Trí Quang Tự Truyện: Không vẫn hoàn không
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn – thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký. Người đem tiểu sử đời mình ra đánh bóng, trang hoàng, rao bán thì thành nhà… chính trị kinh doanh! Nhưng dẫu ở mức độ nào thì cũng khó lòng đem ra so sánh, cân đo khi không có cùng mẫu số. Cũng đều xuất phát từ con người làm điểm tựa, nhưng sẽ thiếu công bằng nếu đem những tứ đại kỳ thư, những áng kim cổ hùng văn hay thiên hạ danh văn để so với những bài thơ Thằng Bờm có cái quạt mo, những bài ca dao truyền miệng… vì mẫu số chung của cảm tính văn nghệ chẳng tương đồng. Tuy nhiên, trong ý nghĩa tinh túy nhất mà cũng rất thường tình của nhân sinh, “cái thích” hay sự cảm thụ và sáng tạo văn chương nghệ thuật thì không ai giống ai vì cái ngã sở chắn đường bít ngõ theo lối mòn một chiều“có thì có tự mảy may, khi không cả thế gian này cũng không!”. Từ đó dẫn tới cái thương, cái ghét càng lúc càng xa với những gì hiện thực “thương ai thương cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng!”
Tác phẩm nghệ thuật thường được ví von như những cơn mưa. Có những trận mưa – mưa rào, mưa tình, mưa pháp – mà con người và muôn vật được hưởng lợi lạc hay phải chịu đựng cơn mưa phù hợp với căn tính của từng đối tượng: Con dế mèn ca hát rát cổ hưởng được một giọt mưa ngọt lịm; con chim non bị ướt tổ lạnh run; con kiến cỏ bị chết trôi chới với; người nông dân có được nước đầy đồng… Chẳng ai giống ai. Bởi vậy, mọi giá trị của vạn vật đều tương đối. Nhưng trong tương đối đã có sẵn một điều tuyệt đối, đó là sự khác biệt và đồng nhất đều cùng một thể: “Không lại hoàn không!”
Và, đó cũng là kết luận của “Trí Quang Tự Truyện”. Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90.
Có thể nói mà không phải dè dặt rằng, trong số các hồi ký của những nhân vật lịch sử, trong cũng như ngoài nước, có liên quan đến dòng lịch sử Chiến tranh Việt Nam thì hồi ký của thầy Trí Quang là một trong những tác phẩm được chờ đợi nhiều nhất.
Văn chương tự cổ không bằng cớ, nên khen hay chê tự nó không quan trọng mà quan trọng là mức độ khách quan, công bằng và tính trong sáng của sự khen chê. Và, quần chúng nói về một đối tượng sao bằng chính đối tượng được nhắc nhở đó tự nói về mình. Trí Quang Tự Truyện là những điều thầy Thích Trí Quang tự nói về mình.
Từ đầu năm 2011, tuy đã được đọc các bài giới thiệu và trích đoạn của tập sách nầy trên mạng lưới truyền thông nhưng mãi đến khi về thăm quê vào tháng 3-2012 tôi mới đọc được bản chính toàn tập. Sách dày 216 trang, nhà xuất bản Tổng Hợp tại Sài Gòn. In 3000 cuốn, xong ngày 22-7-2011. Tác giả viết xong ngày 24-4-2011. Sách không chia thành chương, mục mà được phân thành 47 đoạn viết theo lối hồi ức, tự truyện. Không có một hình ảnh nào minh họa từ bìa đến nội dung.
