WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối

nhung loi trang troi

Ðã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí Minh (HCM) riêng cuốn Trần Ðức Thảo Những Lời Trăng Trối là cuốn rất ðặc biệt vì sách ðã “phân tích sư thật về những hành ðộng khủng khiếp” của họ Hồ bởi một triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế giới”. Nãm 1951 ông bỏ Paris về bưng, qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng chiến chống Pháp; ðã từng “trải nghiệm gian khổ trong chiến tranh, trong cách mạng” suốt 40 nãm. Nhà triết học họ Trần trước khi mất ðã khẳng ðịnh, Marx ðã gây ra mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói, chính “cuồng vọng lãnh tụ” ðã khiến “ông cụ” là một con người “cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của ðạo lý”. Theo ông, ðây là “một Tào Tháo muôn mặt của muôn ðời” và “là một con khủng long ba ðầu, chin ðuôi”.

Lời trối trãng của nhà triết học Trần Ðức Thảo cho biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám ðưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra ðược tình trạng bế tắc chính trị ðộc hại như hiện nay ở nước ta”. Theo ông, quá khứ cách mạng của Viêt Nam ðã tích tụ quá nặng ðầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427 trang là những lời tâm sự sống ðộng của một nhà tư tưởng giúp ðộc giả hiểu rõ nguồn gốc của thảm kịch ðang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên ðất nước ta. Ông cảnh báo xã hội Việt Nam “ðang bị ung thối bởi cãn bệnh xảo trá, cãn bệnh thủ ðoạn của ðảng”. Ông bị tống ði ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé ði một chiều, bị ðuổi khỏi Saigon, buộc phải ði Pháp, không ðược trở về Hà nôi.

Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Ðức Thảo (1917-1993) ðã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử với ðất nước và dân tộc, ðã ðể lại di sản vô cùng trầm trọng: “chọn chủ nghĩa xã hội của Marx ðể xây dưng chế ðộ, chọn chiến tranh xoá hiệp ðịnh hòa bình ðể bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất ðất nước, chọn Mao và ðảng Cộng sản Trung Quốc làm ðồng minh, ðồng chí”. Sách có 16 chương, một chương chỉ ðể giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng ðược ðề cập tới. Ông xác nhận, hễ nói tới thảm kịch VN thì “không thể không nhãc tới ông cụ”. Cố giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao ðã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và “Trung Quốc muốn nhuộm ðỏ Việt Nam theo ðúng màu ðỏ ðậm của Trung Quốc”.

Đãi ngộ hay bạc đãi

Triết gia Trần Ðức Thảo (TÐT), nổi tiếng về hiện tượng luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre ðược ðảng Cọng Sản Pháp vận ðộng ðể ðược cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cưú sâu rộng cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của Karl Marx”. Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng”; bị nghi là “siêu gián ðiệp trí thức”. Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Nãm 1991 ông “bị ðẩy trở lại Paris”. Thế nhưng, sau khi qua ðời ngày 24/4/1993, nhà cầm quyền Hà nội lại truy tặng ông huy chưong Ðộc Lập; ca tụng ông là nhà triết học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tưởng HCM” ðã có ảnh hưởng với nhà triết học số một Việt Nam và lúc sinh thời ðảng, nhả nước rất mực trọng ðãi ông.

Có thật thế không? Trong chương Ðãi ngộ hay bạc ðãi, ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che dấu một ðối xử nghiệt ngã và tồi tệ”. Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn ðứng giữa ruộng dưa”. Sự thật “họ chỉ ðể cho sống; cho tôi khỏi chết ðói; chỉ toàn là bạc ðãi”. Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập nhân dân nghĩa là phải cúi ðầu tuyệt ðối vâng, nghe lời ðảng”. Ông tiết lộ, tuy có chức phó giám ðốc trường Ðại Học Vãn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề ðược tham dự bàn bạc gì vào việc tổ chức, ðiều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy cũng không hề có”. Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay ði theo các phái ðoàn thanh tra là chỉ ðể “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng”.

Những ðiều nói ðó phù hợp với bài báo của nhà thơ Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Ðức Thảo ðãng trên báo Tiền phong ngày 11/5/1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều người trong nước ðược biết rằng ðất nước chúng ta ðã từng sinh ra một triết gia tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì lôi thôi nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su ðứt quai, ðầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe ðạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà ðồng nát cũng chê. Thật ðúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, ðạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người”.

Mưu thần chước quỷ

Nhiều người tự hỏi bị ðối xử cay ðắng như vậy sao “bác Thảo lại hay có lúc bật cười như ðiên”; và bị chung quanh chê bai, chế giễu “bác là người khùng”? TÐT cho hay, ông bắt ðầu “hết cười rồi lại khóc” sau khi tham gia ðợt thì hành cải cách ruộng ðất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên Quang nãm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh ðạo “chọn con ðường hành ðộng nặng tính cuồng tín, dã man”. Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng ðểu, thằng ác, thằng lưu manh”. Về giai thoại TÐT ði chãn bò, theo ông, ðó là một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của một chính quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu “trí thức không bằng cục phân” của Mao.

Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất sùng bái Trung Quốc, ‘cứ như là con ðẻ của ðảng Cộng sản Trung Quốc”. Là một nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, ðánh giá lại, ông thấy “nước ta trồng cây tư tưởng của Marx, cho tới nay cây ðó chỉ cho toàn quả ðắng”. Chính “cái thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự ðau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ” khiến ông muốn “ðặt lại vấn ðề từ học thuyết”. Triết gia TÐT nói, nhiều lãnh tụ “từ lầu ðài tư tưởng Marx bước ra ðã trở thành những ác quỉ”. Theo ông, “quỉ ấy là ý thức ðấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rut” tư tưởng ðộc hại vô cùng; nó phá hoại xã hội, nó thúc ðẩy con người ðam mê tìm thắng lợi, bằng ðủ thứ quỉ kế, ðể mưu ðồ củng cố cho chế ðộ ðộc tài, ðộc ðảng.

Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ” là một nhà ảo thuật chính trị ðại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì biến không thành có”. Ðúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành ðộng muôn hướng, muôn mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!” Bác Hồ ðánh lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói ðầu bản tuyên bố ðộc lập của Mỹ; ðánh lừa các ðảng trong nước khi thành lập chính phủ ðại ðoàn kết và mời cựu hoàng Bảo Ðại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản ðộng; ðẩy Bảo Ðại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn ðược triết gia TÐT gọi là một nhà chính trị “thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao ðể ðược ðưa về xứ làm lãnh ðạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.

Cố Giáo sư TÐT kể lại rằng, biết mình bị Ðệ Tam Quốc Tế tức Liên Sô loại ðuổi khéo về Viễn Ðông và biết Mao là thủ lãnh các phong trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ gia nhập ðảng Cộng sản Trung Quốc; ðược Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng bước loại bỏ tất cả ðối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn vãn Cừ… ðể rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước nãm 1945. Dù sự tấn phong “ông cụ” ở các ðại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các khu uỷ, xử uỷ và của “Ðê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên ðã qua mặt những sự phản ðối này vì họ là những kẻ ðã từng nhận ðược sự nâng ðỡ của cộng sản Trung Quốc. Triết gia họ Trần nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt cơ hội”.

Huyền thoại “bác Hồ”

Vẫn theo nhà tư tưởng TÐT, các nhà nghiên cứu nước ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của bộ máy tuyên truyền; họ xử dụng sản phẩm chính thống của ðảng thì làm sao họ hiểu hết ðược mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất chính gốc, bộc lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Ðó là những tên giả chính “cụ Hồ” ðã tự ðặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẻ, phải phân tách những chuyện biến tư tưởng qua từng giai ðoạn ðổi tên, ðổi họ; từ những cái tên “Tất Thành”, rồi “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”. Ðấy là những biểu hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành lãnh tụ cách mạng sau khi không ðược cho vào học Trường Thuộc Ðịa ðể ra là quan.

Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách ðề cao mình, như cuốn “Những mẩu chuyện về cuộc ðời hoạt ðộng của Hồ chủ tịch” và “Vừa ði ðường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân ðược. “Ông cụ” ðã tạo ra một thời chính trị ðiên ðảo. Ngoài ra, ðám quần thần chung quanh “ông cụ”, không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “Người”. Họ tôn vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói “ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”. TÐT cho biết, nãm 1946 gặp “ông cụ” trong một buổi chiêu ðãi ở Paris, ông ðã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa cần tới chú ðâu” của HCM; khi ông tự ý nắm tay “ông cụ” ngỏ lời: “Tôi muốn về nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt ðẹp tại quê hương”.

Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông ðược vể nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà nội và Saigon ðang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp thống trị mới ðang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TÐT càng thấy huyền thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hoá trang cao ðộ”. Cái gì có giá trị là của bác, của ðảng. Họ công kênh “ông cụ” lên làm bậc thần, bậc thánh. Theo TÐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục tùng lãnh tụ mới có thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn sùng HCM. Ông nhấn mạnh, “bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành ðạt về chính trị; “không thể nào là mẫu mực về mặt ðạo ðức”; vì cách sống muôn mặt của bác ðâu phải là gương sáng.

Nhà triết học bị kết tội “cầm ðầu âm mưu chống ðảng” vì hai bài viết trên Nhân Vãn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em vãn nghệ trẻ chủ xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp ðứng ðầu là Sartre “tận tình quan tâm, chãm sóc” ðến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác nãm 1946 ðòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch; muốn ðấu lý với cố vấn Trung Quốc lúc làm ðội viên cải cách ruông ðất và vụ NVGP, ông có thể “dễ chết`như chơi”. Nãm 1952 triết gia ðược dẫn ði chào “Bác”. Ban lễ tân dặn ông bốn ðiều cần nhớ: phải ðứng xa “Người” ba mét, chỉ lại gần khi “Người” ra lệnh; không ðược nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không ðược chào trước; không ðược nói tôi phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng “bác.

