Trung Quốc, mối lo lớn nhất của người dân Việt Nam?
Trung tuần tháng bảy (14/7), trung tâm nghiên cứu Mỹ Pew Research Center đã công bố kết quả thăm dò dư luận thường niên Global Attitudes Project tại một số quốc gia trên thế giới, trong đó có 12 nước thuộc châu Á-Thái Bình Dương bao gồm : Úc, Ấn Độ, Pakistan, Đại Hàn, Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Trước sự tăng trưởng vượt bậc về kinh tế và quân sự của Trung Quốc, kết quả của cuộc thăm dò đã cho thấy mối lo ngại của người dân các quốc gia trong khu vực đối với Bắc Kinh. Tư tưởng Đại Hán thông qua các chính sách ngoại giao ngang ngược, cụ thể các vấn đề tranh chấp chủ quyền hay yêu sách lãnh thổ « đường chín đoạn » trên Biển Đông, đã khiến cho công luận tại các quốc gia trong vùng xem Trung Quốc là mối đe doạ lớn nhất. Tại Việt Nam, có 74% những người được hỏi có cái nhìn « thiếu thiện chí » và có đến 60% bày tỏ sự « cực kỳ quan ngại » về mối quan hệ song phương đối với Trung Quốc.
Mối lo trên hoàn toàn có cơ sở nếu dựa vào những sự kiện đã và đang diễn ra từ vài năm qua, nhất là kể từ khi Trung Quốc mang giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (5/2014). Các cơ quan truyền thông CSVN cũng đã không ngại đưa tin kết quả cuộc thăm dò dư luận của Pew Research Center ngay từ năm 2014, qua đó họ có chủ đích hướng cái nhìn của công luận vào một vấn đề duy nhất, đó là Trung Quốc.
Nhưng những động thái phản ứng một cách yếu ớt, không dám lên án Trung Quốc trong các lần vi phạm chủ quyền lãnh hải cũng như các cuộc tấn công, giết chết ngư dân Việt Nam trong vùng biển quốc gia những năm gần đây cho thấy, trên thực tế, đường lối ngoại giao của Hà Nội đối với Bắc Kinh thiếu một lập trường cương quyết, cứng rắn và minh bạch. Sự mâu thuẫn trong chính bộ máy cầm quyền, bị nhóm thân Trung Quốc lũng đoạn, đã khiến lợi ích quốc gia bị chà đạp. Đảng CSVN luôn cố tình, bằng mọi cách duy trì độc quyền lãnh đạo đất nước, tìm cách bảo vệ sự tồn tại của chế độ thông qua sự bảo trợ của Trung Quốc. Chính vì sự đấu đá trong nội bộ chóp bu nên thái độ mâu thuẫn của nhà nước CSVN là điều không thể tránh trong cuộc tranh chấp tại Biển Đông. Một mặt cho phép báo chí truyền thông đưa tin, lên án trong chừng mực, mặt khác, CSVN lại âm thầm điều đình, thương lượng trong bí mật với Trung Quốc, thậm chí đàn áp những tiếng nói yêu nước. Họ cố tình gợi lên nước cờ « bài Trung » trong lòng một xã hội vốn chịu nhiều bất mãn đối với tính chính danh của một chế độ độc tài, độc đảng. Căm phẫn Trung Quốc hiếu chiến, đoàn kết dưới ngọn cờ của đảng, của chế độ, qua đó tiếp tục quên đi những đòi hỏi bức bách của thời đại, của một xã hội tự do dân chủ…đó mới chính là nước cờ thâm hiểm của nhà cầm quyền.
Cần phải sáng suốt để nhận thức một cách rõ ràng rằng chính thái độ nhu nhược, yếu kém của chế độ đã đẩy đưa đất nước vào một sự bế tắc trầm trọng, không lối thoát như ngày nay. Công hàm 1958, chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, Hội nghị Thành Đô 1990, Hoàng Sa, Trường Sa và còn bao nhiêu bí mật bị bưng bít bởi CSVN, đã đẩy đất nước vào thế « xong chuyện » trên phương diện ngoại giao với đối phương.
