WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Trương Tấn Sang làm gì ở Mỹ?

 

2-7

Trương Tấn Sang thăm Trung Quốc, tháng 6/2013

Cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang vào ngày 25/07/2013 hứa hẹn một sự đón tiếp “nồng nhiệt” của cộng đồng người Việt tự do ở Mỹ.

Các bang Texas, Georgia, Califonia, Washington DC, Maryland, Virginia, New Jersey, v.v. đã bắt đầu chuẩn bị cho cuộc biểu tình phản đối sự hiện diện tại Hoa Kỳ của nhà lãnh đạo nhà nước cộng sản Việt Nam.

Cuộc biểu tình, tất nhiên là sinh hoạt dân chủ bình thường tại Hoa Kỳ, thế nhưng có lẽ chẳng có nguyên thủ quốc gia nào như của Việt Nam, thăm chính thức Hoa Kỳ, nhưng vào Nhà Trắng bằng… cổng sau. Truờng hợp của Trương Tấn Sang chắc khó tránh được số phận dành cho Thủ tướng Phan Văn Khải hay Chủ tịch Nguyễn Minh Triết.

Chủ tịch nước của CHXHCN Việt Nam về thực chất chỉ là một chức vị mang tính đạo đức nhiều hơn, ít có thực quyền. Trừ giai đoạn Lê Đức Anh, vì sau lưng có hậu thuẫn của tình báo quân đội, vai trò của Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết trong cán cân quyền lực mờ nhạt. Trương Tấn Sang lên, muốn thay đổi nhưng lực bất tòng tâm. Thất bại thấy rõ trong cuộc xung đột, tranh giành ảnh hưởng với Nguyễn Tấn Dũng, tại Hội nghị 6 và Hội nghị 7 Trung ương Đảng, khiến Tư Sang chùng hẳn. Từ mối quan tâm đối nội, Tư Sang chuyển qua đối ngoại, là nơi còn khoảng trống chút ít cho vai trò của chủ tịch nước.

Tuy nhiên, việc Tư Sang qua thăm Trung Quốc vào tháng 6/2013, cũng chỉ để nhất quán hoá các thoả thuận với Bắc triều trước đó của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hồi tháng 10/2011 và của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 4/2010.

Thông báo chung, được nghi ngờ do Trung Quốc soạn thảo và đưa cho phía Việt Nam ký, một văn bản đầu hàng với 29 lần nhất trí, xác định chính sách thống nhất phò Tàu giữ đảng, bất chấp sự khiêu khích không ngừng về lãnh thổ của Trung Quốc, là tất cả những gì ông Tư Sang làm được trong chuyến đi này.

Ngay sau đó, trong tháng 7, Barack Obama chính thức mời Trương Tấn Sang qua Hoa Kỳ và phía Việt Nam nhận lời. Điều này có ý nghĩa gì?

Thông thường, một chuyến công du tới một quốc gia khác của nguyên thủ quốc gia được bàn bạc, sắp xếp qua con đường ngoại giao có khi cả năm hoặc vài năm. Chuyến đi có vẻ gấp gáp cho thấy Hoa Kỳ muốn sự có mặt của Trương Tấn Sang để chuyển giao thông điệp của mình, và qua Hoa Kỳ cũng là mong muốn của Việt Nam.

Thực ra, Tư Sang không có quyền hạn nào trong chính sách đối ngoại. Chính sách đối ngoại được chỉ đạo bởi Bộ Chính Trị, nơi mà Tư Sang không có đủ hậu thuẫn cần thiết. Tư Sang chỉ làm công việc giao liên. Cho nên Hoa Kỳ khó có thể hy vọng gì nhiều từ cá nhân Tư Sang.

Việt Nam đang rất cần Hoa Kỳ, đó là điều không thể chối cãi. Trước hết, Hoa Kỳ là một thị trường rất lớn, chỉ kém chút ít so với Liên minh Âu châu và Trung Quốc. Kể từ khi hai nước đã ký kết Hiệp định thương mại vào tháng 12/2001, giao thương buôn bán không ngừng tăng lên từ khoảng 1 tỷ USD tới 26 tỷ USD hiện nay, theo Văn phòng của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ. Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ năm 2010 đạt trên 11 tỷ đôla, dự kiến sẽ đạt mức kỷ lục 12,5 tỉ USD trong năm 2013.