Chư hầu ngoan ngoãn

Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TÐT thì HCM chưa ðọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy sổi nên chưa tiêu hóa ðược”; nhưng lại “ðọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machiavel”, cuốn chỉ bày tận dụng mọi thứ ðể người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài nặng lý trí ðến vô cảm; không thiết tha với gia ðình; không có bạn hữu thân tình. “Ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học ðược ”ông cụ” ðào tạo ðể phục tùng; rồi sau ðề bạt lên làm lớn. “Ông cụ” làm thơ là “do cuồng vọng chính trị”, là ðể “ca ngợi mình” và “hô hào quyết chiến”. Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma quái nó ðè. Ðó là “ bóng ma ðế quốc bành trướng vô cùng ðộc ðoán, lấn át của Mao.”

Vẫn theo TÐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên ðẹp “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một ðế quốc ðỏ; nó kềm kẹp các dân tộc nhược tiểu quanh nó. Ðó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”; muốn biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn”. “Ông cụ” vì tham vọng quyền lực từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không ðược nên ðã lấy học thuyết “giai cấp ðấu tranh” làm kim chỉ nam ðể tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà triết học nói, ðể nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông thần”, từ bỏ cả vợ con, mất ði tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài. Lại thêm, Mao ðã cài chung quanh “ông cụ” một ðám cực kỳ cuồng tín.

Trong chương “Hai chuyến di chuyển ðổi ðời” của cuốn sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông ðược rời cảnh “sống như bị giam lỏng ở Hà nội” ðể vào Saigon ở là nhờ sự vận ðộng của một số ðồng chí trí thức Nam Bộ. “Saigon ðã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện ðại; ðâu có ðói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam ðã có một mức ðộ dân chủ rõ rệt. Miền bắc bị tư tưởng Mac-Lenine làm nẩy sinh những chính sách ðầy sai lầm. Sĩ quan của “bộ ðội cụ Hồ” ðã có “thái ðộ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục mạ, gọi Dương vãn Minh là mày, và bắt cả nhóm phải ðứng cúi ðầu.” Ðấy là những lời thố lộ của TDT mà nhà vãn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ðã viết lại qua các cuốn bãng thu những ðiều ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối ðời ông ở Paris.

Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công Sơn là hai người ðã thúc ðẩy ông phải thoát khỏi thái ðộ hèn nhát ðã ngự trị trong ðầu óc trí thức và vãn nghệ sĩ Hà nội; giới này ðã ứng xử ðồng lõa với tội ác của cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho NVGP. Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở Saigon sau 1975, nếu ðọc chương “Vẫn chưa ðược giải phóng” ðều nhận thấy những mô tả của triết gia về Hà nội nãm 1954 rất giống Saigon sau 30/4/75: “cả con người và xã hội ở ðây ðã không hề ðược giải phóng” và thật là “vô lý và nhục nhã” khi so sánh với chế ðộ cũ. Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù, tích lũy mà có ðược; tư hữu kiểu mới do chiếm ðoạt bằng chữ ký và quyền lực.

Cao vọng hơn “bác Hồ”

Ðược gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10 ngày TÐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”. Ðây là vãn bản phản bác giáo ðiều, ðược ðón nhận như một bông hoa lạ. Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí thức khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học ðể nghe những “lời tiên tri” là “cách mạng ðã biến chất ðể tư bản man rợ tràn ngập”. Trung Ương thấy số người “phức tạp” ðến gặp “bác Thảo” càng ngày càng ðông, nên Ðảng ðã quyết ðịnh “anh phải ra ði”. Nhà triết học than “thôi thì ðành mang thân xác ra xứ người”. Qua Pháp, tuy ðã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn “lâm cảnh sống nay lo mai”, và còn bị Toà ðại sứ theo dõi kiểm soát chặt chẽ.

Trong cài xui có cái may. Nhà vãn Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ ðể kiếm sống qua các buổi thuyết trình ở kinh ðô ánh sáng mà ðã làm quen thân với ông, ðược nghe ông tâm sự. Quyển sách ghi lại nỗi hối hận ðã thiêu ðốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc ðời. Nhà vãn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn bãng cho những ai muốn nghiên cứu về TÐT”. Trong sách nhà triết học có lần ðã khẳng ðịnh: “tôi có tham vọng cao hơn của “bác Hồ” nhiều lắm”. Ðấy là xây dựng “một lâu ðài tư tưởng trong ðó toàn thể nhân loại ðều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình”. Nhưng mộng ðó không thành, triết gia lừng danh một thời trời Âu bị ðột tử. Chúng ta mất ði “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng”.

Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là ðể phục hồi danh dự một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc ðời TÐT xem như cuộc ðời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào nãm 1951 nên mọi sự trở nên vỡ lở. Cuộc ðời ðó có thể xem như một bài học –“an object lesson”- với những ai ðể cho tình cảm, lý tưởng che mờ ði lý trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có ðời sống gia ðình, không có tự do trong bóng tối làm những việc ông muốn làm cho quê hương ðất nước của ông. Sự nghiệp triết học của ông là một sự nghiệp dang dở.” Sách ðược xuất bản lần ðầu với số lượng ít; tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ ðể thãm dò ý kiến thân hữu.