Trí Quang Tự Truyện đã gây ra những luồng phản ứng tuy không sôi nổi theo kiểu… “siêu sao”; nhưng tương đối rộng rãi đối với quần chúng trong cũng như ngoài nước; đặc biệt là đối với giới trí thức và Phật tử lớn tuổi đã từng sống trong chiến tranh và trải nghiệm thực tế qua những biến cố lịch sử đầy thăng trầm của đất nước. Đa số bày tỏ sự thất vọng vì hồi ký không “ngang tầm” với tác giả. Người ta chờ đợi một thiên hồi ký có “tầm vóc thời đại”. Nghĩa là những pho sách dày với những công bố phơi bày nhiều bí ẩn lịch sử, những “giải mã” sự kiện còn nằm trong góc khuất, những lý giải hùng hồn về các hiện tượng đầy thâm cung bí sử, những biện minh đầy thuyết phục nỗi oan khuất của đạo pháp và dân tộc, những chứng lý rạch ròi thân phận nhược tiểu trên bàn cờ quốc tế… Nghĩa là với tầm vóc của một nhân vật tu sĩ Phật giáo đã từng là khuôn mặt trung tâm cho cuộc tranh đấu đòi tự do, bình đẳng tôn giáo của Phật giáo năm 1963 và những cuộc biểu tình đòi cải cách chính trị thời 1966 đã làm chấn động Việt Nam và dư luận thế giới như thầy Thích Trí Quang thì sẽ có cả một kho tàng dữ liệu và vô số lý giải cho cả một thời kỳ đầy biến động chiến tranh, chính trị và xã hội để viết ra trong hồi ký. Thêm vào đó, thầy Trí Quang còn là tác giả, dịch giả, luận giả uyên bác và đáng tin cậy của nhiều tác phẩm Phật học nội điển và luận thư trong khoảng 70 năm qua. Bề dày của những công trình biên dịch và tham luận có giá trị là những điều kiện “ắt có và đủ” cho một tác phẩm hồi ký lớn của Thầy ra đời. Hoặc ít lắm thì cũng là những hồi ức đầy “thương hiệu thành danh” của ta và của người vào hàng Retrospect của Robert McNamara hay Political Memoirs của Malcom Fraser… và của nhiều nhân vật danh tiếng Việt Nam đã xuất bản chẳng hạn.
Nhưng Trí Quang Tự Truyện đã thanh thản ra đời như một cô gái Việt chân quê trên diễn trường hoa hậu quốc tế làm cho người ta ngạc nhiên.
Những ngày mưa tháng Hai của Huế, lên chùa Châu Lâm không cách xa chùa Từ Đàm là mấy, được ăn cơm chay với thầy Thiện Phước trong vườn lan đủ màu tự trồng, tự tưới của Thầy, trưa vào nghỉ ở nhà tịnh của chùa và đọc Trí Quang Tự Truyện nguyên bản in của anh Trần Tuấn Mẫn báo Văn Hóa Phật Giáo gởi cho, tôi cảm thấy an tịnh và gần gũi với tập sách hơn.
Trong khu vườn thiền lâm, thầy Trí Quang là một hành giả với bút lực dồi dào từ khi còn trẻ tới hồi đại lão như hôm nay. Nói về công phu biên dịch kinh sách, chỉ riêng năm 2011 thôi, thầy Trí Quang đã hoàn thành nhiều công trình trước tác thâm uyên với 3 bộ sách đã in ấn và phát hành là: Tổng Tập Giới Pháp Xuất Gia gồm 2 tập, mỗi tập hơn nghìn trang và Nhiếp Luận, 334 trang. Bởi vậy, khi cầm Trí Quang Tự Truyện trên tay, có lẽ tôi không nên trịnh trọng gọi đây là một tác phẩm hồi ký đầy chữ nghĩa to tát mà nên gọi đây là những dòng tâm bút của một sơn tăng giữa thị thành đang sống với tánh thường rỗng lặng “không vẫn hoàn không”.
So với những tác phẩm mang tính nội điển mà thầy Trí Quang đã cẩn trọng biên dịch – nghiêm cẩn trong từng cụm từ và chỉnh chu trong từng luận giải – thì Trí Quang Tự Truyện nhẹ như tơ hào. Tác giả viết ra những sự kiện, kể lại chuyện đời mình bằng một lối văn chân phương – lại có khi rề rà không trau chuốt – dễ dãi như người bình dân ngồi kể chuyện Tấm Cám.
Trong suốt 50 năm qua, nhân vật Thích Trí Quang thường được (hay bị) môi trường truyền thông đại chúng trong cũng như ngoài nước nhắc nhở khá sôi nổi và không ít thường xuyên trong hàng tu sĩ Phật giáo Việt Nam đương thời. Sự nhắc nhở xuất hiện dưới nhiều dạng thức và từ nhiều góc độ: Giữa đường, lề phải, lề trái, trên mây, dưới hố… Nhưng không phải vì lời khen hay chê mà một dòng sông trở thành trong hay đục. Chẳng phải vì được ca tụng hay bị đả kích qua ngõ thị phi mà một nhân vật trở thành thánh hay phàm. Đâu phải vì yêu hay ghét mà một tác phẩm trở thành hay hoặc dở. Thầy Trí Quang – cũng như mọi nhân vật cộng đồng tên tuổi đã thành danh – có một vị trí và thế đứng riêng trong lòng người và trong lịch sử. Nhưng trong tự truyện, sau khi kể chuyện đời mình từ nhỏ đến lớn; từ thân chú tiểu mới xuất gia cho đến vai trò lãnh đạo Phật giáo thành tựu, tác giả tự kết luận về đời mình: “…cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có, nên phải viết và phải in, mà thôi. ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
Chính vì “chân không” mà cuộc đời thành “diệu hữu”. Nhà tu thật ngôn là người hành động trong vô vi; nghĩa là thỏng tay vào chợ mà không dính mắc, đối mặt với sấm sét giữa đời mà coi như hoa đóm giữa hư không.
