các em muốn thành giáo sư, kỹ sư, nhạc sĩ, ca sĩ, bác sĩ, thương gia… Khi hỏi tới một nữ sinh, em trả lời:
– Em ước mơ sau này người em toàn là lông.
- Sao em lại ước mơ kỳ lạ vậy?
- Thưa thầy, tại vì chị em chỉ có một chùm lông thôi mà chị có thể đi làm
nuôi sống cả nhà.”
Đất nước sẽ đi về đâu khi “ước mơ” trên trở thành “ước mơ” phổ biến trong xã hội có khu “đèn đỏ” hợp pháp?”
Sau bao nhiêu năm xây dựng thiên đàng XHCN bánh vẽ thất bại, nay đảng CSVN đang nghĩ đến chuyện đi vào cặp đùi của giới chị em ta để kiếm tiền thì khác gì “thằng bé âm thầm đi vào ngõ hẹp”, vào đường cùng. Đảng đi vào đùi thì chỉ có lún sâu, khó mà ngóc đầu lên được. Có thể đảng sẽ bị chết ngộp.
ĐC”Ếch xì xằng”,tức “3 Dê”cũng thích khuyên các cán ngố là”làm nhiều,nói ít”,khiến họ”làm liều,nói dối”,nhưng chỉ cần bắt chước đồng chí Ba Dũng ra trước Cu Hát(QH)để”xin lỗi”là hết tội!Rồi lại tiếp tục quyết làm liệt đất nước như hiện nay(bất động sản”đóng băng”,nợ”xấu”chồng chất,tài nguyên đất nước bán dần hết,v…v…).
Nhưng tại sao ĐC”Ếch xì xằng” vẫn chưa chịu thỏa mãn n(g)hu cầu cần được”xin lỗi” của một số người Việt ở nước ngoài đang chờ đợi để đi may”áo gấm” về làng,như mấy trăm ngàn VK khác diện áo gấm về làng họ nội,thăm làng họ ngoại mỗi năm! Như vậy có hơn là ở nước ngoài buôn”mũ cối”chụp loạn lên đầu tất cả những ai không chịu”khăn đóng,áo rằn ri”đi ăn Giỗ 30.4 hàng năm!?