Những ai yêu “bác Hồ”, những ai coi HCM là tên tội ðồ hay các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và những ai còn nghĩ ðến nước Việt nên ðọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác giả nào trên thế giới – ngoại trừ triết gia TÐT- nêu ra ðược, thật sáng tỏ, những ðiều vô cùng bi thảm trong thời cách mạng; vì ông ðã trải nghiệm 40 nãm trong cuộc. Ngoài ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm về HCM, kẻ ðã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt Nam TÐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự ðại nhưng “không gian trá ðến mức tinh quái” ðể có những “hành ðộng muôn hướng, muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”.

Phan Thanh Tâm

Saint Paul, 6/2014

© Đàn Chim Việt

 

 

53 Phản hồi cho “Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối”

  1. DâM TiêN says:

    Chuyện xưa, mà vẫn nay, Trần đức ẢO…khó sai bảo…

    Trung sĩ Dâm tui, ngày ấy, nhân dịp tiếp tế hàng tuần, ông
    sĩ quan ban Một…mang ra BA chú lính mới trơn tru…

    Một chú đệ tứ đảng Tea Kwan do; chú kia cử nhân báo chí,
    mà sao chịu binh nhì ? Chú khác trông bặm trợn ghế nơi…

    Sẽ dung mấy ông lính này zô chỗ nào, ta ? thôi thì, bèn lợi
    dung oai hùm trung sĩ, cho chú cử nhân viết Nhựt ký hành
    quân giùm…ta0; chú đệ tứ đẳng hả… làm hộ vệ cho tao, oai,
    mậy ! Tên lính…lặm trợn… có biết uýnh bi-a, chơi bóng bàn
    không mậy ? ( dạ…thưa trung sị, em vốn dân chơi, mà !)

    Ấy a, Trung sĩ Dâm tui,cũng như Cụ Gồ, thấy khó mà xự dung
    cho… tốt cái ông gàn gàn triêt lý ba xu Đức Thảo kia… chĩ ngứa
    cả mắt ! khôn thì khôn quá, mà ngu thì ngu …quá..,.khó xài!

    Vói Dâm tui à, cái thằng cử Nhân thì cũng nhàng nhàng, mà nó
    nói tiếng Hồng Mao như…gió ! thằng đệ tứ đãng y như cục sắt,
    thôi…đi theo ta, khi ta đi…ăn mảnh sau hành quân…mệt mỏi…

    Còn tên bặm trợn …thì hầu ta bi-a bóng bàn nha, cũng sau hành
    quân, mà nó là dân chơi ngoại hang, cứ uýnh thua trung sị ta
    không hà… rất trung thành thầy thầy em em , –sau này mới rõ,
    chính nó là NĂM CAM ! )… Nghĩ cũng thương em, Năm Cam !

  2. Huynh says:

    Đề nghị post băng ghi âm những lời của triết gia Trần Đức Thảo lên mạng để rộng đường dư luận.

  3. Hòa says:

    Chữ TRĂNG (có G) dùng cho “mặt trăng” chứ ai dùng chữ TRĂNG (có G) trong trăn trối.

    *
    Trần Đức Thảo chỉ là một kẻ lý sự già mồm dùng chữ nghĩa đè bẹp thiên hạ nhưng sự hiểu biết của một học giả thì chẳng có bao nhiêu.
    TĐT bị Hồ Chí Minh và những cán bộ csvn khác đẩy đi chỗ khác vì những kẻ đó sợ cái danh “kẻ có học” “triết gia” của TĐT chiếm đi hào quang của họ. Vì thế, TĐT bị những tên kia, những tên dốt nát, vô học thức, bần cố, nông dân đè bẹp là vậy.
    TĐT bị như thế là do TĐT một gả triết gia lùn, bị bệnh hoang tưởng, không biết về lý thuyết cs khi đi đời sống thực tế của con người đã biến dạng hoàn toàn, không như sách vỡ lý thuyết suông, và mang lại ảnh hưởng xấu như thế nào .
    Ai bảo Trần Đức Thảo là một triết gia lỗi lạc? Thực tế, Trần Đức Thảo đã hoàn toàn thất bại trong triết lý của ông ta một cách thảm hại.

  4. haingoai says:

    Những kinh nghiệm, nhận xét của ông Trần đức Thảo về ông Hồ, về CSVN như trong bài viết thì thật chẳng có gì mới lạ nếu không nói là tầm thường, nhận xét của ông chẳng hơn gì một người dân đen đã từng có kinh nghiệm CS.
    Về ông Hồ chí Minh thì người Tây phương đa số nhận xét sai, họ cho ông là nha` ái quốc, cũng có nhiều người Tấy phương đạo đức giả (nhất là Mỹ) biết thừa cái tẩy của ông Hồ nhưng họ vẫn giả vờ ca tụng.
    Ông TĐT là một giáo sư giỏi, theo lời GS Bùi Xuân Bào (TS văn chương, khoa trưởng Đại học văn khoa SG thập niên 70) thì ông TĐT đậu thạc sĩ cao hơn ông Jean-Paul Sartre. Nhưng như chúng ta thấy ông Sartre là nhà tiết gia lừng danh quốc tế, có riêng một hệ thống triết học, còn TĐT chỉ là một giáo sư không tự lập cho mình một triết thuyết và như vậy không nên thổi phồng ông lên thành một nhà triết gia.
    Ông TĐT nếu ở lại Pháp thì cũng chỉ là ông Giáo sư giỏi có chút tiếng tăm trong ngành giáo dục không hơn không kém chứ không phải triết gia lừng lẫy gì như người ta đồn thổi
    Thời buổi high tech, Iphone, Ipad.. này mà nói chuyện triết học Mác thì chán quá, người mình, nhất là giới trí thức xã hội chủ nghĩa …còn nhắc tới Mác nhưng người Mỹ họ chẳng biết Mác là cái ông nào cả, biết để làm gì?

  5. Nguyễn Thế Viên says:

    HCM và CSVN là nguyên nhân cuả các tai hoạ mà VN gánh chịu trong lịch sử cận đại, hiện đại và không biết đến bao giờ, trong đó điều tệ hại nhất là biến VN thành nô lệ cho Tàu.
    Nguyễn Thế Viên

  6. Doan Bui says:

    “Trăng trối” hay “Trăn trối”?
    Doan Bui

    • nguenha says:

      “trăng trối” : là nói lại những lời cuối cùng trước khi chết.( bất kể lđiều gì) .Thông thường ,người ta nói : “trối-trăng”,it khi nói “trăng-trối” . Còn “trăn” là : trăn -trở (toss about) = trằn trọc. : đang lo nghĩ về vấn đề gì. “Trăn -trối “là nói lại nhữngđiều còn trăn -trở trước khi chết. Tôi không hiểu vì sao Tá cgiả lại viết “Trăng trối” mà không viết “trăn-trối” hoặc “trối -trăng”.
      Cám ơn.

    • Học trò Trung học phổ thông says:

      Viết đúng, nói đúng là “Trăng trối”, còn “Trăn” thì thường là “Trăn trở”.

    • Vũ Cường says:

      Có lẽ tác giả bài này người miền Nam ?

      • DâM TiêN says:

        Nếu tác giả là dân Lai như DâM TiêN tui,

        thì sẽ viết trẹo Trăng Trối là CHĂN GỐI !

        Chăn gối, nghe êm đềm, mà vũ bão, hỉ?

    • Trúc Bạch says:

      He he he ….

      Chả biết là Trăng trối hay trăn trối, bởi chả có quyển tự điển nào chứng minh là “trăng trối “đúng hay “trăn trối” đúng ; Chỉ có điều là “nguyên tác” của Trần Ngọc Khuê là “trăng trối” thì (đề nghị) ta nên dùng “trăng trối” trong đề tài này, và hiểu nghĩa rằng :

      Đó là một quyển sách nói về những lời thú nhận cay đắng trưới khi “về cõi” của một trí thức , một “triết gia” có tiếng như Trần Đức Thảo , nó cũng chính là một cảnh báo cho những người mang danh trí thức nhưng vẫn đang còn bị mê hoặc – bởi một tên điếm quốc tế như Hồ Chí Minh .

      Chỉ cần hiểu lời “trăng trối” (hay trăn trối) của Trần Đức Thảo chính là lời tự thú trước khi thở hơi cuối cúng của kẻ lầm đường lạc lối. và là lời nói thật lòng, vì ngạn ngữ đã có câu :

      “Con chim trước khi chết vẫn muốn cất lên tiếng hót (dù) bi ai, Con người trước khi chết cũng muốn nói lời tâm huyết cuối cùng cho người còn sống”

    • Phan Thanh Tâm says:

      TRĂNG TRỐI

      Thân gởi Anh Phan Thanh Tâm
      (và xin nhờ Anh chuyển đến cho những ai thắc mắc),

      Về vấn-đề chữ “trăng trối” trên bìa sách TRẦN ĐỨC THẢO thì tôi xin thưa như sau:

      Có một ngộ-nhận khá phổ-biến là chữ “trăng trối” phải viết là “trăn trối,” nghĩa là chữ “trăng” không có “g.” Có lẽ ngộ-nhận này xuất phát từ sự gần như đồng-hóa “trăng trối” với “trăn trở,” một chuyện khác hoàn-toàn.

      Nếu chúng ta giở từ-điển ra xem, chúng ta sẽ thấy hầu hết các từ-điển đều ghi là “trăng trối,” thí dụ:

      Việt-nam Tự-điển của Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ, trang 1656.
      Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, ấn-bản 1992, trang 1008.
      Tự Điển Việt-Anh của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, trang 754.
      Từ Điển Tiếng Việt của Văn Tân không có “trăng trối” nhưng có “trối trăng,” trang 1259.
      Vietnamese-English Student Dictionary của Nguyễn Đình Hòa cũng không có “trăng trối” nhưng ở trang 613 có “trối trăng” và nói “xem giối giăng.”
      Và hầu hết các từ-điển chính-tả Việt-ngữ cũng đều viết “trăng trối.”