Khuynh hướng nhất quán về “không” có mặt trên từng trang sách của Trí Quang Tự Truyện. Nội dung tự truyện kể lại nhiều biến cố và hành động trong chặng đời 90 năm của một hành giả đứng giữa gọng kềm lịch sử như thầy Trí Quang mà vẫn mang một phong vị tĩnh lặng an nhiên. Sự an nhiên có được khi yếu tố tác nghiệp không hoành hành. Đó là khi nhu cầu biện minh, giải thích, thuyết phục, khen chê, vinh danh, bài xích… không thể hiện qua ngòi bút và chữ nghĩa, ngôn từ của người viết. Nhờ vậy, người đọc tự truyện cảm thấy thanh thản theo dõi những gì xảy ra và được tác giả ghi lại mà tâm không bị động bởi những cảm xúc dấy bụi nhất thời.
Đạo Phật là con đường đưa đến giải thoát. Đó là một trạng thái tự do đứng ngay chính giữa hai bờ đối đãi của yêu-ghét, vui-buồn, khen-chê, sống-chết… Tuyệt nhiên không còn bị dính mắc vào hệ lụy của phóng tâm biên kiến đời thường đầy phiền não. Tâm Phật là tâm không không rỗng lặng. Chỉ trong không không rỗng lặng nầy – tinh thần “không trung vô hữu tuyệt đối” của Bát Nhã – thì Phật và chúng sanh mới thành nhất thể. Vì như thiền sư Thường Định Kaido Ashahi Nhật Bản nói trong Thiền Tập Quán Niệm Trên Núi Tuyết rằng: “Một đời đi qua, nếu còn một hạt bụi ngã nhân nào vướng lại ở trần gian nầy thì kẻ tác tạo hạt bụi đó vẫn còn bị cột buộc. Người đó còn phải quay lại trả nghiệp cho đến khi hạt bụi kia chẳng còn vướng vất giữa trần thế, trong tâm thức và giữa hư không…thì mới mong thấy được khung cửa nghìn xưa quay về nẻo Đạo.” Phải chăng vì muốn phủi sạch đôi “hạt bụi ngã nhân” còn vương trên khung cửa nghìn xưa quay về nẻo đạo mà Hòa thượng Trí Quang phải miễn cưỡng bận lòng trong Tiểu Truyện Tự Ghi, rằng: “Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.”
Xác định về một thái độ hành xử như thế, thầy Trí Quang làm cho những người học Phật đời sau nhớ tới tinh thần tùy duyên hành đạo và sống đạo của Phật giáo đời Trần. Vua Trần Nhân Tông khi đã gác kiếm chống quân Nguyên, thay chiến bào bằng áo cà sa, nghe thị giả hỏi rằng, đâu là chỗ khác nhau giữa việc đời bôn ba và việc đạo an nhiên tự tại, đã đọc bài kệ:
Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Khi đói thì ăn, mệt ngủ yên
Của quý đầy nhà đâu phải kiếm
Thấy cảnh lòng không khỏi hỏi thiền
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)
Như thế phải chăng “vô tâm tức là đạo?” Khi có người hỏi về khái niệm nầy, Tuệ Trung Thượng Sỹ, thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đọc bài kệ:
Vô tâm là vô đạo
Có đạo chẳng vô tâm
Tâm đạo đều trống rỗng
Biết nơi đâu mà tầm?
(Bổn vô tâm vô đạo
Hữu đạo bất vô tâm
Tâm đạo nguyên hư tịch
Hà xứ cánh truy tầm?)