Sự thất bại về ý thức hệ, sự bế tắc về đường lối chính trị và một nền kinh tế yếu kém, chụp giật đã đem lại kết quả tất yếu là một xã hội xuống cấp trầm trọng về mọi phương diện từ giáo dục, khoa học đến đạo đức. Đó là những sai lầm không thể bào chữa của một chế độ chỉ biết duy trì và củng cố sự tồn tại bằng quyền lực. Trung Quốc có khiêu khích, ngạo mạn, xem thường Việt Nam cũng chính do CSVN đã tạo điều kiện cho đối phương. Việc Philippines đưa Trung Quốc ra Toà án Trọng tài Thường trực (The Permanent Court of Arbitration – PCA) của Liên Hiệp Quốc trong tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông là giải pháp duy nhất hợp lý chiếu theo Công ước LHQ về Luật Biển. Trong khi đó, chính phủ Việt Nam vẫn lưỡng lự như đang thăm dò thái độ của Bắc Kinh. Chính thái độ cương quyết của nhà cầm quyền Philippines đã khiến Trung Quốc mời nước này quay trở lại cuộc đàm phán song phương, qua đó cho thấy tính thiếu hợp pháp của những đòi hỏi, yêu sách của họ. Ngược lại, các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn im lặng, quan sát và thậm chí còn bị Bắc Kinh gọi sang để uốn nắn, dạy dỗ…
Trung Quốc chắc chắn là một mối lo lớn đối với chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Nhưng nếu « ngây thơ », chỉ tin vào những lời tuyên truyền của bộ máy truyền thông trong nước mà quên đi nguyên nhân trực tiếp của mọi khủng hoảng tại Việt Nam đều do chính đảng CS gây ra, tức là gián tiếp củng cố cho sự tồn tại của một thể chế độc tài, tham nhũng, thối nát. Chỉ có một nhà nước mạnh, kỷ cương, dân chủ và được các đồng minh tôn trọng thì khi đó mọi tranh chấp với Trung Quốc mới có thể được giải quyết một cách minh bạch và ôn hoà dựa trên Luật pháp Quốc tế.
Nhật Bản, Đại Hàn, Philippines là những ví dụ điển hình.
Thế cho nên, tập trung mọi chỉ trích hay quan ngại về Trung Quốc chỉ là một mặt nhỏ của vấn đề. Cái cốt lõi mang tính sống chính là sự tồn tại không hợp pháp của một chế độ đang giam cầm cả dân tộc trong sự nghèo nàn, lạc hậu. Một chế độ « Đảng trị », đã và đang tước bỏ, cưỡng đoạt mọi khát vọng tự do, dân chủ của người dân.
Đó mới chính là mối lo ngại lớn nhất, một vấn nạn đau thương nhất của dân tộc Việt Nam !
Lâm Bình Duy Nhiên, 21/7/2015
Tại hoạ lớn nhất của người Việt nam không phải Trung quốc mà là đảng cộng sản Việt nam.
TQ có phải là lực cản nguy hiểm nhất cho nền dân chủ tại VN hôm nay ?
VN có độc lập từ năm 1945 nhưng vẫn thiếu vắng dân chủ từ 1945 đến 1954 vì còn nội chiến Quốc , Cộng . Sau 1954 đến 1975 là giai đoạn nửa Miền Nam dân chủ phôi thai , nửa Miền Bắc tiếp tục lệ thuộc TQ , nô dịch cho TQ . Sinh mệnh của người Việt chết cho Thống nhất GPMN là do chỉ thị từ TQ ( Lê Duẩn đã phát biểu : Chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô và TQ ) !
Rồi từ năm 1975 cho đến tận hôm nay , sau khi chiếm được MN , một VN được ĐCSVN gọi là Độc Lập Thống Nhất , trước thật tế có Thống nhất nhưng không có Độc Lập . Vì ĐCSVN vẫn bị Tàu khống chế , xâm lấn và thống trị .
Điều này cho thấy , TQ chỉ nguy hiểm nhất về xâm lược , phát xuất từ mộng Bành trướng Bá quyền . Đây là một nguy hiểm truyền thừa , truyền kiếp cho dân tộc Việt .
Nhưng TQ không phải là lực cản nguy hiểm dân chủ cho VN . Lực cản nguy hiểm nhất chính là ĐCSVN . Một khi ĐCSVN còn tồn tại thì dân tộc Việt khó cất bước tiến lên con đường dân chủ . Dân chủ chỉ là chiếc bánh vẽ để duy trì và bảo vệ Đảng .
