WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Trí Quang Tự Truyện: Không vẫn hoàn không

Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn – thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký. Người đem tiểu sử đời mình ra đánh bóng, trang hoàng, rao bán thì thành nhà… chính trị kinh doanh! Nhưng dẫu ở mức độ nào thì cũng khó lòng đem ra so sánh, cân đo khi không có cùng mẫu số. Cũng đều xuất phát từ con người làm điểm tựa, nhưng sẽ thiếu công bằng nếu đem những tứ đại kỳ thư, những áng kim cổ hùng văn hay thiên hạ danh văn để so với những bài thơ Thằng Bờm có cái quạt mo, những bài ca dao truyền miệng… vì mẫu số chung của cảm tính văn nghệ chẳng tương đồng. Tuy nhiên, trong ý nghĩa tinh túy nhất mà cũng rất thường tình của nhân sinh, “cái thích” hay sự cảm thụ và sáng tạo văn chương nghệ thuật thì không ai giống ai vì cái ngã sở chắn đường bít ngõ theo lối mòn một chiều“có thì có tự mảy may, khi không cả thế gian này cũng không!”. Từ đó dẫn tới cái thương, cái ghét càng lúc càng xa với những gì hiện thực “thương ai thương cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng!”

Tác phẩm nghệ thuật thường được ví von như những cơn mưa. Có những trận mưa – mưa rào, mưa tình, mưa pháp – mà con người và muôn vật được hưởng lợi lạc hay phải chịu đựng cơn mưa phù hợp với căn tính của từng đối tượng: Con dế mèn ca hát rát cổ hưởng được một giọt mưa ngọt lịm; con chim non bị ướt tổ lạnh run; con kiến cỏ bị chết trôi chới với; người nông dân có được nước đầy đồng… Chẳng ai giống ai. Bởi vậy, mọi giá trị của vạn vật đều tương đối. Nhưng trong tương đối đã có sẵn một điều tuyệt đối, đó là sự khác biệt và đồng nhất đều cùng một thể: “Không lại hoàn không!”

Và, đó cũng là kết luận của “Trí Quang Tự Truyện”. Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90.

Có thể nói mà không phải dè dặt rằng, trong số các hồi ký của những nhân vật lịch sử, trong cũng như ngoài nước, có liên quan đến dòng lịch sử Chiến tranh Việt Nam thì hồi ký của thầy Trí Quang là một trong những tác phẩm được chờ đợi nhiều nhất.
Văn chương tự cổ không bằng cớ, nên khen hay chê tự nó không quan trọng mà quan trọng là mức độ khách quan, công bằng và tính trong sáng của sự khen chê. Và, quần chúng nói về một đối tượng sao bằng chính đối tượng được nhắc nhở đó tự nói về mình. Trí Quang Tự Truyện là những điều thầy Thích Trí Quang tự nói về mình.
Từ đầu năm 2011, tuy đã được đọc các bài giới thiệu và trích đoạn của tập sách nầy trên mạng lưới truyền thông nhưng mãi đến khi về thăm quê vào tháng 3-2012 tôi mới đọc được bản chính toàn tập. Sách dày 216 trang, nhà xuất bản Tổng Hợp tại Sài Gòn. In 3000 cuốn, xong ngày 22-7-2011. Tác giả viết xong ngày 24-4-2011. Sách không chia thành chương, mục mà được phân thành 47 đoạn viết theo lối hồi ức, tự truyện. Không có một hình ảnh nào minh họa từ bìa đến nội dung.

Trí Quang Tự Truyện đã gây ra những luồng phản ứng tuy không sôi nổi theo kiểu… “siêu sao”; nhưng tương đối rộng rãi đối với quần chúng trong cũng như ngoài nước; đặc biệt là đối với giới trí thức và Phật tử lớn tuổi đã từng sống trong chiến tranh và trải nghiệm thực tế qua những biến cố lịch sử đầy thăng trầm của đất nước. Đa số bày tỏ sự thất vọng vì hồi ký không “ngang tầm” với tác giả. Người ta chờ đợi một thiên hồi ký có “tầm vóc thời đại”. Nghĩa là những pho sách dày với những công bố phơi bày nhiều bí ẩn lịch sử, những “giải mã” sự kiện còn nằm trong góc khuất, những lý giải hùng hồn về các hiện tượng đầy thâm cung bí sử, những biện minh đầy thuyết phục nỗi oan khuất của đạo pháp và dân tộc, những chứng lý rạch ròi thân phận nhược tiểu trên bàn cờ quốc tế… Nghĩa là với tầm vóc của một nhân vật tu sĩ Phật giáo đã từng là khuôn mặt trung tâm cho cuộc tranh đấu đòi tự do, bình đẳng tôn giáo của Phật giáo năm 1963 và những cuộc biểu tình đòi cải cách chính trị thời 1966 đã làm chấn động Việt Nam và dư luận thế giới như thầy Thích Trí Quang thì sẽ có cả một kho tàng dữ liệu và vô số lý giải cho cả một thời kỳ đầy biến động chiến tranh, chính trị và xã hội để viết ra trong hồi ký. Thêm vào đó, thầy Trí Quang còn là tác giả, dịch giả, luận giả uyên bác và đáng tin cậy của nhiều tác phẩm Phật học nội điển và luận thư trong khoảng 70 năm qua. Bề dày của những công trình biên dịch và tham luận có giá trị là những điều kiện “ắt có và đủ” cho một tác phẩm hồi ký lớn của Thầy ra đời. Hoặc ít lắm thì cũng là những hồi ức đầy “thương hiệu thành danh” của ta và của người vào hàng Retrospect của Robert McNamara hay Political Memoirs của Malcom Fraser… và của nhiều nhân vật danh tiếng Việt Nam đã xuất bản chẳng hạn.
Nhưng Trí Quang Tự Truyện đã thanh thản ra đời như một cô gái Việt chân quê trên diễn trường hoa hậu quốc tế làm cho người ta ngạc nhiên.

