WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Sự khác nhau của Công Lý và Dân Chủ

Lời tác giả:

Trong cuộc đấu tranh giành tự do dân chủ cho Việt Nam hiện nay, nhằm giải thể chế độ độc tài độc đảng Cộng Sản đang nắm quyền. Việc xác định tư tưởng và đường lối đấu tranh là điều hết sức quan trọng, nhất là đối với các nhà lãnh đạo của các tổ chức đấu tranh. Quan điểm “đấu tranh đòi công lý thay vì đấu tranh giành dân chủ” là một quan điểm chưa chính xác về mục tiêu và ý nghĩa của hành động tranh đấu..

“Tư tưởng chỉ đạo hành động, tư tưởng đúng thì hành động mới đúng”.

——————————————————

Trước hết muốn tìm hiểu xem khái niệm “Công Lý” là gì và nó được bắt nguồn từ đâu, chúng ta sẽ phải xác định được sự công bằng là gì?

Công bằng có tự khi nào?

Thực ra công bằng đã có từ rất sớm, có lẽ là từ khi con người còn sống theo hình thức bộ lạc, bộ tộc, và nó là kết quả của sự phát triển lý trí, trong sự tiến hóa về mọi mặt của loài người. Sự công bằng thủa sơ khai hiện diện cùng với tự do bản năng, ví dụ, xuất phát từ tình cảm tự nhiên giữa con người với con người, một nguyên tắc nảy sinh: “Kẻ mạnh bảo vệ kẻ yếu” trong cộng đồng trước sự tấn công của thú dữ cũng như sự cạnh tranh từ các nhóm người khác…

Cao hơn chút nữa, cách thể hiện công bằng, đó là sự chia phần các sản phẩm hái lượm và săn bắt. Thông thường, khi đi săn bắt và hái lượm trở về, con người thời cổ đại thường chia những thức ăn ngon cho trẻ nhỏ và người già. Tất nhiên, kẻ đứng đầu của bộ lạc sẽ được chọn  phần ưng ý nhất.

Về ngôi thứ, hình thành theo lối nguyên thủy, tức là kẻ mạnh nhất (hoặc từng là kẻ mạnh nhất), sẽ là người đứng đầu. Người này cũng sẽ phải đi đầu xông pha trận chiến, bảo vệ cho những người yếu đuối hơn có thì giờ trốn tránh kẻ thù. Tất cả những sự sắp đặt này đều là tự nhiên, bất thành văn, và người ta coi những sự sắp đặt tự nhiên như vậy chính là biểu hiện tính công bằng.

Tuy bộ óc của con người thời cổ chưa ý thức được công lý là gì, nhưng rõ ràng họ đã ý thức được sự công bằng.

Vậy thế nào là một sự công bằng chuẩn mực? Phải khẳng định ngay rằng, không có một thang chuẩn nào cho sự công bằng theo nghĩa phổ quát. Đơn giản vì quan niệm của mỗi người, mỗi nhóm người về sự công bằng là khác nhau, mỗi phạm vi không gian sống khác nhau, mỗi miền khác nhau, mỗi vùng lãnh thổ cũng khác nhau. Như vậy là không thể có “sự công bằng vô hạn”, mà chỉ có “sự công bằng hữu hạn”.

Ở góc độ quyền lợi. Nếu tại nơi này người ta coi sự phân chia lợi ích theo phương châm A là đúng đắn và công bằng, thì ở nơi khác rất có thể người ta coi sự phân chia lợi ích theo cách đó lại là thiếu công bằng.

Một ví dụ, khi người đi săn và con chó của anh ta kết thúc cuộc đi săn. Phần thưởng cho chú chó thông minh và trung thành là một phần hoặc toàn bộ cái đầu của con thú săn được. Một người đi săn khác giống như vậy nhưng anh ta coi trái tim của con thú mới là quý, nên anh ta tặng nó cho con chó săn của mình. Cả hai người thợ săn đều nghĩ là mình đã chia phần công bằng. Nhưng rõ ràng là hai sự chia phần nói trên chỉ giống nhau về mục đích và ý nghĩa, nhưng hoàn toàn khác nhau về sự công bằng trên giá trị sản phẩm vật chất.

Ở góc độ nghĩa vụ. Trong mối quan hệ gia đình Mẫu Hệ, người phụ nữ là chủ gia đình, quản lý điều hành mọi công việc và đồng thời là lao động chính nuôi gia đình. Nhưng trong mối quan hệ có hình thức ngược lại, thì người đàn ông là chủ sự gia đình và người phụ nữ không được coi trọng, thậm chí là không được tôn trọng. Vậy đâu là sự công bằng chuẩn mực? Sự sắp xếp nào là hợp lý? Còn trong xã hội văn minh ngày nay, nam nữ bình quyền, người ta cho đó là sự công bằng. Nhưng nếu đặt quan điểm này vào trong xã hội của người Hồi Giáo chẳng hạn, thì có được chấp nhận hay không? Chắc chắn là không!