Tiếc thay ! Có rất nhiều Đảng Viên tỉnh ngộ về tội ác vì đường lối chính sách của Đảng gây ra cho dân tộc từ năm 1954 đến tận hôm nay . Đó là nô lệ cho Tàu và độc tài cai trị , đàn áp nhân dân . Nhưng đảng viên tỉnh ngộ cũng như tuyệt đại đa số nhân dân chỉ thấy cái ác của Đảng , cái lừa bịp dân chủ của Đảng , lại không dám phá vỡ cái khiên , cái bình phong vĩ đại che chắn cho Đảng . Cho đến tận hôm nay Đảng CSVN vẫn xử dụng nó để ẩn náu khi yếu thế , khi bị vạch mặt nô dịch , hèn nhát , bán nước và tham quan ô lại ?
Cái bình phong vĩ đại chính là hình ảnh ” Vị cha già dân tộc kính Yêu HCM ! ” , cái hình ảnh này nó ăn sâu vào tâm huyết của tuyệt đại bao thế hệ tuổi trẻ lớn khôn được giáo dục tuyên truyền bởi chế độ csvn . Quy trách tội lỗi cho ĐẢNG thì được nhưng HCM vẫn phải được tôn thờ không được xúc phạm !
Hỏi rằng ! Ai đã đẻ ra cái Đảng này , nuôi Đảng khôn lớn bằng cách đi xin xỏ vay mượn LX , TQ . Lập thệ hứa hẹn đưa VN vào Đại Đồng Thế Giới….? Ai đã mang cái chủ thuyết Mác xít ngoại bang về để dùng dân tộc như một thí điểm để lãnh đạo ?
Không chính Bác Hồ thì chẳng còn ai khác . Chính vị Cha Già Dân Tộc mà đa số Đảng Viên và nhân dân Việt còn tôn kính , không dám nhìn nhận , là nguyên nhân mang đến mọi bất hạnh đớn đau , chết chóc và đoạ đày cho dân tộc . Những lời Bác tuyên bố hoàn toàn phù hợp với đạo lý nhưng hành động thì trái ngược với truyền thống dân tộc ….!
Chính Bác tuyên bố Dân chủ nhưng hành động chỉ thị phản dân chủ . Chính Bác tuyên bố hoà bình nhưng bám chân TQ tổ chức Chiến tranh đánh MN . Chính Bác tuyên bố cán bộ là đầy tớ của dân nhưng âm thầm cho thuộc cấp tuyên truyền xây dựng Bác thành hình ảnh Lãnh tụ vĩ đại với danh hiệu Bác Hồ vị Cha già của dân tộc mà không một lời chấn chỉnh . Chính Bác ca tụng Mác , Lê nin , Mao trạch Đông nên mới có một thảm cảnh VNXHCN lệ thuộc TQ , suy thoái về đạo đức , và tụt hậu trước thế giới như ngày nay .
Như vậy riêng với thành phần Đảng viên thức tỉnh như Cù huy hà Vũ , Điếu Cày ..vv.., có dám buông bỏ cái tinh thần suy tôn lãnh tụ mù quáng , như những người Miền Nam đồng trang lứa đã thẳng thừng phê phán những cấp lãnh đạo vô tài bất tướng của mình , mang đến tác hại thống khổ cho nhân dân ?
Toàn thể người Việt không nên đơn giản cho rằng ĐCSVN là vật cản duy nhất cho con đường dân chủ . Chính hình ảnh Bác Hồ vị cha già dân tộc kính yêu , mang nặng tính suy tôn lãnh tụ ăn sâu vào tâm khảm của từng người , mới chính là lực cản nguy hiểm nhất cho con đường đấu tranh dân chủ cho VN hôm nay lẫn mai sau .
Không nguỵ biện nào nguy hiểm cho dân chủ bằng nguỵ biện ” ĐẢNG có thể sai nhưng Bác hồ luôn luôn đúng , cần phải được tôn thờ kính yêu ” . Nên khẳng định rằng Bác Hồ là nguồn gốc của mọi tội lỗi . Nếu ĐCSVN là chính phạm thì Bác phải là tòng phạm . Nhưng Bác là người lập phương án , trực tiếp chỉ huy điều động , thì chắc chắn lịch sử tương lai của dân tộc không thể vì bất cứ một lý do gì ( suốt cuộc đời hy sinh vì dân tộc ) mà tha tội chính phạm gây nên thảm cảnh tang thương cho dân tộc VN khi còn tại thế , lại còn phương hại kế tục lâu dài cho dân tộc sau khi đã mất đi .
