WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

TS Trần Công Trục trả lời ông Mai Thái Lĩnh về thác Bản Giốc

Giáo Dục Việt Nam: Ngày 7/9/2013 Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được e-mail phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh, tác giả bài viết “Sự thật về thác Bản Giốc” được chúng tôi đề cập trong bài báo Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử do phóng viên Hồng Thủy phỏng vấn Tiến sĩ Trần Công Trục và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải ngày 3/9.

Nhận thấy vấn đề đang được dư luận đặc biệt quan tâm, theo dõi và đòi hỏi có những thông tin khách quan, rõ ràng, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với Tiến sĩ Trần Công Trục, ông Trục đồng ý trả lời các câu hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản Giốc mà bài báo hôm 3/9 đã đề cập.

Nội dung email phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh về bài báo đã được ông Mai Thái Lĩnh công bố rộng rãi trước đó, do đó chúng tôi không nhắc lại, trong nội dung bài trả lời Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ tập trung làm rõ các câu hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản Giốc, và đây cũng là tâm điểm chú ý của dư luận. Tôn trọng nguyên tắc khách quan, thông tin đa chiều, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài trả lời ông Mai Thái Lĩnh của Tiến sĩ Trần Công Trục.

——————————————-

TS Trần Công Trục

TS Trần Công Trục

Qua Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, tôi nhận được e-mail phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra 5 vấn đề chất vấn xung quanh bài trả lời phỏng vấn của tôi đối với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 3/9.

Trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, cùng nỗ lực thu hẹp khoảng cách sự khác biệt trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của công luận quốc tế trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên Biển Đông hiện nay, chúng tôi đã đưa ra những phân tích những NHẬN THỨC về quá trình đàm phán phân giới cắm mốc trên biên giới phía Bắc với mong muốn cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác từ những người trực tiếp tham gia công việc này đến dư luận.

Trong quá trình đó chúng tôi có sử dụng bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh để làm sáng tỏ vấn đề dư luận đang quan tâm, chúng tôi không nhằm vào mục đích công kích bất kỳ cá nhân nào, chỉ mong muốn tìm kiếm sự đồng thuận thông qua việc NHẬN THỨC đúng đắn những gì đã diễn ra ngày hôm qua để rút ra bài học cho ngày hôm nay và ngày mai trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền hợp pháp của dân tộc. Xin trao đổi cùng ông Mai Thái Lĩnh và dư luận quan tâm xung quanh 5 câu hỏi nhưng tập trung vào 3 vấn đề đã nêu ra trong phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh, như sau:

Thứ nhất, việc đưa vấn đề Sam Rainsy và nhóm chính trị đối lập Campuchia bám vào CHỦ TRƯƠNG “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để lật lại quá trình đàm phán phân giới cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia đã diễn ra một cách công khai, minh bạch và đúng luật để “đòi” Việt Nam “trả” cho người Campuchia các bộ phận lãnh thổ của Việt Nam như đảo Thổ Chu, Phú Quốc, thậm chí là toàn bộ miền Nam vào bài trả lời phỏng vấn nhằm phân tích kỹ, phân biệt sự khác nhau giữa CHỦ TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh thổ trên cơ sở “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” (mà trong dư luận hiện nay còn nhiều người lầm tưởng rằng đó là chủ trương của chúng ta trong giải quyết tranh chấp Biển Đông) với CHỦ TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh thổ dựa trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế, trong đó có sử dụng các “chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý”.

Cá nhân tôi đã nhiều lần phân tích công khai về sự khác biệt đó bởi rất nhiều người trong thực tế còn mơ hồ giữa 2 CHỦ TRƯƠNG này, dẫn đến đánh đồng hoặc lẫn lộn dẫn tới những hậu quả nguy hiểm, đó chính là quan điểm chính thức của Trung Quốc ở Biển Đông hiện nay cũng như phe đối lập Campuchia ở biên giới Tây Nam mà thực tế không ai chấp nhận được.

Về việc này, nhiều học giả quốc tế đã có những bình luân, đánh giá rất khách quan; chẳng hạn, theo Giáo sư Mohan Malik, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền bao trùm tới hơn 80% diện tích Biển Đông dựa vào yêu sách “yếu tố lịch sử” đang đi ngược lại với UNCLOS mà chính nước này đã phê chuẩn năm 1996. Hay nói cách khác, các tuyên bố ngang ngược từ quan chức trong chính quyền Bắc Kinh nhận các đảo, đá và các rạn san hô trên Biển Đông là “lãnh thổ từ thời xa xưa” của Trung Quốc; hay việc nước này in cả “đường lưỡi bò” phi pháp lên hộ chiếu và bản đồ mới đây đã trái với tinh thần của UNCLOS về việc bác bỏ các yêu sách “dựa trên lịch sử”.