Điều Tuệ Trung muốn nói là cần đập vỡ những khái niệm tương tác không có thật giữa củ khoai và con kiến. Làm gì có con kiến mà kiện củ khoai. Làm gì có tâm và đạo hiện hữu như hai đối thể phân biệt khi tâm và đạo là nhất thể. Tâm và đạo không phải là hai hình tướng để mô tả và phân biệt mà cần thực chứng trong rỗng lặng, an nhiên qua một trong nhiều phương tiện quán chiếu thiện xảo nhất của Phật giáo là thiền định. Đạo Phật là con đường thực chứng cuộc đời chứ không phải phủ nhận hay xa lánh cuộc đời như ngộ nhận. Đạo giữa đời và đời giữa đạo. Bình thường giai thị đạo.
Nhà tu là một người phàm trang bị tính thánh chứ không phải là thánh. Bởi thế, tu hành cũng là một quá trình vật lộn với chính mình vì nghiệp và luân hồi là một chân lý vận hành khách quan. Bất luận Phật tử xuất gia hay tại gia, đã tu mấy đời hay nhiều đại kiếp, khi chưa đắc đạo thành Như lai, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác… thì vẫn còn trực tiếp chịu sự chi phối của Nghiệp. Mục Kiền Liên là đại đệ tử đệ nhất thần thông của đức Phật đã tu qua nhiều đại kiếp, đã từng xuống tận địa ngục A Tỳ cứu Mẹ mà trong kiếp cuối cùng, trước khi đắc đạo, vẫn phải trả Nghiệp tiền kiếp. Ngài đã bao lâu ẩn tàng, mặc cho bọn cướp vây quanh tha hồ biếm nhẻ. Nhưng chỉ một phút tác động của Nghiệp đã để lộ nguyên hình cho bọn cướp ùa tới phanh thây. Tên cướp và thiền sư khác nhau ở chỗ là ai đang tạo nghiệp và ai đang giải nghiệp mà thôi.
Bởi thế, “tùy duyên…” là phong thái hành hoạt của người theo đạo Phật. Tất cả đều có sẵn tự thân tâm. Làm vua gặp quân xâm lăng: Đánh! Làm thầy gặp chuyện bất bằng: Chống! Gặp đời phiền não: Tu! Hết một đời: Thản nhiên ra đi như thay áo. Gặp chuyện thị phi đời thường: Im lặng như chánh pháp. Khi cần lập ngôn: Nói năng như chánh pháp. Có gì quan trọng – khi một tơ hào cũng không còn hiện hữu trong tánh không rỗng lặng – đâu mà phải cần hư vọng, hư danh như bia đá đề tên, lưu danh sử sánh, bỉ thử khen chê.
Trong khung cảnh Phật giáo, Trí Quang Tự Truyện viết ra để ghi lại những chuyện đời thường của chính tác giả. Nhưng tất cả đều không vượt ra ngoài tự tánh của chư pháp “không lại hoàn không” và tác giả đã hành xử; đã sống và viết trong cái không mênh mông rỗng lặng đó. Tiếng chuông công phu khuya từ chùa Hàn Sơn ngày xưa dóng lên từ một sơn tăng đã trở về với tự tánh rỗng lặng. Nhưng Trương Kế và muôn vạn đời sau đã “bắt gặp” và cảm nhận như thế nào là cả một hợp duyên “thân báo” muôn màu muôn vẻ khó thể nghĩ bàn. Khi tiếng chuông tự nó là tiếng chuông thì sẽ không khứ, không lai, không thừa, không thiếu. Tiếng chuông cũng chỉ là một pháp… không lại hoàn không.
Huế – Cali., mùa Phật Đản 2556 (2012)
© Trần Kiêm Đoàn
© Đàn Chim Việt
TKD viết bài nào cũng khoe chữ và triết lý điên. Nguyển Khoa Thái Anh thì khoe quen 3 thằng Mỹ ở mấy trường đại học. tên luật sư còi hụ thỉ thường trích lời mấy tên triết lý đại đúng. Bà con chữi nhiều quá mà chùng vẫn chường mặt trên mạng không biết xấu hổ. đồ điên mới ca ngợi bênh vực trí quang.y có thiền có tu mấy kiếp cũng đi vào địa ngục để gặp HCM.