Về khái niệm “Công Lý”. Giống như khái niệm “Dân Chủ”, khái niệm về “Công Lý” cũng đã tốn nhiều giấy mực và thời gian nghiên cứu của các triết gia hàng đầu thế giới như Locke, Kant, sau này là Rawls vv…Đến ngày nay, đại đa số đều nghiêng về ý kiến xác nhận rằng: “Công lý là sự công bằng”.

Thực ra, khác với sự hiện diện của Dân Chủ (một phát minh mở vĩ đại về tư tưởng kiến tạo mô hình xã hội chuẩn tiên tiến), Công Lý chính là sự công bằng theo một chuẩn mực có tính quy ước, thể hiện thành văn bản hoặc được người đời chấp nhận như là một quy định bất thành văn. Nó chỉ có giá trị xác định tại mỗi thời điểm (giai đoạn) nhất định và trong mỗi không gian sống có ranh giới mà thôi.

Theo luận thyết của John Rawls: “Một quan niệm chính trị về công lý”. Ông cho rằng, “công lý là sự công bằng” và tính chất chung của nó được diễn giải như sau:

1. Công lý là cấu trúc căn bản của tất cả những cơ chế và định chế kết hợp lẫn nhau thành một hệ thống điều hợp xã hội.

2. Quan niệm này không dựa trên hay bắt nguồn từ một chủ thuyết toàn diện nào, nhưng nó cũng có thể được biện minh từ một hệ thống tư tưởng toàn diện khác.

3. Quan niệm này cũng đặt cơ sở trên một bối cảnh văn hóa chính trị công cộng nào đó.

Có vẻ như quan niệm của John Rawls “công lý là sự công bằng” còn có điểm chưa rõ ràng. Nhưng nếu như ta hiểu vấn đề theo cách dùng  “trực giác luận” và “hữu minh luận” thì công lý, là một hệ thống cơ cấu xã hội công cộng nào đó. Nó phân chia quyền lợi, quyền hạn và trách nhiệm cho cộng đồng và mỗi cá nhân theo một hay nhiều quy định pháp định, được số đông (đa số) trong cộng đồng chấp nhận, thì bản chất vấn đề sẽ rõ: Công lý của một xã hội có tổ chức nhà nước, chính là sự công bằng (thành văn) được xuất bản.

Trong một quốc gia cụ thể (nào đó) có nền dân chủ tiến bộ, sự công bằng thể hiện bằng công lý, chính là một phần của cơ cấu xã hội dân chủ tiên tiến. Đó là: “tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh”. Trong đó hai từ “dân chủ” trong cụm từ trên ám chỉ nền chính trị dân chủ, trong một xã hội Dân Chủ.

Nếu xét một chế độ độc tài nào đó (điển hình là chế độ độc tài Cộng Sản), ta hỏi liệu nó công lý hay không? Tất nhiên là hoàn toàn có, nhưng công lý (sự công bằng) của xã hội này được xây dựng theo cách áp đặt, hoặc theo cách giả dối, ngụy biện, do một nhóm người lập nên. Họ cũng trưng ra rằng chế độ của họ có đầy đủ “tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh” nhưng theo chuẩn mực của họ và theo cách nghĩ của họ. Công lý của xã hội độc tài có đủ mọi chế tài pháp luật, nói là để bảo vệ người dân. Nhưng thực ra nó là thứ công lý có lợi cho kẻ nắm độc quyền mà thôi.

Công lý của xã hội Phong Kiến có thiếu sót (!) là không che đậy sự thiếu công bằng, khi phân chia quyền lợi giữa vua quan và dân chúng. Nhưng chế độ độc tài, nhất là độc tài Cộng Sản thì ranh ma hơn nhiều, nó luôn luôn giương cao ngọn cờ công lý, đề cao sự công bằng, thậm chí giai cấp cai trị độc tài hiện đại thời nay sẵn sàng tuyên bố làm “đầy tớ của dân”, “công bộc của dân”. Nhưng sự thật thì đã rõ, công lý của xã hội độc tài Cộng Sản là thứ công lý một chiều, hoàn toàn bất lợi cho tầng lớp dân đen, chẳng khác nào công lý của thời Phong Kiến.

Như vậy bản chất của khái niệm “Công Lý” trong hai mô hình xã hội (chế độ Dân Chủ và chế độ Độc Tài) là khác nhau, thậm chí một số khía cạnh khác nhau hoàn toàn.