Những ngày mưa tháng Hai của Huế, lên chùa Châu Lâm không cách xa chùa Từ Đàm là mấy, được ăn cơm chay với thầy Thiện Phước trong vườn lan đủ màu tự trồng, tự tưới của Thầy, trưa vào nghỉ ở nhà tịnh của chùa và đọc Trí Quang Tự Truyện nguyên bản in của anh Trần Tuấn Mẫn báo Văn Hóa Phật Giáo gởi cho, tôi cảm thấy an tịnh và gần gũi với tập sách hơn.

Trong khu vườn thiền lâm, thầy Trí Quang là một hành giả với bút lực dồi dào từ khi còn trẻ tới hồi đại lão như hôm nay. Nói về công phu biên dịch kinh sách, chỉ riêng năm 2011 thôi, thầy Trí Quang đã hoàn thành nhiều công trình trước tác thâm uyên với 3 bộ sách đã in ấn và phát hành là: Tổng Tập Giới Pháp Xuất Gia gồm 2 tập, mỗi tập hơn nghìn trang và Nhiếp Luận, 334 trang. Bởi vậy, khi cầm Trí Quang Tự Truyện trên tay, có lẽ tôi không nên trịnh trọng gọi đây là một tác phẩm hồi ký đầy chữ nghĩa to tát mà nên gọi đây là những dòng tâm bút của một sơn tăng giữa thị thành đang sống với tánh thường rỗng lặng “không vẫn hoàn không”.

So với những tác phẩm mang tính nội điển mà thầy Trí Quang đã cẩn trọng biên dịch – nghiêm cẩn trong từng cụm từ và chỉnh chu trong từng luận giải – thì Trí Quang Tự Truyện nhẹ như tơ hào. Tác giả viết ra những sự kiện, kể lại chuyện đời mình bằng một lối văn chân phương – lại có khi rề rà không trau chuốt – dễ dãi như người bình dân ngồi kể chuyện Tấm Cám.

Trong suốt 50 năm qua, nhân vật Thích Trí Quang thường được (hay bị) môi trường truyền thông đại chúng trong cũng như ngoài nước nhắc nhở khá sôi nổi và không ít thường xuyên trong hàng tu sĩ Phật giáo Việt Nam đương thời. Sự nhắc nhở xuất hiện dưới nhiều dạng thức và từ nhiều góc độ: Giữa đường, lề phải, lề trái, trên mây, dưới hố… Nhưng không phải vì lời khen hay chê mà một dòng sông trở thành trong hay đục. Chẳng phải vì được ca tụng hay bị đả kích qua ngõ thị phi mà một nhân vật trở thành thánh hay phàm. Đâu phải vì yêu hay ghét mà một tác phẩm trở thành hay hoặc dở. Thầy Trí Quang – cũng như mọi nhân vật cộng đồng tên tuổi đã thành danh – có một vị trí và thế đứng riêng trong lòng người và trong lịch sử. Nhưng trong tự truyện, sau khi kể chuyện đời mình từ nhỏ đến lớn; từ thân chú tiểu mới xuất gia cho đến vai trò lãnh đạo Phật giáo thành tựu, tác giả tự kết luận về đời mình: “…cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có, nên phải viết và phải in, mà thôi. ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”

Chính vì “chân không” mà cuộc đời thành “diệu hữu”. Nhà tu thật ngôn là người hành động trong vô vi; nghĩa là thỏng tay vào chợ mà không dính mắc, đối mặt với sấm sét giữa đời mà coi như hoa đóm giữa hư không.