” Không lại hoàn không? Điều mà có lẽ thầy cũng biết từ khi Chánh phủ Lâm thời Miền Nam VN bị CS Bắc Việt xoá bỏ không thuơng tiếc
Tại sao lại than thở ” Không lại hoàn không? ” Bao nhiêu sinh mệnh bị ngã xuống , bao nhiêu gia đình ly tán duới bàn tay cuả thầy thì nay thầy lại chĩ biết mình và than thở chĩ riêng cho mình sao ?
Cái điều đáng làm ,đáng lên tiếng lúc này là lấy trải nghiệm cuả bản thân mình góp cho đời một bài học như ông Nguyễn Hộ đã làm , như Nữ Bác sỉ Duơng Quynh Hoa hay Tuớng Trần Độ từng lên tiếng .
Muốn giới thiệu ” Trí Quang Tự Truyện” mà laị dùng lối lý luận tối om , quanh co , cầu kỳ như thế này thì ai mà đọc! Thầy Trí Quang đúng là hết thơì ….
Cảm ơn tác giả TKĐòan đã có công ‘hình nhi thượng’ bài này để bà con có nơi Xả Xú Bắp.
Cũng là tùy duyên thôi.
TT Quang là giặc thầy chùa không hơn không kém. Theo cựu Thiếu-Tá Liêm-Thành thì N.V. Bồng được Tố-Hữu kết-nạp vào đảng cộng-sản khát máu. Tức Trí-quang là việt-cộng rồi.
Nhiều bác cứ cắc cớ hỏi rằng hiện nay đất nước nhiễu nhương, đầy rẫy tội ác từ bọn cầm K… thằng Tàu mà sao không thấy Ô. TQ đấu tranh như hồi xửa ông đã từng đánh phá CH ? dễ thôi , ảnh là đồng chấy đồng rận với họ thì ảnh dám đấu tranh à ? không lẽ tao chửi tao ! nên ảnh ” tịnh khẩu ” là vậy ! Cũng đừng ai nghĩ rằng ảnh sợ ….bị thủ tiêu từ tụi đồng chấy ! Không, sau 30/4/75 nhiệm vụ Đảng cướp giao ảnh đã “hườn thành”, đã trả nợ cho Đảng cướp rồi thì ảnh tinh tấn tu hành để chờ xuống …âm phủ thôi !
Các bác đừng có nóng, sau khi chưng cái ” Trí Quang tự truyện ” thì Ngài bị chửi tá lã âm binh vuốt mắt không kịp. không dè lại có thằng cha nào đó hùa vào viết thêm với cái tựa ” hai chồng hai con” gì đó, Ngài lại 1 phen bở vía mới than rằng : ta tu hành mà sao kẻ thù bủa vây khắp nơi hè ! Ngài bèn cầu cứu TBN nhờ ” giải độc” dùm :kết quả thêm 1 trận chửi …méo mặt ! Sau rốt Ngài đành phải nhờ TKĐ vậy ….không ngờ còn bị chửi …..dã man hơn !!!!! Thế lầy nà thế lào ???
Nếu không có ngày 30/4, tên Thích trí Quang thích Việt cộng này đáng bị đem ra Toà Án Mặt Trận lãnh án tử hình, chí ít thì cũng phải bị chung thân khổ sai, lưu đày biệt xứ cho tội làm nội tuyến phá hoại Miền Nam.
Còn về phần tên Trần kiêm Đoàn thì trốn mặt chạy dài không dám đối thoại trực tiếp với thiếu tá Liên Thành.Nhục nhã quá trời ?
Tác giả sách, Thích Trí Quang, “tự kết luận về đời mình” (chữ của TKĐ) “…cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có, nên phải viết và phải in, mà thôi. ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.” ( TKĐ trích từ sách TTQ)
Câu hỏi: “Không có gì đáng nhớ, đáng nói” mà tại sao “phải viết và phải in”? Mà in trong khuôn khổ được phép xuất bản? Và, kết luận lại là “không vẫn hoàn không”?
Câu hỏi khác: Thảm cảnh hàng triệu người miền Nam tán gia bại sản, chết tù, chết bờ, chết bụi, chết rừng, chết biển.. từ sau 30/4/1975 là “không có gì đáng nhớ, đáng nói” về nguyên nhân?
Phải chăng “không vẫn hoàn không” là cách phủi bụi (tôi gọi bụi cho nó nhẹ nhàng!) vươn áo cà sa, tự đánh lừa công luận một lần nữa bằng cách giấu mình vào kinh kệ, như tác giả TKĐ ca ngợi trí huệ và công sức của TTQ về Phật học?