Khái niệm “Dân Chủ”. Riêng về khái niệm “Dân Chủ” thì có nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cũng đã dày công tìm hiểu. Người ta kết luận: “Dân Chủ” trong chính trị, chính là sự đa nguyên về các thành phần chính trị, thông qua yếu tố căn bản “quyền tự do về chính trị”. “Tam quyền phân lập” đóng vai trò then chốt trong việc phân bổ quyền lực của cơ cấu bộ máy chính trị một quốc gia. ”. Theo Abrham Lincoln- Cựu tổng thống Hoa Kỳ- Dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và vì dân”. Người ta cũng cho rằng: “Dân Chủ là sự thể chế hóa của tự do”.

Một xã hội Dân Chủ (phạm vi quốc gia), thì phải có tự do đúng nghĩa,  công lý cũng như các định chế khác của xã hội phải được xây dựng bởi toàn dân (do dân), nó phải phục vụ nhân dân (vì dân), do chính nhân dân nắm quyền điều hành thông qua Quốc Hội (của dân). Xã hội đó phải có nền chính trị dân chủ đa thành phần (đa nguyên). “Bình đẳng” nghĩa là mọi công dân đều được hưởng quyền sống, quyền tự do như nhau, không phân biệt giai cấp. Yếu tố văn minh là yếu tố “tự nhiên có” khi đã có đủ: “tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng”, cộng thêm nét đẹp văn hóa từ bản sắc của nền giáo dục.

Như vậy khái niệm “Dân Chủ” dù là được đặt trong chính trị hay trên toàn xã hội, đều có liên quan mật thiết đến khái niệm “Công Lý”. Tuy nhiên, vì vai trò khác nhau cho nên hai khái niệm này không bao giờ có thể thay thế nhau được. John Lawls gọi mối quan hệ có dạng thức này là “sự thỏa thuận chồng chéo” nó không  mâu thuẫn nhau vì Công Lý (công minh) chính là một sản phẩm tinh thần của xã hội có dân chủ. Công Lý là một yếu tố cấu thành để bảo vệ quyền con người trong xã hội. Như vậy chúng ta cần đặt tên cho sự công bằng trong xã hội Dân Chủ là “Công Lý Dân Chủ”,

Nói một cách ngắn gọn: Công Lý là cấu trúc, Dân Chủ là kiến trúc, làm nên một xã hội tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh.

Vế phương diện đấu tranh. Người ta cứ nghĩ rằng, trong chế độ Dân Chủ thì không có chuyện đấu tranh đòi công lý, ngược lại chuyện đó vẫn thường xảy ra rải rác trong một phạm vi hẹp nào đó. Thực ra nói rõ hơn thì đó là chuyện “đấu tranh đòi thực thi công lý nghiêm minh”. Và trong chế độ Dân Chủ thì chắc chắn là không có chuyện đấu tranh giành tự do dân chủ nữa. Nhưng trong chế độ Độc Tài thì việc đấu tranh giành dân chủ là điều phải có hoặc sẽ phải có. Vì chỉ có dân chủ đúng nghĩa thì mới sản sinh ra công lý công minh.

Như vậy nếu đặt mục tiêu đấu tranh đòi Công Lý, thay vì đấu tranh giành Dân Chủ thì ta mới chỉ đạt được một phần trong nhiều mục tiêu quan trọng nhằm hướng tới một xã hôi Dân Chủ. Ấy là chưa kể đến chuyện cái công lý mà chúng ta “đòi” ấy, nó theo mô thức nào. Nếu chúng ta đi tìm một thứ công lý chung chung, không rõ ràng, thì có khi chúng ta lại “lượm” được thứ công lý “giả dạng” như của chính chế độ độc tài Cộng Sản đang áp đặt cho dân chúng.

Vì vậy muốn có Công Lý Dân Chủ, nhất thiết và trước hết là phải có Dân Chủ, có Tự Do (tự do về chính trị, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình vv…). Vì “xã hội nào thì công lý ấy” cho nên mục tiêu đấu tranh giành dân chủ là mục tiêu tối thượng của những người đấu tranh sống trong chế độ Độc Tài.