Khuynh hướng nhất quán về “không” có mặt trên từng trang sách của Trí Quang Tự Truyện. Nội dung tự truyện kể lại nhiều biến cố và hành động trong chặng đời 90 năm của một hành giả đứng giữa gọng kềm lịch sử như thầy Trí Quang mà vẫn mang một phong vị tĩnh lặng an nhiên. Sự an nhiên có được khi yếu tố tác nghiệp không hoành hành. Đó là khi nhu cầu biện minh, giải thích, thuyết phục, khen chê, vinh danh, bài xích… không thể hiện qua ngòi bút và chữ nghĩa, ngôn từ của người viết. Nhờ vậy, người đọc tự truyện cảm thấy thanh thản theo dõi những gì xảy ra và được tác giả ghi lại mà tâm không bị động bởi những cảm xúc dấy bụi nhất thời.

Đạo Phật là con đường đưa đến giải thoát. Đó là một trạng thái tự do đứng ngay chính giữa hai bờ đối đãi của yêu-ghét, vui-buồn, khen-chê, sống-chết… Tuyệt nhiên không còn bị dính mắc vào hệ lụy của phóng tâm biên kiến đời thường đầy phiền não. Tâm Phật là tâm không không rỗng lặng. Chỉ trong không không rỗng lặng nầy – tinh thần “không trung vô hữu tuyệt đối” của Bát Nhã – thì Phật và chúng sanh mới thành nhất thể. Vì như thiền sư Thường Định Kaido Ashahi Nhật Bản nói trong Thiền Tập Quán Niệm Trên Núi Tuyết rằng: “Một đời đi qua, nếu còn một hạt bụi ngã nhân nào vướng lại ở trần gian nầy thì kẻ tác tạo hạt bụi đó vẫn còn bị cột buộc. Người đó còn phải quay lại trả nghiệp cho đến khi hạt bụi kia chẳng còn vướng vất giữa trần thế, trong tâm thức và giữa hư không…thì mới mong thấy được khung cửa nghìn xưa quay về nẻo Đạo.” Phải chăng vì muốn phủi sạch đôi “hạt bụi ngã nhân” còn vương trên khung cửa nghìn xưa quay về nẻo đạo mà Hòa thượng Trí Quang phải miễn cưỡng bận lòng trong Tiểu Truyện Tự Ghi, rằng: “Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.”

Xác định về một thái độ hành xử như thế, thầy Trí Quang làm cho những người học Phật đời sau nhớ tới tinh thần tùy duyên hành đạo và sống đạo của Phật giáo đời Trần. Vua Trần Nhân Tông khi đã gác kiếm chống quân Nguyên, thay chiến bào bằng áo cà sa, nghe thị giả hỏi rằng, đâu là chỗ khác nhau giữa việc đời bôn ba và việc đạo an nhiên tự tại, đã đọc bài kệ:

Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Khi đói thì ăn, mệt ngủ yên
Của quý đầy nhà đâu phải kiếm
Thấy cảnh lòng không khỏi hỏi thiền
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)

Như thế phải chăng “vô tâm tức là đạo?” Khi có người hỏi về khái niệm nầy, Tuệ Trung Thượng Sỹ, thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đọc bài kệ:

Vô tâm là vô đạo
Có đạo chẳng vô tâm
Tâm đạo đều trống rỗng
Biết nơi đâu mà tầm?
(Bổn vô tâm vô đạo
Hữu đạo bất vô tâm
Tâm đạo nguyên hư tịch
Hà xứ cánh truy tầm?)


Điều Tuệ Trung muốn nói là cần đập vỡ những khái niệm tương tác không có thật giữa củ khoai và con kiến. Làm gì có con kiến mà kiện củ khoai. Làm gì có tâm và đạo hiện hữu như hai đối thể phân biệt khi tâm và đạo là nhất thể. Tâm và đạo không phải là hai hình tướng để mô tả và phân biệt mà cần thực chứng trong rỗng lặng, an nhiên qua một trong nhiều phương tiện quán chiếu thiện xảo nhất của Phật giáo là thiền định. Đạo Phật là con đường thực chứng cuộc đời chứ không phải phủ nhận hay xa lánh cuộc đời như ngộ nhận. Đạo giữa đời và đời giữa đạo. Bình thường giai thị đạo.

Nhà tu là một người phàm trang bị tính thánh chứ không phải là thánh. Bởi thế, tu hành cũng là một quá trình vật lộn với chính mình vì nghiệp và luân hồi là một chân lý vận hành khách quan. Bất luận Phật tử xuất gia hay tại gia, đã tu mấy đời hay nhiều đại kiếp, khi chưa đắc đạo thành Như lai, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác… thì vẫn còn trực tiếp chịu sự chi phối của Nghiệp. Mục Kiền Liên là đại đệ tử đệ nhất thần thông của đức Phật đã tu qua nhiều đại kiếp, đã từng xuống tận địa ngục A Tỳ cứu Mẹ mà trong kiếp cuối cùng, trước khi đắc đạo, vẫn phải trả Nghiệp tiền kiếp. Ngài đã bao lâu ẩn tàng, mặc cho bọn cướp vây quanh tha hồ biếm nhẻ. Nhưng chỉ một phút tác động của Nghiệp đã để lộ nguyên hình cho bọn cướp ùa tới phanh thây. Tên cướp và thiền sư khác nhau ở chỗ là ai đang tạo nghiệp và ai đang giải nghiệp mà thôi.