Do đó, mặc dù Trung Quốc trắng trợn yêu sách hơn 80% Biển Đông là “vùng nước lịch sử” của họ, thì theo cách đó, Mexico cũng được độc quyền chiếm vịnh Mexico, hay Iran đòi Vịnh Ba Tư, và Ấn Độ lấn Ấn Độ Dương y như vậy. Tóm lại, theo giáo sư Mohan Malik, “vấn đề lịch sử” là rất phức tạp và không thể giải thích một cách dễ dãi. Ngay cả khi các yêu sách lịch sử có giá trị nào đó, thì Mông Cổ còn có thể yêu sách tất cả các khu vực tại châu Á, vì họ đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục này.

Quan điểm nhất quán của Việt Nam trong đàm phán giải quyết tranh chấp lănh thổ dù là ở biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam hay trên Biển Đông đều chủ trương thông qua đàm phán hòa bình, theo nguyên tắc thỏa thuận, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Chúng ta không dựa vào quan điểm “chủ quyền lịch sử, danh nghĩa lịch sử hay bằng chứng lịch sử” chung chung để giải quyết tranh chấp như nhiều người còn đang nhầm lẫn. Chúng ta chỉ sử dụng các bằng chứng, chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý để đấu tranh bảo vệ chủ quyền.

Thông điệp, mục đích, nội dung xuyên suốt trong bài trả lời phỏng vấn Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 3/9 đều chỉ xoay quanh vấn đề này, cho nên các tư liệu nêu trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh được tôi đưa ra làm ví dụ để làm rõ sự khác biệt nói trên, chúng tôi không công kích cá nhân ai, chỉ phân tích, phản biện các quan điểm liên quan đến “lịch sử”, trong đó có quan điểm của ông Mai Thái Lĩnh. Chúng tôi muốn làm rõ những điều đó, giải đáp thắc mắc lâu nay trong dư luận do thiếu thông tin. Những nội dung cụ thể cũng như nguyên nhân của sự khác biệt trong NHẬN THỨC cùng 1 vấn đề, tôi sẽ lần lượt trả lời phía dưới.

Thứ 2, về các tư liệu lịch sử mà ông Mai Thái Lĩnh nêu ra trong phần đầu của bài “Sự thật về thác Bản Giốc”, ông Mai Thái Lĩnh cũng đã thừa nhận trong email phản hồi là nó không nằm trong phạm vi của Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà hai bên đã thỏa thuận dùng làm cơ sở để đàm phán, thường được gọi là “đường biên giới do lịch sử để lại”. Các tư liệu do ông Mai Thái Lĩnh trích dẫn chỉ có giá trị tham khảo.

Vấn đề gây tranh cãi nằm ở chỗ một số tài liệu chính thức của ta được phát hành trong giai đoạn những năm 1979 trở về sau, trong đó có cuốn tài liệu “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” và 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980” được ông Mai Thái Lĩnh sử dụng để bảo vệ luận điểm của mình xung quanh vấn đề thác Bản Giốc, tôi xin nói rõ như sau:

Về nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành công khai và rộng rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem là “căn cứ pháp lý” được thỏa thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới phía Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này không phải là bộ phận cấu thành của  Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thoa thuận lấy làm căn cứ pháp lý  để bai bên tiến hành hoạch định biên giới.

Những người làm công tác đàm phán chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các tài liệu ông Mai Thái Lĩnh vừa nêu nên chúng tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn của dư luận cũng như của ông Mai Thái Lĩnh.

Giai đoạn cuối những năm 1970, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hết sức căng thẳng và cuối cùng dẫn tới xung đột, vấn đề tranh chấp biên giới trong nhận thức đơn phương của mỗi bên lúc đó rất khác nhau, đây cũng chính là một trong những cái cớ Trung Quốc vin vào để tấn công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam…

Mọi người đều biết rằng, hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức của cả 2 phía Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn này, trong đó có những nội dung đề cập đến đường biên giới trên bộ giữa 2 nước đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi xu thế chính trị của cả xã hội thời kỳ đó. Hai nước giao tranh, việc phát hành tài liệu liên quan đến  đường biên giới, chủ quyền trong các tài liệu tuyên truyền ít nhiều đã mất đi tính khách quan, lại được tuyên truyền thường xuyên và rộng rãi nên những thông tin trong đó ăn sâu vào tiềm thức người dân. Điển hình là việc ta luôn luôn nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam trong khi người Trung Quốc họ nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc mà họ gọi là thác Đức Thiên là của họ.