Vứt dao đồ tể thành Phật là sự công khai dứt khoát với sai lầm, còn ẩn mình hơn 36 năm.. để rồi “phải viết và phải in” thế mà được tác giả TKĐ dùng huyễn ngữ bào chữa nên tôi e rằng mọi lý luận “sắc sắc không không” ở đây là loại “lý luận huề vốn”! Tiếc thay lại là loại lý luận huề vốn trên xương máu đồng bào!
Không vẫn hoàn Không
Tác giả Trần Kiêm Đoàn có lẽ là một nhà nghiêncứu Phật học uyên bác. Bài ông viết trên DanChimViet đa số thường tập trung vào chủ đề “bàn luận Phật pháp”.
Tựa đề bài này “Không vẫn hoàn Không” lấy từ câu kết luận của cuốn sách “Tự Truyện” mới xuất bản của TT Thich Trí Quang, một vị sư nổi tiếng khá nhiều trong lịch sử cận đại liên hệ đến triều đại Ngô Đình Diệm. Ở đây tôi chưa muốn bàn sâu xa truy tìm thủ phạm chính hiệu gây ra đổ vỡ chế độ VNCH I, mà mọi người hãy còn chỉa mũi dùi vào ông Trí Quang. Tôi chỉ muốn nhắc nhở tác giả Trần Kiêm Đoàn rằng:
“Đã tự nguyện làm đệ tử Nhà Phật thì phải nhắm đúng mục tiêu tối thưọng là GIÁC NGỘ do ngài Thích Ca Mâu Ni dẫn đường chỉ lối. Trong Bát Chánh Đạo thì Chánh Ngữ và Chánh Tư Duy rất ư quan trọng. Suy nghĩ phải chín chắn và sâu vào chi tiết, minh bạch, khúc chiết. Khi viết khi nói thì phải đắn đo rõ ràng minh bạch không ỡm ờ, mập mờ, nói hai nghĩa, gây ngộ nhận cho người nghe”.
Vậy thì với cái tựa đề Không Vẫn Hoàn Không nghe rất kêu này, ông Trần Kiêm Đoàn muốn nói gì về Thích Trí Quang ? Phải chăng tác giả muốn dựa vào ý nghĩa bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật để nhắc kéo về cụm từ Sắc Sắc Không Không (Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc / Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc)”.
Đề nghị tác giả lên tiếng giải nghĩa về chủ đích của ông với tựa đề đó.
Kể từ khi Ngài Thích Ca Mâu Ni ra đi, Phật Pháp (Kinh, Luật và Luận) do Ngài để lại chỉ được truyền bá quanh đi quẩn lại xung quanh hai dạng: Kinh và Luật. Kinh thì chất đống như rừng, như biển, bát nháo và chứa đầy câu chữ bí hiểm nhằm làm cho chúng sinh thêm u mê tăm tối, tạo cơ hội cho Tăng chúng dốt nát tha hồ diễn dịch đi vào thế giới thần thánh, huyền thoại mê tín dị đoan. Luật (căn bản Ngũ Giới) thì chẳng mấy ai còn cố gắng chấp hành làm cho cửa Thiền biến thành nơi buôn thần bán thánh. Chỉ có dạng Luận Đề, cốt lõi tinh hoa của triết lý Nhà Phật, thì chẳng mấy ai để tâm nghiên cứu đào sâu để đi đến GIÁC NGỘ. Đó là lý do tôi đề cập với ông Trần Kiêm Đoàn hôm nay.
Mong ông vì Đạo Pháp mà lên tiếng giãi bầy,
Cám ơn nhiều,
Theo tôi , ông Sư này quả thật là mồm mép không ai bì … Quậy phá đất nước đến mức này mà chưa biết sám hối thì chắc khi chết phải bị đày xuống ngục A tỳ
Ông sư hổ mang này phải biết chính vì bàn tay ông mà miền Nam đên nổi te tua .. Đau khổ như bây giờ .Đủ rồi . Không nên tự truyện tự biện gì cho mệt … Thấy niết bàn đâu mà chứa chấp tên sư này , ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản .. Sư gì mà sư
Đừng đọc những gì tên sư hổ mang này viết mà hãy nhìn hậu quả sự việc hắn đã làm .. Có vậy thôi
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT …. Ma ha hát