Bởi thế, “tùy duyên…” là phong thái hành hoạt của người theo đạo Phật. Tất cả đều có sẵn tự thân tâm. Làm vua gặp quân xâm lăng: Đánh! Làm thầy gặp chuyện bất bằng: Chống! Gặp đời phiền não: Tu! Hết một đời: Thản nhiên ra đi như thay áo. Gặp chuyện thị phi đời thường: Im lặng như chánh pháp. Khi cần lập ngôn: Nói năng như chánh pháp. Có gì quan trọng – khi một tơ hào cũng không còn hiện hữu trong tánh không rỗng lặng – đâu mà phải cần hư vọng, hư danh như bia đá đề tên, lưu danh sử sánh, bỉ thử khen chê.

Trong khung cảnh Phật giáo, Trí Quang Tự Truyện viết ra để ghi lại những chuyện đời thường của chính tác giả. Nhưng tất cả đều không vượt ra ngoài tự tánh của chư pháp “không lại hoàn không” và tác giả đã hành xử; đã sống và viết trong cái không mênh mông rỗng lặng đó. Tiếng chuông công phu khuya từ chùa Hàn Sơn ngày xưa dóng lên từ một sơn tăng đã trở về với tự tánh rỗng lặng. Nhưng Trương Kế và muôn vạn đời sau đã “bắt gặp” và cảm nhận như thế nào là cả một hợp duyên “thân báo” muôn màu muôn vẻ khó thể nghĩ bàn. Khi tiếng chuông tự nó là tiếng chuông thì sẽ không khứ, không lai, không thừa, không thiếu. Tiếng chuông cũng chỉ là một pháp… không lại hoàn không.

Huế – Cali., mùa Phật Đản 2556 (2012)

© Trần Kiêm Đoàn

© Đàn Chim Việt

68 Phản hồi cho “Trí Quang Tự Truyện: Không vẫn hoàn không”

  1. Đọc Trần Kiêm Đoàn tôi có cảm giác đang bay bổng trên mấy tầng mây, bác đang ra sức thuyết pháp hầu bênh vực cho một con người đã lỡ gây nhiều nghiệp chướng cố ăn năn để chuộc tội nghiệp, giọng văn nghe phảng phất “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”, hay là tôi còn quá u mê để hiểu được Tran Kiem Đoan đang muốn nói gì, TKĐ quá uyên bác nhỉ!!! Một tên vc đội lớp thầy chùa (vào đảng csvn năm 1946) làm tay sai cho bọn vẹm, dưới quyền giựt giây của Trung tá tình báo vẹm Hoàng Kim Loan sống chết tại Huế, thầy chùa TTQ đã quậy từ Nam ra Trung nhất là ở Huế (muốn hiểu rõ hơn TKĐ nên vào Một Góc Trời đọc kỹ hồi ký của Phật tử thuần thành Liên Thành, cựu Thiếu Tá QLVNCH nhé). Xin chào Quý Chư Tăng Phật Tử còn sống trong mơ mơ ảo ảo. Buồn 5 phút.

  2. côngtằngtônnửthịmẹt says:

    Trần Kiêm Đoàn ?
    HoàngPhủNgocTường/NgọcPhan ?
    nguyểnđácxuân,đaophủ thủ đất thầnkinh năm MậuThân 68?
    Và còn AI nủa.hởi Huế đau thương của TA ơi !
    Ôi Ác Tăng trí quang,quỉ giả danh Phật rao giảng “LênhHànhQuyết”
    và quây quanh quỉ chúa,đàn quỉ con có cáilưởi đỏ lòm,có căp mắt mù ,vô cảm có .AI kia ?tkđ?ngđx?nt,np?…hay toàn bộ “đao phủ” ,bàn tay nhúng máu,miệng niệm Nam mô? (Miệng NamMô Một Bồ Dao Găm?)
    Phải chăng cứ” giết ,giết nửa không ngừng nghi” đẻ lấy thành tích dang cho loài quỉ chúa Bađình ? Thành tích ư? Phật nào minh chứng? Phật nào không đau? Phật nào rông lương tha thứ cho kẻ thay Người đi rao giảng nhửng súng ak,lựu đan,…đâp đầù ,chôn sống ? Nhúng máu cả một giòng họ? Cả 5000 người?
    Tay đả nhúng chàm gột rửa sao cho sạch ?
    Sám hối đi thôi,nhửng tên sátt thủ tết MâuThân,mượn danh đức phật từ bi để làm chuyện ác ,thất đức…
    Coi chừng qủa báo.Không nhản tiền thì củng kiếp sau và ngàn kiếp sau : “trả NỢ cho NGÀN NGƯỜI CHẾT OAN !”
    Óan khí ngập trời,Nay có cơ lưu vong trăm kiếp.Nay có cơ mất nước vạn năm.Ôi thầy “quì” trò “yêu” !
    LO TU ĐI. Ngồi diện bích sám hối.IM LẶNG biến mất. Còn chường mặt ra viết lách chi nửa ?
    PHẬT ĐÂU CÓ CHỨNG…
    nammôadiđàphật.
    thiệntái! thiệntai!