Đó là một thực tế lịch sử đã xảy ra. Có thể những tài liệu tuyên truyền như vậy là cần thiết, phù hợp trong thời điểm đó khi quan hệ hai bên căng thẳng, xung đột. Nhưng sau khi đã bình thường hóa quan hệ với chủ trương của 2 bên là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” thì nó không còn phù hợp nữa.

Chúng ta “khép lại” nhưng quên mất việc giải thích, nói rõ cái đúng, cái sai cho dư luận người dân nắm rõ, trong khi cái đúng, cái sai ấy lại liên quan trực tiếp tới vấn đề tranh chấp biên giới lãnh thổ sau này, chính điều đó mới tạo ra những khác biệt về mặt nhận thức dẫn đến băn khoăn trong xã hội về vấn đề biên giới Việt Nam – Trung Quốc như ngày hôm nay, thác Bản Giốc là một điển hình.

Chúng tôi những người làm công tác đàm phán về biên giới lãnh thổ, trước khi đề xuất nội dung thỏa thuận nguyên tắc giải quyết biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đương nhiên đã nghiên cứu những tài liệu này, so sánh đối chiếu các nội dung liên quan đến đường biên giới trên bộ giữa Việt Nam – Trung Quốc được đề cập trong đó với Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện đi kèm 2 Công ước.

Ý kiến thống nhất từ trung ương đến địa phương đều cho rằng một số nội dung liên quan tới đường biên giới trên bộ của các tài liệu nêu trên đều không phù hợp, do đó không có căn cứ để đem ra tranh luận, đàm phán. Phía Trung Quốc cũng có những tài liệu tuyên truyền tương tự như vậy, thậm chí còn nhiều hơn ta, nhưng không thể đem những tài liệu này, dù là chính thống, đặt lên bàn đàm phán.

Chúng ta đã chấp nhận nguyên tắc dựa vào Công ước Pháp Thanh 1887, 1895 cùng những bản đồ, biên bản phân giới cắm do Công ước quy định để đàm phán thì phải tuân thủ. Và về quy trình đàm phán, chúng tôi đã có bài phân tích cụ thể trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, trong đó nói rõ đường biên giới chủ trương do nhóm chuyên gia thực hiện công phu và nghiêm túc đã phải được các tỉnh có đường biên giới đi qua xác nhận, các bộ ngành có liên quan xác nhận, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, được Quốc hội chấp thuận thông qua, chúng tôi mới đem đi đàm phán. Điều này có thể trả lời câu hỏi của ông Mai Thái Lĩnh rằng các nhà đàm phán có tham khảo các cơ quan liên quan và các tài liệu như ông nêu ra trong bài viết hay không.

Ở đây, tôi xin nói thêm rằng sự khác biệt trong nhận thức ngày hôm nay chính là hệ quả của công tác tuyên truyền ngày hôm qua, khi chúng ta chưa kịp thay đổi, thích ứng theo những diễn biến mới của thời cuộc. Tôi không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập, nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán. Tôi cũng không đổ lỗi cho ai, chỉ muốn nhấn mạnh rằng đó là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử có quá nhiều biến động và còn thiếu nhiều thông tin, nên ngày nay chúng ta cần bình tĩnh để nhìn nhận lại cho rõ cái đúng, cái sai.

Chúng ta muốn bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ thì phải hết sức cầu thị, cái gì đúng chúng ta kiên quyết bảo vệ, cái gì sai, chúng ta phải dũng cảm điều chỉnh. Có như vậy đàm phán mới có kết quả, nguyên tắc pháp lý mới được tôn trọng. Tôi tin rằng đại đa số người dân cũng như công luận quốc tế, khu vực và ngay cả đối tượng đàm phán của chúng ta cũng đều hoan nghênh thái độ cầu thị này.

Đối với phía Trung Quốc, những gì họ nêu ra là bất hợp lý, không thuyết phục khi đàm phán biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ, chúng tôi đều bác bỏ để tôn trọng và giữ thỏa thuận nguyên tắc chung. Ngày nay, chúng ta muốn bác bỏ đường lưỡi bò “lịch sử” của Trung Quốc ở Biển Đông thì chính chúng ta phải sòng phẳng với nhau về các bằng chứng lịch sử của chúng ta, trong đó nghiên cứu tìm tòi và đưa ra những bằng chứng lịch sử có giá trị và sức nặng pháp lý nhất để đấu tranh bảo vệ chủ quyền chứ không thể dựa vào “chủ trương lịch sử, quan điểm lịch sử hay bằng chứng lịch sử” chung chung như chính cách Trung Quốc đã và đang làm.