Có rất nhiều các cuộc cách mạng thay cũ đổi mới trên thế giới đã thành công, ban đầu chỉ xuất phát từ những phản ứng của dân chúng đòi hỏi những chuyện đơn giản từ chính quyền. Ví dụ như cuộc biểu tình đòi quyền lợi của công nhân xưởng đóng tàu Lê Nin ở Ba Lan. Hay cuộc biểu tình của người Rumania chống lại lệnh trục xuất mục sư Laszelo Tokes. Hoặc chuyện công nhân các mỏ Đồng ở Chi Lê đình công đòi tăng lương vv…

Và hầu hết những quần chúng tham gia biểu tình chống chính phủ ở các nước kể trên đã có những hiểu biết về khái niệm Dân Chủ. Họ biết rõ mục tiêu đấu tranh ngắn hạn là để chống chính sách bất công của nhà đương cục. Mục tiêu dài hạn của họ là hạ bệ chế độ độc tài. Rõ ràng đây là một sự khôn khéo trong tổ chức đấu tranh của các nhà lãnh đạo cách mạng.

Nhưng để chuẩn bị cho cách mạng, các nhà lãnh đạo đối lập ở các nước kể trên, trong một thời gian dài trước cách mạng, họ đều đã có những hoạt động tuyên truyền sâu rộng về chủ đề “Tự Do”, chủ đề “Dân Chủ”, chủ đề “Đa Nguyên Chính Trị”vv… Chuyện tuyên bố đấu tranh đòi công lý, hay đòi đất đai, đòi tăng lương, họ chỉ áp dụng cho một cuộc biểu tình, hay một cuộc bãi công cụ thể…

Ở một nước như Việt Nam, với đặc thù riêng, tuy có nhiều điểm khác Chi Lê, Ấn Độ, và các nước Cộng Sản Đông Âu (trước đây). Chuyện “đấu tranh vận dụng” là một điều nên làm, nhưng có lẽ trước hết giống như ở Đông Âu, người dân Việt Nam cần biết rõ đích đến cuối cùng của cuộc cách mạng thay cũ đổi mới là gì, họ cần được chuẩn bị hành trang để sẵn sàng nhập cuộc. Làm sao để họ tin chắc rằng: Đấu tranh giành được quyền tạo lập một xã hội Tự Do Dân Chủ, đương nhiên họ sẽ được hưởng sự công bằng của một nền Công Lý trong sáng, minh bạch.

© Lê Nguyên Hồng

© Đàn Chim Việt

5 Phản hồi cho “Sự khác nhau của Công Lý và Dân Chủ”

  1. Di Linh says:

    Đính chính :
    “OUR OF DUTY ” xin đọc là “TOUR OF DUTY”

  2. KENNY says:

    Gữi bạn “Duong Thi Thieu Hoa” :

    AI ĐÃ XÚC PHẠM BÁC HỒ KHI MỜI MỸ KHÁM XÉT LỤC SOÁT LĂNG BÁC HỒ ?

    Phải nói rõ ,trong chế độ Hànội , không nơi nào đuợc xem thiêng liêng và tôn kính bằng Lăng “Bác Hồ”. Thế nhưng trong thế cùng đuờng và đánh đổi cho cái gọi là “ĐỖI MỚI” để van xin Mỹ cho nối bang giao ,,CSVN đã lén lút cuí đầu xuống sát đât đành để đế quốc Mỹ giãy chết vào khám xét , lục soát nơi “thiêng liêng ” cao nhất cuả họ. Xin mời :

    Trong sách OUR OF DUTY of JOHN KERRY (1)cuả DOUGLAS BRINKLEY , Thuợng Nghị Sĩ , cưụ ứng cữ viên Tổng Thống Mỹ ,JOHN KERRY kể lại như sau :
    “Tiếng đồn cho biết tù binh Mỹ đang bị nhốt làm con tin duới lăng Hồ Chí Minh tại Hà nội. Truớc đó, hãng tin Reuter đã chạy hai câu chuyện trong tháng Tám 1992 báo cáo nhiều tù binh Mỹ
    bĩ bắt giữ trong các đuờng hầm Hà nội sát lăng Hồ. Đáng thuyết phục nhất là cuộc phỏng vấn Đại sứ Nga tại Việt Nam . Vì vậy , Thuơng nghị sĩ Kerry cùng TNS Bob Smith quyết đòi hỏi
    phái đoàn phải đuợc “phép” điều tra khám xét tại chỗ . TNS Kerry nhớ lại :
    ” HỌ BẮT BUỘC CHÚNG TÔI KHÔNG ĐUỢC TIẾT LỘ (cuộc khám xét này ). THẬT LÀ KỲ CỤC ! ”
    Nhưng rồi chúng tôi cũng khám xét các mồ mã trong hang rêu mốc và các đuờng hầm ngóc ngách đó “.(trang 450)
    TT Nguyễn Tấn Dũng: “Tôi yêu nhất, quý nhất là sự trung thực,”… Chắc chắn Thủ tuớng sẽ “yêu nhất, quí nhất sự “trung thực “trên đây và mong “Duong Thi Thieu Hoa, Nguời yêu nuớc ” cùng các bạn đọc và báo cáo cho bà con , bạn bè biết trong ngày Thăng Long sắp đến :

    AI LÀ KẺ ĐÃ XÚC PHẠM BÁC HỒ “

  3. Di Linh says:

    CSVN LƯÀ BỊP QUÁ MÀ AI CÒN DÁM TIN ?