  3. Công lý ngàn năm says:

    NHƯ TÁC GIẢ TRẦN KIÊM ĐOÀN ĐÃ VIẾT “LÀM VUA GẶP QUÂN XÂM LĂNG :ĐÁNH ,LÀM THẦY GẶP CHUYỆN BẤT BẰNG :CHỐNG”…HAY LẮM VẬY XIN HỎI TRÍ QUANG “THIỀN SƯ” ÔNG ĐÃ LÀM GÌ TRƯỚC HIỆN TRẠNG ĐẤT NƯỚC NGÀY HÔM NAY? HAY ÔNG CẢM THẤY HÀI LÒNG VÌ TẤT CẢ?.
    IM LẶNG LÀ ĐỒNG Ý,IM LẶNG LÀ ĐỒNG LÕA.
    GIÁO HỘI PGVNTN HIỆN NAY ĐANG BỊ BÁCH HẠI ,HS-TS,DÂN OAN,TỰ DO,DÂN CHỦ ,NHÂN QUYỀN BỊ CHÀ ĐẠP SAO ÔNG TRÍ QUANG KHÔNG LÊN TIẾNG.HÃY TRẢ LỜI TÔI ĐI !
    ÔNG TRẦN KIÊM ĐOÀN CŨNG ĐỪNG DÙNG XẢO NGÔN ĐỂ LỪA THIÊN HẠ,ÔNG THẬT LÀ MỘT CÂY BÚT CÓ TÀI,NHƯNG KHÔNG LIÊM SĨ.
    MỘT PHẬT TỬ TẠI VIỆT NAM

    • MINH HẰNG says:

      Phân tích thật chính xác . Cám ơn

    • Vô Vi says:

      Nếu có liêm sỉ thì ông Trần Kiêm Đoàn đã không viết bài này với những nhời nhẽ ca tụng, tâng bốc Thích Trí Quang đến phát tởm!

    • Builan says:

      Tiếp sức một chút với Công ly ngàn năm
      Công bình mà noí :Văn chương triết lý cuả TRẦN KIÊM ĐOÀN thì chả chê vào đâu được. Nó mang cái hư hư thật thật , phù phép lấp liếm -Bên Phật ,bên Chuà ! Đậy che bưng bợ những tên HUNG SAĨ- ÁC TĂNG.. ! – Cung nghinh SƯ PHỤ ! – Thông cảm cho ĐỆ TỬ cuả THẦY !!!

      “ÔNG TRẦN KIÊM ĐOÀN CŨNG ĐỪNG DÙNG XẢO NGÔN ĐỂ LỪA THIÊN HẠ,ÔNG THẬT LÀ MỘT CÂY BÚT CÓ TÀI,NHƯNG KHÔNG LIÊM SĨ. ”

      ***Đúng vậy ! Huế chay, Huế mặn, Huế ròng Huế pha…. nói chung là bà con HUẾ – ” Cầu Trường Tiền sáu vày mười hai nhịp ….” Bên bờ Sông Hương Nuí Ngự, có Nàng CTTN THI NINH ,buồn “Nuí Ngự không cây chim ngủ đất “,.song song niềm tự hào có ông trí thức TS TKĐ !

      Buồn thay!
      Noí đến LIÊM SĨ ở nơi ông TKĐ thì là “không vẫn hoàn không” ! – Tệ thua caí đòn ngồi của “Con Bánh Nâm”, cuả ” O Cơm Hến,, ngay cả cuả Mụ RỚT ! cuả mấy bà đưa đo “bán chè trên sông”

      Tôi từng kính trọng !
      Càng qúy trọng tôi càng thầm TIẾC, lẩn thầm THƯƠNG ! !!!!!
      ANh TKĐ ơi ! ” Hối đầu thị ngạn ! “