Nói rõ điểm này, tôi thiết nghĩ không cần phân tích sâu vào khái niệm “đường biên giới do lịch sử để lại” được đề cập trong các tài liệu mà ông Mai Thái Lĩnh trích dẫn, độc giả cũng có thể dễ dàng hiểu được tại sao.

Thứ 3, quan điểm ông Mai Thái Lĩnh cho rằng những người đàm phán chúng tôi đã “mắc mưu Trung Quốc” khi chấp nhận lấy Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện mô tả đường biên giới được quy định bởi 2 Công ước trên làm căn cứ đàm phán, vì trình độ kỹ thuật thời đó không thể mô tả, vẽ một cách chính xác đường biên giới, nhất là chưa có tọa độ địa lý chính xác, chúng tôi xin thưa lại như sau: Nếu cuối thế kỷ 19 Pháp với vai trò Nhà nước bảo hộ của Việt Nam về mặt đối ngoại cùng với nhà Thanh, Trung Quốc mà phân giới cắm mốc thành một đường biên giới rõ ràng, hoàn chỉnh và hiện đại như ngày nay thì làm gì còn tranh chấp. Lúc đó nếu có tranh chấp vì nguyên nhân nào đó thì chỉ cần sau khi thỏa thuận nguyên tắc chung xong, 2 bên lôi Công ước và bản đồ văn kiện đi kèm ra đối chiếu là xong, cần gì đàm phán.

Các bằng chứng lịch sử như bản đồ, thư tịch…chúng tôi đã tham khảo khi hoạch định đường biên giới chủ trương trước lúc mang đi đàm phán, và khi trao bản đồ đường biên giới chủ trương 2 bên đã trùng nhau 70%, 30% còn lại là các khu vực tranh chấp, lúc này mới là giai đoạn đưa các chứng cứ ra chứng minh. Khi chúng ta đưa ra các bản đồ, thư tịch và bằng chứng lịch sử khác không nằm trong phạm vi nguyên tắc chung quy định, thì Trung Quốc họ cũng làm tương tự, và tài liệu của họ còn nhiều hơn ta. Chưa bàn đến độ chính xác đến đâu, nhưng đàm phán như vậy sẽ rơi vào ngõ cụt, bế tắc vì đánh mất nguyên tắc chung khi ai cũng khăng khăng là “bằng chứng lịch sử” của mình đúng.

Dưới góc độ cá nhân là người trực tiếp tham gia quá trình đàm phán, hoạch định phân giới cắm mốc biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, vịnh Bắc Bộ, tôi phân tích cụ thể ví dụ về thác Bản Giốc vừa để cung cấp thêm thông tin cho dư luận đang quan tâm, thắc mắc, nhưng đồng thời còn muốn nói rõ câu chuyện đang diễn ra ngoài Biển Đông, để tránh lặp lại những nhận thức sai lệch không đáng có.

Những chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh, đồng thời cũng là những thông tin tôi nghĩ nhiều người đang quan tâm tìm hiểu, tôi đã đề cập trong nội dung trả lời này. Nhưng câu chuyện về biên giới lãnh thổ luôn luôn không hề đơn giản, những ai quan tâm có thể đọc những bài trả lời phỏng vấn của tôi trên các phương tiện truyền thông để có thêm các thông tin một cách hệ thống, đầy đủ và có điều kiện để so sánh, đối chiếu, tìm ra cái đúng, cái sai.

Cuối cùng, cá nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.

T.C.T.

Nguồn: giaoduc.net.vn

Xem bài phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh

4 Phản hồi cho “TS Trần Công Trục trả lời ông Mai Thái Lĩnh về thác Bản Giốc”

  1. Trực Ngôn says:

    Theo nhận xét của tôi, ông Trần Công Trục cố tình vòng vo tam quốc để lèo lái dư luận. Tôi hiểu rằng hoàn cảnh của ông Trục trong trách nhiệm đàm phán với TQ cũng không dễ dàng gì, vì phải tuân theo chỉ đạo của đảng và nhà nước CSVN!