      Không hiểu sao ngộ-nhận “trăng trối” phải viết không “g” có thể phổ-biến đến như thế!

      Có hai cách để ta xác-định “trăng trối” bắt buộc phải có “g.” Đó là:

      Thứ nhất, có lẽ ai cũng dễ dàng đồng-ý “trăng trối” là đảo ngược của “trối trăng,”
      mà “trối trăng” thì không ai viết thành “trối trăn” cả.

      Thứ hai, trong tiếng Việt lịch-sử có một sự tương-đồng giữa “tr” và “gi”:
      trời – giời
      trăng – giăng
      trả – giả
      trao – giao v.v.

      Và như vậy thì:
      trăng trối tương-đồng với giăng giối
      cũng như
      trối trăng tương-đồng với giối giăng (không ai nói hay viết “giối giăn” cả)

      Mong là các bạn nào thắc mắc đồng-ý với sự phân-tích nói trên.

      • noileo says:

        Đọc cái danh mục những bài có liên hệ (?) đến bài chủ, [gọi là "THEO DÒNG SỰ KIỆN"] kèm dưới bài chủ, người ta thấy dòng cuối như sau:

        “Đi tìm cái tôi đã mất – Lời trăn trối đầy tâm huyết”.

        Như vậy “trăng trối” không hề là độc quyền, “trăn trối” vẫn đuọc xử dụng.
        Trong vị trí làm “tựa”, thì cho đến đây người ta thấy tỷ lệ là “1-1″.

        Tôi thuộc về “phe” dùng chữ “trăn trối”, bởi vì từ hồi nào tới giờ, từ nhỏ tôi đã đọc, đã viết, đã nói là “trăn trối”, đôi khi có nghe ngưòi khác nói bằng âm có chữ “g” kèm theo chữ “trăn”, nhưng hầu hết vẫn là “trăn trối”.
        Nhắc lại, tôi không có ý định nói chữ nào mới là đúng, tôi chỉ nói là bản thân tôi quen với chữ “trăn trối” hơn!

      • NGÀN THƠ says:

        NGƯỢC XUÔI XUÔI NGƯỢC

        Trối trăn, trăng trối ngược xuôi
        Trối trăng, trăn trối khiến người cãi nhau
        Chữ “g” quả thật nhiệm màu
        Có “g” mới thật ra người giống chi !
        Đúng sai nhưng cũng tùy nghi
        Bởi khi lưỡng giống thì “g” cũng thua !
        Nên thôi cũng cãi vừa vừa
        Cãi mà quá lắm lại thành nhiêu khê
        Dân ta chơi chữ nhiều bề
        Đố ai chơi chữ bằng Hồ Xuân Hương !
        Sự tình do tiếng Việt Nam
        Thằng Tây mà hiểu có còn mà khuya !

        THƠ NGÀN
        (18/6/14)

      • cam ca. says:

        trăng – giăng
        1/Ong dung tu dien cho thấy sự liên hệ giữa trăng (tiếng Việt cã nước dùng) và giăng (chĩ có người miền Bắc dùng.) trong nghĩa là (mặt) trăng.Tự điển của CS gọi là tiếng dịa phương (kiêu căng ở chổ là tiếng Bắc dùng đều là tiếng Việt ,dùng khác di là tiếng địa phương).Rồi kết luận trăn (trối trăn) phải có g thì không mấy thuyết phục.
        2/trong trối trăn ,ai nói chữ trăn(g) là đung? Và tai sao nó bắt buộc phải có (g) vì chữ đó chính là giối giăng?,nên giăng (có g) thì bắt buộc trăn có (g)?(kêu ngạo bắc kỳ?)
        “trăng” và “giăng” trong từ ghép này không có nghĩa gì hét. Nó không là mặt trăng (giăng),chĩ là chữ đêm.
        Và chữ VN có nhiều từ như vậy lắm ,không chẻ từng chữ đẻ giãi nghĩa được. ví dụ như tối (tăm) đần (độn) ……
        2/Trối trăn =trăn trối
        Ai nói trối trăn(g )là dùng ĐÚNG tiếng việtt nên đão ngược là phải trăn(g) trối .Tôi nói tốii trăn đão ngược lại là trăn trối cũng đúng vậy !
        (c)

      • Doan Bui says:

        Tiếng nói(phát âm) có thể khác nhau tùy miền, nhưng chữ viết (cách viết) thì chỉ có một chữ đúng thôi. Nói “tr” thành ra “gi” cũng không sao, nhưng khi viết ra phải viết cho đúng là “tr” mới chính xác. Tôi cho rằng chữ “trả” và “giả”, chữ “trao” và “giao”,chữ “trăng” và “giăng” không chắc là có cùng nghĩa giống hệt như nhau đâu ! Khi phát âm thì tùy theo ngữ cảnh của câu chuyện mà người nghe có thể hiểu đúng nghĩa của chữ (dù phát âm sai), nhưng khi viết thì mỗi chữ có nghĩa xác định riêng của nó, nhất là khi nó đứng một mình.