  4. D.Nhật Lệ says:

    Ông TKĐ.lại trổ tài “chơi chữ” của ông để thi vị hóa lẫn triết lý hóa người mà ông luôn tôn sùng !
    Cũng như những người từng hò hét hô hóan “bảo vệ đạo pháp” trước 1975 như Nguyễn Đ Xuân ở Huế,
    HVGiàu (tức HNNhuận) ở Úc,TKLan ở Đức v.v.ông TKĐ.đến giờ này mà vẫn quyết liệt đến mù quáng bênh vực TTQ.So với TKĐ.thì NĐXuân trong nước còn dám viết về vụ chùa Bát Nhã hơn TKĐ.để phản
    đối mạnh mẽ màn kịch đàn áp tăng ni ở Lâm Đồng.Tôi chưa thấy bài nào của TKĐ.viết mà có giọng điệu phản đối baọ lựcmột cách mạnh mẽ về vụ BN.này cả.Nhưng đến baì này thì TKĐ.mạnh mẽ…nằm ngoài sự mong đợi ! Mục đích của TKĐ.rõ ràng lộ liễu qúa đấy.
    “Không vẫn hòan không” là đúng qúa.Tranh đấu cho lắm rồi giờ trắng tay,thậm chí còn bị đàn áp và khóa
    mồm gấp ngàn lần trước kia.Chẳng lẽ TKĐ.không thâý PG. bị csVN.khống chế và lũng đoạn hay sao mà
    còn ra sức bênh vực cho một người đã bị thời cuộc vượt qua ?
    Rút vào im lặng là số phận mà TTQ.phải nhận lãnh,chứ đâu phải tự nguyện mà tung hô thầy mình như thế
    cơ chứ ! Xem ra TKĐ.cũng lão luyện trong việc định hướng dư luận không khác gì chíến lược gia và chính
    khách.Ở đây,hiển nhiên là TKĐ.đánh tráo khái niệm,đánh tráo nguyên nhân và hậu qủa qúa lọc lõi !
    Dưới chế độ CS.mà TKĐ.cứ tưởng TTQ.vẫn hoàn toàn được tự do thì qủa là thậm vô lý.Muốn bảo vệ
    thầy mình cho thuyết phục,có lẽ TKĐ.nên tỏ ra thành thật và công bình hơn trong lý lẽ của mình,chứ không
    nên ngụy biện bằng những xảo ngôn như thế.
    Góp ý vời LTN.là xin bác đừng dùng chữ “thằng” vì không những phản tác dụng mà còn làm cho người như TKĐ.sẽ có cớ…cãi lý lằng nhằng với bác.Đó là điều không nên,dễ gây hiểu lầm.

  5. quang phan says:

    Tên “tiến sĩ” Trần kiêm Đoàn bị phe người Việt quốc gia đánh te tua trên diễn đàn Thế Giới Người Việt.

  6. quang phan says:

    Hưỡn đâu mà ngồi đọc bài viết về tên Việt cộng nằm vùng bẩn thỉu Thích trí Quang này. Miền Nam của ta mất một phần cũng vì những hoạt động lũng đoạn chính trị quấy rối hậu phương ta của nó.
    Còn tên “tiến sĩ” Trần kiêm Đoàn thì bị phe quốc gia đánh cho te tua trên diễn đàn Vietland hồi năm ngoái.
    ***”…Trung tướng Thi lại có mối giao tình rất sâu đậm với Trí Quang, mà nhà chí sĩ Trần văn Hương lúc còn làm thủ tướng thời đại tướng Nguyễn Khánh trong năm 1964 đã quả quyết Quang là cán bộ Cộng sản”. ( Lược Ghi Về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu- Phạm Phong Dinh- VNTP 868-1/Feb/12)
    ***Đoạn trích trong Bạch Thư của thượng toạ Thích Tâm Châu viết năm 1994 về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN ) hay gọi là Phật Giáo Ấn Quang , đặc biệt là về Trí Quang và đám đệ tử :
    “…Ở miền Nam, ngoài Dương Văn Minh, còn có Thích trí Quang, và phe Phật Giáo Ấn Quang, hay ” Phật Giáo Thống Nhất” là một ổ cán bộ Cộng sản nằm vùng trước mũi của chính quyền.Vì giới quân nhân cầm quyền tham nhũng, nên đã dung dưỡng bọn mượn danh đạo, tạo danh đời này, khiến cho miền Nam bị rữa mục, rơi vào tay CS quá dễ dàng.
    ………Trang 25, thượng toạ Thích Tâm Châu viết tiếp: ”Nhóm Lập Trường ở Huế ra đời… TT Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật tử đem bàn thờ ra đường, để ngăn cản bước tiến của quân đội chính phủ, cho các cán bộ Cộng sản nằm vùng trà trộn tẩu thoát… Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng nấp sau tượng Phật bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chua…
    …Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của Cộng sản nằm vùng…”