Mạn phép ông/bà cho em xin vài hàng, trước lạ rồi sẽ quen…dần.
Chỉ khi “họ” đủ trí khôn và can đảm để hiểu rằng:
1. Cộng sản không hề là cứú tinh của dân tộc. Dẫn chứng bằng lý thuyết của cộng sản, bằng thực tế của xã hội ở những quốc gia cộng sản. Chúng tàn hại mọi thành phần, duy nhất chú trọng vào giai cấp vô sản làm nòng cốt khiến cho kinh tế tan hoang, giáo dục suy đồi, lòng người hoảng loạn, đạo đức băng hoại. Duy nhất và chỉ duy nhất trong thời kỳ cận đại, cộng sản là một chủ nghĩa bắt đầu bằng việc giết người của dân tộc mình và giết một cách có hệ thống. Nó là lời kết luận của the History channel thay cho lời buộc tội của cả trăm triệu nạn nhân của cộng sản trên thế giới.
2. Hồ Chí Minh là một người cộng sản. Thành quả cuối cùng mà người cộng sản phải đi đến là thế giới đại đồng. “Giải phóng dân tộc” chỉ là một giai đoạn để tìm kiếm sự tham gia của mọi giới trong hoàn cảnh của dân tộc đó đang bị thực dân đô hộ. Bộ mặt thật của chiêu bài này chính là sự đổi ngôi giữa những thằng ăn cướp nói tiếng Pháp và đám lưu manh mất nhân tính nói tiếng Việt. Khốn nạn nhất là nước Việt dưới sự cai trị của cộng sản còn thua cả chế độ thực dân về mọi mặt. Không ai có thể phủ nhận chính sách phân biệt thành phần đến 3 đời, chưa kể những người ái quốc có tên tuổi, bỏ công bỏ của đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập cũng bị Hồ Chí Minh và đồng bọn giết sạch. Dân tộc ở đâu trong lòng của bọn cộng sản?
3. Về tư cách cá nhân, Hồ Chí Minh là một tên lưu manh vô liêm sĩ khi mượn danh, mượn thơ của người khác để tự tạo tên tuổi cho mình. Rồi tự ca ngợi mình bằng những tên giả trên báo chí, sách vở mà bất cứ một người bình thường có ăn học nào cũng tự biết thẹn và xem đó là hành động thô bỉ, hạ cấp. Trong vấn đề tình cảm thì Hồ Chí Minh quan hệ tình ái loạn xạ, cố giấu nhẹm nhưng cuối cùng cũng bị phanh phui trước công luận. Dã man nhất là hy sinh cả người tình chuyên phục vụ sinh lý cho hắn ta, Nông Thị Xuân và ngoảnh mặt với đứa con lạc loài, hệ lụy của việc hoang dâm bất chính.
4. Sòng phẳng mà nói rằng:
Đám ăn cướp nói tiếng Pháp không phân biệt thành phần 3 đời của người Việt Nam. Dân Việt Nam chưa phải ăn khoai, nói láo như lúc sống với tụi vẹm. Dưới thời Pháp thuộc, người Việt Nam còn có ý thức của đúng và sai. Họ vẫn biết người Việt Nam là một cho dù về mặt địa lý đã bị phân ba. Bọn cộng sản chia rẽ, tàn hại người Việt Nam ngay trong mỗi gia đình, ngay trong làng xóm. Há chẳng phải vợ tố chồng, con tố cha, hàng xóm dòm ngó, vu khống lẫn nhau để đạt chỉ tiêu của Hồ và đồng bọn hay sao? cùng là đồng bào mà sao lại phải sợ hải , lại phải thù ghét lẫn nhau, sẳn sàng làm chứng gian để mình sống?
Vậy thì Hồ Chí Minh là tội đồ hay ân nhân của dân tộc Việt Nam khi chính hắn là kẻ mang về cái chủ nghĩa mà nhân loại nguyền rũa, khi chính hắn đã dẫn đến cái hệ lụy: một nước Việt nam phá sản về mọi mặt, chính hắn là thằng ăn cắp thơ văn, tên tuổi của người khác, là tên buôn người: bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, là kẻ sát nhân: giết người ái quốc- bà Nguyễn Thị Năm, hô lý Nông Thị Xuân cùng nhiều người khác. Hãy trả sự thật về đúng nguyên bản của nó, xin thưa với các ông/bà “cách mạng lão thành” bốc đồng phản tĩnh. Không có Hồ thì không có cái công hàm 1958, không có xương trắng Trường Sơn, không thảm cảnh tù đày, đói rách, không đĩ điếm tận trời tây và gần nhất là dân bắc kỳ của các ông/bà không lưu manh, tráo trở hạ tiện và bị khinh bỉ như thể bây giờ. Nền độc lập của Hồ vĩ đại thế ru?
Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng?
Nhạc quốc ca của đế quốc Tàu cộng trỗi lên ngay ở bộ Quốc Phòng Việt Nam chào đón tên Phùng quốc Thanh tay sai trở về :
Nhạc Trung Quốc đã vào Bộ Quốc phòng Việt Nam?
VOA- 30/7/2015
Hôm 27/7, trong một chương trình nghệ thuật quy tụ các quan chức đứng đầu nhà nước Việt Nam có tên “Khát vọng đoàn tụ”, diễn ra tại Bộ Quốc Phòng, được trực tiếp truyền hình trong nước như một cách giới thiệu sự có mặt của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh sau một thời gian vắng bóng, ngay khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên sân khấu để đọc diễn văn khai mạc thì một đoạn nhạc được phát lên. Đoạn nhạc này ngay sau đó được người dân Việt Nam phát hiện là bài hát “Ca ngợi tổ quốc”, một bài hát được nhiều người xem là “quốc ca thứ hai” của Trung Quốc. VOA phỏng vấn ông Phan Tất Thành, một cựu chiến binh đã từng có một thời gian được học tập, nuôi dạy tại Quế Lâm, Trung Quốc, cũng là người đầu tiên phát hiện ra “sự cố” này.
“Khát vọng đoàn tụ” là một chương trình nghệ thuật lớn được tổ chức nhân ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7. Chương trình này càng thu hút sự chú ý của dư luận khi được đồng loạt loan báo trên các kênh truyền thông của nhà nước trước đó với sự xuất hiện trở lại của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, người đột nhiên vắng bóng trong một thời gian khiến gây ra nhiều tin đồn về tình trạng sức khỏe của ông cũng như khả năng ông đã qua đời nhưng không được tiết lộ.
Chương trình quy tụ nhiều quan chức hàng đầu Việt Nam, gồm Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam…và gần 500 đại biểu là lãnh đạo Đảng, Nhà nước và được phát song trực tiếp trên Đài Truyền hình Việt Nam vào tối ngày 27/7.
Ngay khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên sân khấu để đọc diễn văn khai mạc thì một đoạn nhạc được phát lên.
Đoạn nhạc này ngay sau đó được người dân Việt Nam phát hiện là bài hát “Ca ngợi tổ quốc”, một bài hát được xem là “quốc ca thứ hai” của Trung Quốc. Bài hát này do ông Vương Tân, người Vô Tích, Giang Tô, Trung Quốc, sáng tác vào tháng 9/1950.
Vậy là để làm giảm đi làn sóng chống đối Đảng ngày càng dâng cao của người Việt trong và ngoài nước, trong số những nước cờ mà bọn chúng xử dụng là:
Tác giả Trần Trung Đạo: Mục đích hàng đầu của Nguyễn Phú Trọng đến Phòng Bầu dục Nhà Trắng là cốt để chứng tỏ cho thế giới và nhất là nhân dân Việt Nam thấy Mỹ đã thừa nhận tính chính danh của đảng Cộng sản .
Tác giả Lâm Bình Duy Nhiên : Một mặt cho phép báo chí truyền thông đưa tin, lên án trong chừng mực, mặt khác, CSVN lại âm thầm điều đình, thương lượng trong bí mật với Trung Quốc, thậm chí đàn áp những tiếng nói yêu nước. Họ cố tình gợi lên nước cờ « bài Trung » trong lòng một xã hội vốn chịu nhiều bất mãn đối với tính chính danh của một chế độ độc tài, độc đảng. Căm phẫn Trung Quốc hiếu chiến, đoàn kết dưới ngọn cờ của đảng, của chế độ, qua đó tiếp tục quên đi những đòi hỏi bức bách của thời đại, của một xã hội tự do dân chủ…đó mới chính là nước cờ thâm hiểm của nhà cầm quyền.