    • Cam Ca says:

      Trăn trối = trối trăn xưa nay đều nói và viết như vậy . Đôi khi dùng chữ “trối” một mình (khi nói,”thế trước khi cụ “di ,cụ có trối lại diều gì hệ trọng không ?).
      Người Bắc thì “giăng giối= giối giăng” cũng một ý đó ( có g) vì người Bắc khô ng đọc được chử TR : như Tướng Trưỡng thì đọc là Ong Chưỡng ,ong trới thì đọc là Ong chời ,ông giời…Và ngày nay thì nếu xem phim chuyễn âm hay nghe một người thanh niên nói ,dù trí hức ,vẫn “ngọng ” ,lâu ngày thành quen như
      “nhớ cưng quá chời” …Tuy nhiên khi viết vẫn viết đúng…
      Vây trối trăn = trăn trối (không (g).
      giối giăng= giăng dối (có g/Bắc)
      chĩ có nghĩa là lời nói cuối cùng dặn lại con cháu trước khi đi vào cỏi vĩnh hằng.
      Và tôi TIN người đăt tựa đề cho bài viết là ĐÚNG.
      Trần Đức Thảo ,người Bắc ,nên có lẻ Ong viết “giăng giối” ….
      (cam)

    • UncleFox says:

      _” … có chăng chỉ còn là giăng giối í í … mà thôi …” ( nhac. Phạm Duy)

      • tèo says:

        ” … có chăng chỉ còn là GIAN DỐI í í … mà thôi …” ( nhac. Phạm Duy).
        (t)

  7. ĐẠI NGÀN says:

    QUÁI CHIÊU TRẦN ĐỨC THẢO

    Ông Thảo khi còn ở bên Pháp, các bài viết hoàn toàn mang tính mác xít một cách cuồng nhiệt và bất chấp. Chắc ông có đọc cách lý luận của Mác nhiều nên phong cách phần nào cũng gần gần như thế. Như trong tranh luận với Sartre, trong bút chiến với những người khác, ông đều gần giống như Mác, tức cả vú lấp miệng em, đập phủ đầu các người khác chỉ bằng sự độc đoán tư tưởng của mình.
    Khi đọc các tác phẩm bài viết của ông Thảo trong thời kỳ này, người ta thấy ông chỉ căn cứ vào duy vật biện chứng, duy vật lịch sử mà không gì khác. Đó giống như cái vũ khí, cái khiên che của ông, khi ông viết cuốn sách nổi tiếng Matérialisme dialectique et Phénomenologie husserlienne của ông ta. Hay tập sách mỏng “Triết học đã đi về đâu ?” cũng đều cho thấy một niềm say mê hứng khởi như vậy. Rồi các bài giảng triết học cho sinh viên của ông khi về Hà nội người ta cũng chỉ thấy thuần túy là sự minh họa chủ nghĩa Mác mà không là gì khác. Sau này, khi ông vào Saigon trước khi đi Pháp, các bài viết của ông về triết học trên báo SGGP cũng chẳng cho thấy mùi vị gì khác hơn. Điều đó có thể khiến cho một thời gian rất dài nhiều người cảm thấy hụt hẫng, thất vọng về một tên tuổi TĐT từng nổi tiếng như một nhà “triết học”.
    Bởi nhà triết học thì phải có tư duy độc lập riêng, phải có tư tưởng phát kiến hay sáng tạo riêng. Đằng này ông Thảo chẳng thấy có tư tưởng gì ngoài cái cốt lõi là tư tưởng, quan điểm, lập luận của Marx đã có thì thật là uổng tiếc.
    Từ những cái ấy, bây giờ đọc lại “Những lời trăng trối” của ông, người ta lại càng bật ngữa, càng uổng tiếc một người VN từng có được tư duy, hiểu biết triết học tương đối khá sâu xa của ông. Nên nói cho cùng ông Thảo chỉ là nạn nhân của chính ông, ông bị kiểu gậy ông đập lưng ông nếu nói không ngoa là như thế. Thật quả cũng uổng một đời tài hoa của TĐT, đó là do hoàn cảnh thời thế và định mệnh cuộc đời ông như vậy thôi cũng đành chịu.
    Nhưng khi ông tới nắm tay ông Hồ để xin về giúp nước khi ông Hồ tới Paris khi đó, thực chất ông vừa là người yêu nước vừa là người có mục đích CS. Nhưng rất tiếc đã bị ông Hồ không mong muốn. Điều này cho thấy ý nghĩa của tâm lý chính trị thong thường vốn là như thế nào. Thậm chí người ta kể khi ở Ha nội, có lần tới thăm TBT Lê Duẩn, rồi cũng đành thất vọng, tiu nghỉu đi về thất thểu. Bởi vỉ ông Thảo là người lý thuyết CS mác xít cao cấp, nổi tiếng quá, làm sao phù hợp với tham vọng lãnh đạo của người khác. Điều này cho thấy sự sai lầm đã có từ trong quan điểm chính trị của Mác rồi sau này lại chuyển cả sang TĐT, chính cái ảo tưởng hay cái không tưởng của hai con người này đúng là như vậy.
    Nhưng thôi, trước khi ông mất còn để lại tấm băng thu lời trối trăng của ông để lại hậu thế như thế là quý lắm rồi. It ra ông cũng bạch hóa được một số điều của bản thân ông và của số người khác. Nhưng tất cả cũng đều là chuyện đã rồi. Khi đọc tập sách của Tri vũ – Phan Ngọc Khuê người ta chỉ thấy ngậm ngùi, thương tiếc cho Trần Đức Thảo. Thương tiếc vì sự nghiệp tư tưởng triết học của ông thật sự cũng chưa có gì sáng giá lắm. Nhưng thương tiếc nữa là cuộc đời thực tế éo le của ông quả cả cũng là một định mệnh do ông tự lựa chọn và nhất là còn phải chịu khuất phục theo với chính nó.