    ***Trần Tú Uyên phiên dịch từ tài liệu của USMACV.
    Sở Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ
    Tài Liệu Tình Báo Truyền Tin Bằng Đường Giây Nóng.
    Tình trạng số: NLJ92465
    Hồ sơ của thư viện MBJ số: 27
    Hồ sơ lưu trữ của cơ quan MORI: 13197:13197
    Ngày báo cáo: Ngày mồng 4 tháng Năm, 1967
    Số truyền tin: 59488
    Quốc Gia: Nam Việt Nam, Sài Gòn 4 19292
    DOI
    “…………… Sự thật không thể chối cãi được là các phần tử Phật Giáo Nổi Loạn, trong những hành vi chống đối chính quyền Quốc Gia, nhiều khi chúng đứng hẳn về phía Cộng sản càng làm làm gia tăng sự nghi ngờ là GHPGVHTN bị Việt Cộng thâm nhập và do Việt Cộng điều khiển. Những kẻ thường kêu gọi “trung lập và phản chiến” như cố vấn chính trị của Thích Trí Quang là Thích nhất Hạnh đã cho thêm bằng chứng mạnh mẽ để không thể chối cãi rằng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được điều khiển bởi Việt cộng ………………. Ngoài ra còn có nhiều chứng cớ từ lời khai của các cán binh Việt Cộng bị bắt cho biết rằng GHPGVNTN là cơ sở để thâm nhập cán bộ vào hoạt động ở Miền Nam”.
    ***”…Đại tá Nguyễn Ngọc Loan dùng trực thăng đem nhà sư Thích trí Quang từ Huế bay vào Đà Nẵng, khi bay qua đèo Hải Vân, đại tá Loan chỉ mặt nhà sư Thích trí Quang mà nói : “ ĐM. mày Trí Quang, mày là thằng Việt Cộng, tao đạp mày xuống biển bây giờ ”. Nhà sư Thích trí Quang chới với vì không ngờ thằng cha đại tá Bắc kỳ nói giọng lai Huế này đã “chơi liều” bắt giữ mình mà nay lại dám” chơi bạo và chơi dữ” nữa là thủ tiêu mình bằng cách đạp mình xuống biển, nhưng ánh mắt tràn đầy sát khí của Đại tá Loan mới làm Thích trí Quang hoảng sợ chứ ông ta không sợ vì lời nói. Nhà sư Thích trí Quang quỳ xuống sàn phi cơ lạy Đại tá Loan lia lịa, cùng lúc đó một số vị trung tá và thiếu tá trong đoàn tùy tùng của đại tá Loan đứng ra can ngăn, đại tá Loan mới trở về chỗ ngồi…”.

  7. Lữ Út says:

    “Không vẫn hoàn không là Phật cho, tôi mới được như vậy”. Ta là phật đã thành, các ngươi là phật sẽ thành; Phật nào cho Phật nào ? Hay là đổi lại: Đảng đã cho… vậy 37 năm nay ” được ” ẩn cư trong căn phòng cuối dẫy, đúng là Không vẫn hoàn không !

  8. Dân Chửi says:

    Mấy bài viết trước đây của tác giả Trần Kiêm Đoàn cho thấy ông rất uyên áo về Phật học, nhưng đến bài này thì tôi lại cảm thấy tác giả trở thành mờ ảo trong Phật học. Đáng tiếc thay!!!

    Ông Đoàn nêu lên 2 chữ “tùy duyên” như sau: “Bởi thế, “tùy duyên…” là phong thái hành hoạt của người theo đạo Phật. Tất cả đều có sẵn tự thân tâm. Làm vua gặp quân xâm lăng: Đánh! Làm thầy gặp chuyện bất bằng: Chống! Gặp đời phiền não: Tu! Hết một đời: Thản nhiên ra đi như thay áo….” cũng rất bình thuờng như những gì chúng ta đều biết chút ít về Phật pháp. Tuy nhiên, nếu đem điều này để giải thích cho hành động của Thích Trí Quang thì tôi e rằng 2 chữ “tùy duyên” của nhà Phật sẽ biến dạng thành “tùy phong” mất!!! “Tùy phong” đây nói nôm na theo giới bình dân là “Gió chiều nào, che chiều đó”. Thời trước 1975, Trí Quang quậy được nên quậy tới bến. Khi VC vào, thoáng thấy bộ mặt thật tàn ác sẽ đàn áp bắt bớ hành hạ thẳng tay chứ không nhân đạo như thời VNCH, thì Trí Quang buông nhẹ một câu “Tu thôi, tịnh khẩu từ nay”. Sao mà khéo lựa thời mà tu, lựa chiều gió mà che vậy??? Thời này hết giặc xâm lăng rồi sao??? Trước 1975, ai xâm lăng VN, chúng ta đã mất tấc đất nào đâu, sao Trí Quang lại “Đánh”. Bây giờ giặc Tàu đã xâm chiếm Tây Nguyên, biên giới phía Bắc, biển Đông, bắt bớ ngư dân, sao lại ngồi im lặng mà “Tu”? Thời bây giờ chuyện bất bằng còn nhiều hơn thời trước 1975 gấp ngàn lần sao Trí Quang không “Chống”, mà lai…”Chèo êm”??? Hình như các thầy Thích Quảng Độ, Huyền Quang, Thiện Minh, đã không biết cách sống “tùy duyên” theo kiểu ông Trí Quang. Mừng thay cho thày Trí Quang đã “đốn ngộ” đến được “bờ giác” bên kia bỏ lại chúng sinh còn đang lặn ngụp trong đông sình lầy thối tha do thầy để lại. Mừng thay cho “cái ngộ” của thày Trí Quang cũng đã có tác giả Đoàn hiểu được…..xin tán thán các ngài!!!!