    Đọc đoạn này để thấy vấn đề:

    Mọi người đều biết rằng, hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức của cả 2 phía Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn này, trong đó có những nội dung đề cập đến đường biên giới trên bộ giữa 2 nước đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi xu thế chính trị của cả xã hội thời kỳ đó. Hai nước giao tranh, việc phát hành tài liệu liên quan đến đường biên giới, chủ quyền trong các tài liệu tuyên truyền ít nhiều đã mất đi tính khách quan, lại được tuyên truyền thường xuyên và rộng rãi nên những thông tin trong đó ăn sâu vào tiềm thức người dân. Điển hình là việc ta luôn luôn nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam trong khi người Trung Quốc họ nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc mà họ gọi là thác Đức Thiên là của họ./ Đó là một thực tế lịch sử đã xảy ra. Có thể những tài liệu tuyên truyền như vậy là cần thiết, phù hợp trong thời điểm đó khi quan hệ hai bên căng thẳng, xung đột. Nhưng sau khi đã bình thường hóa quan hệ với chủ trương của 2 bên là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” thì nó không còn phù hợp nữa“.

    “Đường biên giới” mà làm như giây cao su, khi “căng” thì nó GIÃN, nhưng khi “quan hệ hai bên bình thường” thì nó CHÙN lại?

    Nếu thực tình nhà nước CSVN quan tâm đến lãnh thổ và lãnh hải, thì khi đàm phán với TQ, nhà nước nên công khai mời gọi tất cả những chuyên gia nghiên cứu về biên giới (ở trong nước cũng như hải ngoại) tham gia, cho ý kiến, và cung cấp tài liệu dẫn chứng.

    Nhưng họ đã không làm như vậy, mà úp úp mở mở, lén lút như kẻ trộm ban đêm, bưng bít tin tức và dấu nhẹp luôn cả Hiệp Định đất liền năm1999, lẫn Hiệp Định lãnh hải năm 2000 sau khi đã ký với TQ!

    Một điều mà ai cũng có thể hiểu được, mặc dù ông Trục hay đảng và nhà nước CSVN cố tình chối cãi, đó là Việt Nam đã mất khá nhiều đất và biển vào tay TQ. Vì rằng, sau khi TQ tấn công vượt qua biên giới tháng 2/1979 gây thiệt hại lớn lao về người và của cho Việt Nam ở 6 tỉnh giáp ranh.

    Sau đó CSVN đã “khẩn khoản” bang giao bình thường “bằng mọi giá” với TQ, thì chuyện chia đất nhượng biển (như một quà biếu để được làm hoà) là điều không thể tránh?

    Tôi dám khẳng định điều này và thách thức nhà nước CSVN có dám để cho các “chuyên gia biên giới” và các cơ quan truyền thông, truyền hình cùng đi khảo sát công khai và đánh giá đường biên giới mà nhà nước đã ký kết với TQ 1999?

    • Hoàng says:

      Tôi rất quí trọng sự khi-khái và lòng cương trực của TRỰC NGÔN.Với bọn csvn luôn quanh co dối trá,chúng ta cần tát những gáo nước thật lạnh vào mặt chúng chưa chắc chúng thức tỉnh,chỉ trừ đập những báng súng vào mặt chúng hoặc may chúng mở to đôi mắt ra.Bọn buôn-dân bán nước nầy luôn-luôn giả dối để kéo thêm thời gian cho cuộc sống hoặc mạng sống của chúng.Nhục cho dân quá hèn hạ,Đau vì dân quá nhu-nhược mà để bọn cướp csvn được bình an cho đến ngày hôm nay.

  2. Minh Đức says:

    Hồi Việt Nam ký kết với Trung Quốc hiệp ước về biển thì Việt Nam bị mất rất nhiều biển cho Trung Quốc. Nhà nước lúc đó giải thích là ranh giới biển là do Pháp và nhà Thanh ký kết trước đây. Bây giờ Trung Quốc nói vì lúc đó Trung Quốc yếu và Pháp mạnh nên Trung Quốc bị thiệt. Bây giờ Trung Quốc không công nhập hiệp ước Pháp Thanh đã ký hồi xưa và đòi phải thương thuyết lại . Kết quả là Việt Nam bị mất biển cho Trung Quốc. Bây giờ thì lại thấy ông Trần Công Trực nói là chỉ dùng công ước Pháp Thanh để thương thuyết về biên giới. Thế ra khi Trung Quốc khi muốn có thêm biển thì không chịu công nhận hiệp ước Pháp Thanh. Còn thương thuyết về đất liền thì lại chỉ sử dụng công ước Pháp Thanh mà thôi.

    • Hoàng says:

      Ông Minh Đức ơi,nếu là trung quốc thì VN có thể không bị khốn nạn như ngày hôm nay,mà là vì thằng trung công mà nước VN tan tác như ngày hôm nay.Ngôn-ngữ là con dao hai lưởi.

Phản hồi