    ”NGUỜI YÊU NUỚC “… bao giờ hai bàn tay từ hai người con đất Việt có thể nắm tay nhau trong hoà hợp và yêu thương?”
    Bạn đã nghe : BS Duơng Quỳnh Hoa, LS Nguyễn Hưũ Tho, LS Nguyện Mạnh Tuờng , TS Võ Nhân Trí , Tr.T kể về lưà bịp của HCM và CSVN từ hàng chưc năm rồi . Đúng không ?
    Bạn đã thấy Cọng Sãn Việt nam lưà bịp trí thức và nhân dân VN hàng nưả thế kỹ .
    Nay bạn thấy tận mắt CSVN vẫn còn tiếp tục lưà bịp : Đãng viên CSVN đã làm kinh danh tư bãn mà vẫn gọi là Định huớng XHCN (CS), lấy danh hiệu là XHCN (CS).

    Xin hõi bạn : Bịp bợm trơ trẽn như vậy thì AI CÒN TIN để nói chuyện cái gọi là HOÀ HỢP ,THUƠNG YÊU”?
    Sao bạn không kêu gọi đãng và nhà nuớc cuả bạn dẹp bỏ bộ máy cai trị từng gây hận thù , nay đàn áp , cuớp bóc , tay sai ngoại bang ĐI RA CHỖ KHÁC, nhuờng chỗ cho các tầng lớp nhân dân thực hiện “hoà hợp và yêu thương?”
    Đúng không ?

  4. Tôi là một nữ sinh đang học dại học tại Mỹ, ba tôi trước cũng là sỹ quan quân lực Việt nam Cộng hoà là bạn của bac Nguyễn Cao Kỳ. Ba tôi và bác Kỹ cùng rất nhiều người khác là sỹ quan cao cấp quân đội VNCH mà đâu có bao giờ xúc phạm đến Bác Hồ hay Đại tướng Võ Nguyên Giáp hay bất kỳ ai đâu. Tôi vừa qua cung ba má tôi về Sài gòn thăm quê hương và ra Hà nội chơi mấy ngày cùng ra vịnh Hạ long. Chính mắt tôi thấy ngày ngày dòng người xếp hàng yên lặng trật tự để viếng Bác hồ, nhiều người nhìn thấy Bác đã khóc, cảm động. Ba tôi và chúng tôi cũng vậy! Ba tôi nói, ông Hồ là người yêu nước chứ không có tâm yêu chủ nghĩa cộng sản như nhiều người nói. Ông xây đất nước đầu tiên là Việt nam dân chủ cộng hoà và Đảng của ông là Đảng Lao động. chính sau này những học trò không tuân theo lời của ông đã biến nhà nước và đảng đó ra Đảng cộng sản.
    Riêng tôi, dù không biết Bác Hồ ra sao nhưng nhìn dòng người tôn kính ông, xếp hàng viếng thăm thành kính và tự nguyện đó đã đủ cho thấy các anh đã nói bậy, nói không đúng sự thật về côn người được nhân dân tôn kính này rồi.
    Tôi đã đi lên chùa cùng nội tôi từ bé, các thầy thường dạy tôi là không được nói dối,
    bịa đặt vu khống cho người, láo hỗn với người cao tuổi, bất kính với người có công với đất nước là tội thiệt khẩu, chết là đoạ vào địa ngục bị ma vương kéo lưỡi cắt xẻo đó. Các anh không nên làm vậy vì như thế không chỉ tổn đức mà tạo nghiệp ác cho mình, nên tránh.
    Còn nay nhiều chú bác trước đây là sỹ quan cao vậy mà về Việt nam có sao đâu? Các anh nếu không có tâm làm hại đất nước thì về cũng không hề bị bắt như nhiều người đã nói bậy. Các anh đừng nghe ông Bùi Tín, ông ta là bất mãn vì không được thăng chức mà thôi. Tôi chân thành khuyên hai anh hãy hồi đầu đừng nên phá báo nói bậy như những ngày qua.
    Thân ái:
    Dương Thi Thiều Hoa

  5. Toi da doc nhieu bai bao va cho rang nguoi Viet ta nhieu long san han qua, can phai got bo va hay yeu quy nhau, noi loi diu dang, de nghe, cham lo cho dat nuoc, khong nen chui boi, mat thi nhau nhu vay. Toi cho rang day la bai bao hay nhat nam qua da dang tren bao nay. Xin moi ban doc theo doi:

    That la mot bai vier ly thu va de lai khoang san rong cho moi nguoi suy ngam theo y rieng cua minh ve dat nuoc Viet nam nay.
    Nguoi Yeu Nuoc
    Diễn đàn 30 tháng tư:
    Người Việt ở Hải ngoại nghĩ về tướng Nguyễn Cao Kỳ thức thời hay khôn lỏi?
    Cuộc chiến tranh đã đi qua 35 năm nhưng đề tài về cuộc chiến này hình như vẫn dài dòng và không có kết thúc, mặc dù người thắng và người thua đều khẳng định muốn vứt bỏ nó phía sau lưng nhưng trong thực tế không hề dễ dàng như thế. Chỉ nói riêng về đề tài ông tướng Nguyễn Cao Kỳ, vị phó tổng thống Việt nam cộng hoà một thời oai phong có tiếng mà đến nay khi nhận định về ông ta mỗi người ở một góc độ nhìn khác nhau cũng đánh giá khác nhau về ông ta, thậm chí còn trái ngược nhau. Ví dụ: khi cuộc chiến đang lúc gay go quyết liệt nhất là năm 1972, máy bay Mỹ bị phòng không Bắc Việt bắn hạ nhiều, phi công bị bắt đầy Hiltơn-Hà nội, khiến Mỹ càng khó khăn hơn trong quyết định có ký hiệp định hoà bình với Hà nội hay không? Đặc biệt trong các phi công bị bắt, có nhiều người là con cái của các nhân vật chóp bu giầu có của chính phủ Mỹ, Tướng Kỳ đã đoán biết được Mỹ nếu không hoá giải được chuyện này tất sẽ phải bị sức ép đi đến ký hiệp ước này, bỏ rơi Việt nam Cộng hoà nên ông đã đích danh lập phương án táo bạo là nhẩy dù xuống Sơn Tây Hà nội, nơi đó chính là quê hương ông để giải thoát họ. Nhưng tình báo Bắc Việt không hiểu sao đã biết trước và di chuyển số phi công bị nhốt tại đây đi trước đó có 2 ngày cho nên quân nhẩy dù xuống Hà Tây mà không thành công sau vài phút đọ súng, họ đã phải rút nhanh mà không đạt được ý nguyện. Đúng như dự đoán của ông, hiệp định Paris về Việt nam đã được ký kết, bất chấp sự phản đối của chính thể Việt nam Cộng hoà.

    Nhân viên sứ quán Mỹ tháo chạy khỏi Sài Gòn.
    Lại nữa, khi Mỹ nhanh chóng rút quân khỏi Sài gòn, nhiều tướng tá Việt nam Cộng hoà hoang mang thì ông Kỳ và Thiệu vẫn to miệng nói se sẽ đập tan Cộng sản ở mọi nơi mọi chỗ và khi Việt cộng tấn công Ban-mê-thuột thì ông Thiệu trốn trước và cũng như đồng thời chỉ sau đó ít giờ ông Kỳ cũng cao chạy xa bay trong khi ông vẫn để lại bài diễn văn cho đài sài gòn đăng tải lời tuyên bố đánh thép của ông Ông kêu gọi những người lính Việt nam Cộng hoà chiến đấu đến giọt máu cuối cùng vì nền tự do và vì nhà nước Việt nam cộng hoà. Tất cả tướng tá mãi hai ngày sau, lúc đó người ta mới biết thực về chuyện hai ông này đã cao chạy xa bay, giờ ai có phương tiện gì thì đưa vợ con và người thân ra đi nhưng

    Thiếu úy Ken Prater (sĩ quan vận chuyển của USS Midway), Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Tướng Ngô Quang Trưởng trên chiến hạm U.S.S. Midway (29/04/1975) Nguồn: midwaysailor.com/Ảnh Hải quân Hoa Kỳ.

    biết bao người mải chiến đấu đã không còn phương tiện gì để chạy nữa, súng ống, đạn dược và biết bao phương tiện vũ khí vất đầy đường và Sài gòn dinh luỹ cuối cùng đã thất thủ. Người đau khổ nhất vẫn là người không đi kịp và cái giá họ trả là những ngài dài học tập trong các trại cải huấn để rồi 10 năm sau mới lần lượt ra đi làm lại cuộc đời ở bên kia đại dương xa lạ.

    Những người bỏ chạy sau cùng khỏi Sài gòn 1975.
    ( báo Người Lao Động)
    Người ta tự hỏi, ông Kỳ sao nói và làm trái ngược nhau? Và nhiều người đã cho rằng nếu không có lời kêu gọi tướng lính tự thủ, họ nếu không chiến đấu cầm cự với Cộng sản đang tiến thần tốc vào Sài gòn thì ông Thiệu và ông Kỳ cùng rất nhiều vị tướng tá làm sao trốn chạy an toàn cùng với vợ con và người thân của mình ra nước ngoài?