  9. luc le says:

    Chi Co Bon Cong San moi Goi ai cung Thang Nhu Chung Thuong Goi Thang Diem Thang Thieu ,Va bon Can lao cung goi nguoi Chung ghet nhu vay

  10. CôngĐài says:

    Tôi đến với bài chủ này, không muốn đi sâu vào ‘ Trí Quang tự truyện ‘ , cũng không muốn nói gì hơn về Ô. Trí Quang.
    (1) – Tác-giả bài chủ, Trần Kiêm Đoàn – trong nội-dung bài viết, giới-thiệu về Ô.Trí Quang thì ít, nhưng nói về đaọ-lý Phật-học thì nhiều. Nhưng hai điều trên tương-tác nhau. Có thể rằng Ô. Trí Quang sau bao nhiêu năm diện-bích, im-lặng, nay ‘ ngộ đạo chăng ‘ ?
    (2) – Tôi có đọc và chú-ý ở một đoạn ngắn mà tác-giả có nhắc đến tên một người và tên một ngôi chùa. Chùa Châu-lâm thì tôi không lạ. Suốt ấu-thời (từ khi ngoài Bắc vào Huế) từ 1946-1950, tôi có qua lại hầu như hằng ngày nơi đó, và ngay cả thời trung-học 1952- 1955, cũng vậy, khi tôi sống, ăn học , vừa chăm sóc bà nội tôi mà bà nội tôi là đệ-tử trung-chuyên của chùa. Chỗ bà nội tôi ở cách xa chùa Châu-lâm khoảng 500 mét đường chim bay, và cũng là nơi mà người chú họ tôi – sẽ nhắc tên sau – làm nơi viết lách và chỗ tiếp bạn-bè, là những nhà văn, thơ – sau này rất nổi tiếng vào những năm trước 1945. Chắc vị sư trụ-trì thời đó hẳn đã viên-tịch, vì thầy Thiện Phước như tác-giả có nhắc, chắc là mới, xa-lạ đối với tôi. Tên người có nguyên-bản là Trần tuấn Mẫn, nếu quả là con Trần thanh Mại – chú họ tôi – thì tôi cũng dễ-dàng có thể liên-lạc, để có một cuốn nguyên-bản mà đọc để tìm-hiểu. Cũng cần nói thêm, nếu TTMẫn được nhận-dạng đúng như vậy, thì còn có một người anh tên Trần tuấn Lộ, phó tiến-sĩ trước 1975, nay tôi không rõ làm thứ gì. Chú họ tôi, Trần thanh Mại qua đời năm 1965. Ông cũng có một người em – cũng là chú họ tôi – là Trần thanh Địch, được nhắc đến trong cuốn ‘ Trông giòng sông Vị ‘ của Trần thanh Mại, nói về Hàn-mặc Tử. Tác-giả là Trần kiêm Đoàn, không biết điều tôi nói có đúng không, nhờ xác-nhận.
    (3) – Có điều, khi được kiểm-duyệt và xuất-bản tại VN, thì khách-quan-tính của cuốn tự-truyện sẽ đạt đến mức độ nào ?
    (4) – Về Phật-học, tôi có tìm-hiểu đôi chút, nhưng không đi sâu. Vì vậy, những quan-điểm về Phật-học – cùng với Phật-giáo – rất khác xa, có những điểm trái ngược với nhiều tôn-giáo khác, nhất là Cơ-đốc-giáo nói riêng. Vì vậy, đối với bài chủ, cả hai vấn-đề chính : – những tư-tưởng Phật-học, – về Ô. Trí Quang ; tôi không có ý-kiến gì khác. Chừng nào tôi có dịp tìm-hiểu thêm qua đọc kỹ cuốn tự-truyện đó – mà tôi hy-vọng sớm có được bằng hình-thức này (qua liên-lạc với Mẫn, nếu thắc-mắc của tôi là đúng) hoặc hình-thức khác (đọc trên những trang mạng nếu được phổ-biến rộng-rãi – hoặc mua, nếu có thể), thì tôi sẽ góp-ý sau. Ý muốn nói rằng, Ô. Trí Quang bây giờ có thể khác với Trí Quang của gần 50 năm trước. Tôi sẽ đọc những phản-hồi khác – có thể có những điều cập-nhật – để hiểu thêm.

Phản hồi