    THƯỢNG NGÀN
    (17/6/14)

  8. TTT says:

    Chủ nghiã Cộng Sản là một chủ nghĩa “LỪA DỐI”, cách lừa lọc thật tinh vi, chúng lừa thật tài tình, người tài giỏi như triết gia Trần Đức Thảo cũng bị chúng lừa, kiến thức sâu rộng và đạo đức như học giả Nguyễn Hiến Lê cũng bị chúng lừa, cả cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam như luật sư Lê Đức Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Lê Văn Thà, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, giáo sư Lê Văn Thiêm,…bị chúng lừa vô trong bưng, hoặc về nước hoặc vào tròng rồi mới biết!!! Vậy mà bây giờ ỏ hải ngoại vẫn còn nhiều kẻ thích bị lừa!!!!

  9. haingoai says:

    Những ông trí thức cao cấp Ng mạnh Tường, Trần đức Thảo.. tưởng mình là những nhà chính trị gia, cách mạng gia cao cấp, về hợp tác với Việt Minh để cố vấn vạch đường đi cho cách mạng nhưng sự ngây thơ, tầm nhìn thiển cận của họ khi đụng chạm với thực tế phũ phàng thì hoàn toàn vỡ mộng
    Người ta không cần cái mớ kiến thức viển vông trên mây xanh của các ông, người ta cần những anh bần cố nông liều lĩnh xung phong vào đồn Tây, các ông trí thức có lợi chăng chỉ mang lại cho họ một tí tuyên truyền
    Nay các ông thổ lộ những tâm tư, quyết định sai lầm của mình ra thì chẳng có gì lạ, chỉ cho thấy các ông khờ dại, chẳng thà giữ im lặng thì hay hơn

  10. Hồ Bác Cụ says:

    Theo như tôi được giáo dục dưới thời VNCH, thì chữ “trăn trối” chứ không phải là “trănG trối” như một số người vẫn dùng như vậy!!! Chữ “trăn trối” cũng như trong “trăn trở” về chuyện nước nhà, không ai dùng “trănG trở”

    • MÂY NGÀN says:

      Chữ trăng (mặt trăng), còn trăn (con trăn). Giọng Bắc vốn phát âm rành rọt, giọng Trung và Nam thì nghe như lẫn lộn.
      Thật sự viết “trăn trối” mới đúng. Đó là thói quen chính thức viết từ xưa. Nhưng nói cho cùng, có viết trăng trối cũng không sao về ngữ nghĩa. Bởi vì chữ trăn hay trăng ở đây cũng chỉ là tiếng tiếp âm đi đầu, nó cùng hợp với chữ trối đi sau, mà không có nghĩa riêng. Ngay cả chữ trối cũng vậy, nếu đứng một mình ở đây nó cũng có hơi khác nghĩa một chút. Trối ở đây mang ý nghĩa là sự vật vả, thì thào, yếu ớt trong lời nói gần như đã cuối cùng của mình.
      Vậy nên viết trăn trối thì đúng nghĩa hơn là viết trăng trối. Tuy nhiên, có khi vô ý không kiểm soát vì lý do nào đó, tức do không mấy quan tâm về ký tự bởi lẽ có thể viết vội không kịp dò lại đầy đủ, người ta lại viết thành trăng trối tất nhiên là sai. Tính cách tinh tế nhưng cũng đa dạng của tiếng Việt là như thế. Một sự nhận xét lưu ý như vậy luôn thật sự rất tốt.

      • DâM TiêN says:

        Cái ai ai Mây Ngàn, tưởng…ngu ngơ, thế mà giỏi giang, ta ui.

        Thế a, còn cái sự hết Thượng Ngàn, Hạ Ngàn, Trung Ngàn, Mây Ngàn.
        Đại Ngàn, Sương Ngàn, Gió Ngoàm, Mẹ Ngoàn, Em Ngoàn, Ý Ngoàm…

        Cái nào là prefix, cái nào là suffix…thế ru mà. Hay là Thượng GÀN, hi?

        ( Mille pardons ! Chúc vui ! Viết ngặt đoạn ra, thưa , Cụ Ngàn !)
        (Xin đừng..noi gương Trọng Đạt, Chú Cườm… mà phang oan tui, nhớ !)

    • Da kulsi says:

      Hoan toan dong y.

Phản hồi