    Những người chạy không kịp đã phải ra trình diện và sau đó vào trại cải tạo.
    Lại nữa, nay khi nhiều người vẫn bàng hoàng tức giận cộng sản thì ông Kỳ và nhiều vị tướng tá khi thấy Mỹ bình thường hoá bang giao với Hà nội, họ đã về nuớc và tậu nhà, đầu tư làm ăn lớn. Người Quán Sát có dịp được một người bạn có dịp về thăm đất nước, được một người bạn nhân dịp đưa lên thăm Hà nội khi đi qua Chí Linh Hải dương đã giới thiệu về sân Golf hiện đại nhất mà ông Kỳ có cổ phần rất lớn tại Chí linh, Sao đỏ tỉnh Hải dương. Nếu có ai đi từ Hạ long trên đường qua Phả lại thì thấy rõ sân Golf này không thua kém bất kỳ sân nào tại Mỹ. Một người bạn khác ở Hạ long đã kể cho Người Quán Sát rằng, ông Kỳ còn đầu tư vào bãi biển ở Vân đồn bên bờ Bái tử long, Cẩm Phả và cả nhiều dự án ở phía nam. Như vậy, bất kỳ kế hoạch gì của Mỹ bang giao làm ăn với Hà nội thì ông đều có mặt đồng thời luôn và đều thành công. Nay ông được nhà nước Việt nam đánh giá rất cao và tặng bằng khen về tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc. Bài phát biểu của ông mới đây đăng trên báo Tuần tin tức và Vietnamnet đã khiến nhiều người dân trong nước đãcho ông là thức thời, có trách nhiệm với đất nước nhưng với các chiến hữu trước đây của ông ở hải ngoại thì cho ông là kẻ khôn lỏi, chạy làng bỏ bạn. Cách lý giải của ông Kỳ là ngồi đó khóc có ích gì, đất nước đã thống nhất, chiến tranh đã qua đi 35 năm thì sao không hoà hợp, hoà giải? Người Mỹ kẻ tử thù của Việt nbam cũng đã bắt tay hoà giải, bình thường hoá, thậm chí còn tiến tới quan hệ toàn diện và chiến lược thì tại sao chúng ta đều là người Việt lại không thể đi đến xoá bỏ hận thù, hoà giải dân tộc?

    Ông NCK nhận bằng khen của Mặt trận Tổ Quốc, ảnh TuanVietnam
    Những lý do, những lý luận và thực tế mà ông Nguyễn Cao Kỳ đã làm và bao giờ ông cũng đi những bước trước đều làm cho người Việt ở Hoa kỳ hay các nước thứ ba choáng và đều như đi bước trước nhanh vội không đợi chờ và cũng dứt khoát. Hình như ông chẳng để ý đến những ý kiến, những lời tức giận chửi của những người chiến hữu của ông xưa, ông đều để lại phía sau lưng mà ung dung ngồi nhấm nháp ly ca phê Ban mê Thuột ở Hà nội hay ăn bánh xèo ở một nhà hàng Huế hoặc uống ly cô-nhắc ở Sài gòn. Theo sau ông có ông Phạm Duy, cựu bộ trưởng bộ Văn hoá thông tin Việt nam Cộng hoà xưa, với cả một chương trình biểu diễn rất lớn và thành công vang dội tại nhà hát thành phố Hà nội. Nhiều người ở nước ngoài đã về Việt nam nhiều lần, tận mắt chứng kiến và kể những chuyện rất thực này nhiều người được kể cho nghe mà vẫn không tin hay không muốn nghe thì không biết, nhưng nếu ai không tin thì hãy về xem cho tận mắt, còn không muốn tin thì biết nói làm sao? Chắc là khi ai động vào vết thương thì đau không muốn nghe nó dù nó là thật. Giờ cũng nên để bạn đọc nghe vài lời từ chính ông Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp nói ra qua trả lời câu hỏi của phóng viên Vietnanet:
    “ PV: Ông có thừa nhận một thực tế là chúng ta có thể xóa bỏ hận thù để bắt tay làm bạn với những nước đã từng xâm chiếm chúng ta, vậy mà việc hàn gắn người Việt với người Việt với nhau xem ra lại mất nhiều thời gian hơn thế?
    NCK: Theo tôi, cả hai phía vẫn có thiểu số còn quá nặng về dĩ vãng, chưa có tầm nhìn về tương lai. Một người không biết nhìn về tương lai, thì họ chỉ còn sống và ôm dĩ vãng. Mà như vậy thì tư duy của họ vẫn mãi bị ám ảnh bởi những chuyện hận thù, chủ nghĩa hay phe phái. Chúng ta phải thực tế nhìn vào điều này: muốn hòa hợp thì rất không nên nói nhiều mà phải làm.
    PV: Liệu có cách gì để chúng ta không còn phải mất thêm thời gian cho việc hòa hợp, hàn gắn với đa số những người Việt ở bên ngoài đất nước?

    NCK: Chuyện quốc gia cũng giống như trong một gia đình. Những việc chung thì cần đánh tiếng để mọi người xúm tay vào làm. Tôi nghĩ đối với đa số người Việt ở bên ngoài thì sẵn lòng góp sức cùng trong nước. Với đất nước có gì phải ngại ngần. Vấn đề là họ cần được thông tin đầy đủ về tình hình và những nhu cầu thực sự mà nhà nước đang cần sự góp sức của họ. Hòa hợp dân tộc sẽ tập hợp được sức mạnh. Cứ đặt lợi ích dân tộc lên trên thì chúng ta tự khắc biết phải ứng xử thế nào cho hợp lẽ. Nhưng khi đã kêu gọi thì cũng phải tạo điều kiện thoải mái cho người ta về. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau.
    PV: Theo ông, 35 năm có quá dài cho việc hòa hợp dân tộc, hàn gắn lòng người?
    NCK: Để tìm được sự đồng thuận trong những vấn đề nhạy cảm như vậy thường không mấy dễ dàng. Tuy nhiên cứ đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu thì ta sẽ biết phải làm thế nào tốt nhất. Việt Nam bây giờ đã là một rồi. Đứng trước tương lai của đất nước, chúng ta phải sớm xóa bỏ hận thù và đoàn kết lại. Cuộc chiến tranh khốc liệt đã khiến cả triệu người ở cả hai bên chiến tuyến hy sinh, thì đó là một chuỗi oán thù chồng chất, không phải chỉ ở một phía. Chỉ có hòa hợp dân tộc mới giải quyết được vấn đề.
    Sân khấu chính trị và dư luận hai phía vẫn khác biệt nhau nhưng không phải là Mỹ và Việt nam mà là người Việt với nhau, vết sẹo chiến tranh nhiều khi đã lên ra non lại có thể bị cào ra toé máu khó lành. Ai là người yêu nước? Ai là người bán nước? Ai thắng, ai thua? và người ta tự dưng quyên rằng người gây ra chiến tranh tại đất nước này là ai? Mỹ và Chủ nghĩa Cộng sản có phải là tác giả của nó hay không? Nay họ ngồi lại với nhau, đi lại thân tình như bạn thân, còn hai người Việt làm công ăn lương cho họ thì tuy đã bỏ súng, vất áo mà vẫn chĩa tay, giơ nắm đấm và chửi rủa nhau như những ngày nào. Vậy nay là hoà bình hay vẫn chiến tranh? Sân khấu không có, kịch bản đã bị bỏ xó mà các diễn viên vẫn cứ múa may la hét như thường, còn hai người gây ra cuộc chiến thì mỉn cười cho rằng, những con gà chọi này vẫn còn say máu dù không có võ đài cho chúng nữa. Điều muốn nói sau cùng để lại vẫn là ông Nguyễn Cao Kỳ thức thời hay khôn lỏi đây? Nhưng sau nhiều đêm thức dậy chúng ta cũng phải tự hỏi mình rằng chẳng nhẽ cứ để mãi cảnh kẻ khóc người cười mãi sao? Một thế hệ đã khóc đã cười như điên như dại, nay có nên để con cháu chúng ta khóc lại cười như thế đến khôn cùng. Cha ông ta có câu: ” không ai nắm tay,lâu ngày đến sáng”, có lẽ nhận thức được sớm điều đó mà ông Nguyễn Cao Kỳ, ông Phạm Duy và nhiều người khác đã đi trước một bước để khỏi nắm tay, khỏi khóc than mãi chăng? Ba mươi lăm năm ấy biết bao nước mắt rơi vì sung sướng hạnh phúc hân hoan khi đất nước về một mối và cũng có biển nước mắt đầu buồn bởi chia ly và tủi hờn. Nhưng khóc mãi cũng phải cạn, mưa mãi cũng đến lúc trời tạnh đó là quy luật của thiên nhiên và của con người. Vậy bao giờ hai bàn tay từ hai người con đất Việt có thể nắm tay nhau trong hoà hợp và yêu thương?
    Hà nội, ngày 25 tháng 4 năm 2010.
    Nguyễn Quốc Việt.

Phản hồi