Trong khi đó, Trung Quốc trở thành thị trường Việt Nam nhập siêu lớn nhất, giai đoạn 2002 – 2010, nhập siêu Việt Nam từ Trung Quốc tăng khoảng tám lần và không có dấu hiện suy giảm, ở mức 14,5 tỷ USD năm 2011 và 16,7 tỷ USD năm 2012. Đáng lo ngại là Uỷ ban châu Âu đã cảnh báo có tới 58% sản phẩm đồ chơi, hàng tiêu dùng, hàng dệt may Trung Quốc là hàng nhái và nguy hiểm đến sức khoẻ.

Ông Nguyễn Tấn Dũng đang lãnh đạo một nền kinh tế suy giảm bởi các công ty thuộc sở hữu nhà nước thua lỗ, một hệ thống ngân hàng với núi nợ xấu, và nạn tham nhũng hoành hành, tăng truởng kinh tế thấp nhất kể từ năm 1988. Không thể thiếu một đối tác thương mại như Hoa Kỳ trong cuộc chơi kinh tế. Không chỉ là thị trường xuất khẩu, mà còn các khoản tín dụng quốc tế, trong đó tiếng nói của Hoa Kỳ rất quan trọng.

Từ tháng 10/2010 Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). TPP là hiệp định đa phương giữa 12 nước gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, Việt Nam và Nhật Bản. Khi TPP được ký kết, tổng thu nhập của Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 26,2 tỉ USD và sẽ tăng lên 37,5 tỉ USD nếu Nhật Bản tham gia TPP. Do đó, TTP là một ưu tiên của Việt Nam trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ.

Mặc dù trong thế bức bách, cần “có được một người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn ở ngay bên cạnh ủng hộ và hợp tác” (lời của Nguyễn Chí Vịnh) để giữ độc quyền cai quản đất nước, nhưng trong tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam không ít người nhìn thấy ý đồ thâm hiểm và bản chất độc ác, lật lọng của Trung Cộng. Đi với Tàu, nhưng trong thâm tâm họ vẫn không muốn bị Tàu đè đầu, cưỡi cổ, nhất là trong bối cảnh lòng yêu nuớc, chống  xâm lược Tàu của dân chúng đã ngấm vào xương tuỷ. Một ngàn năm Bắc thuộc đã không thể đồng hoá được dân tộc Việt. Lịch sử đã sinh ra một Ngô Quyền, năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam.

Cho nên, ngoài  việc hợp tác với các nước trong khối Asean, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, sự hợp tác chặt chẽ với Hoa kỳ, một siêu cường về quân sự và kinh tế, mới có thể chống lại sự quyết đoán ngang ngược đang phát triển của Trung Quốc trong mộng bành trướng bá quyền trên Biển Đông. Chuyến đi của Tư Sang không thể nằm ngoài chủ đề quan trọng này. Nhưng đây là chủ đề khó khăn. Làm thế nào để hợp tác với Hoa Kỳ sâu rộng hơn mà không làm mất lòng Trung Cộng đã bị lệ thuộc? Một mình Tư Sang không thể làm nên điều gì. Hoặc là ông ta học thuộc lòng những nước cờ của Bộ Chính Trị, hoặc khả năng rút giấy ra đọc như Phan Văn Khải là hoàn toàn có thể xảy ra.

Quả đắng trong chuyến công du của Tư Sang là Tổng thống Obama “cũng mong muốn thảo luận về nhân quyền”.

Trong chiến lược di chuyển lợi ích về Châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam với thế địa chính trị là con bài không thể bỏ rơi của Hoa Kỳ trong chính sách kìm hãm Trung Quốc, mặc dù điều này rất khó trong mối tương quan hiện tại. Dù vậy, người Mỹ có tầm nhìn xa trông rộng, họ hiểu rất rõ cái thế phải đu giây của Việt Nam và dựa trên lòng yêu nước và chống Tàu truyền thống của dân tộc Việt.

Cho nên trong quan hệ song phương, nhân quyền là nhạy cảm và cần thiết, nhưng không phải là vấn đề trọng tâm. Các nhà lập pháp của quốc hội Hoa Kỳ nhắc nhở, đòi hỏi, buộc tổng thống Barack Obama không thể không đề cập.

Tình trạng nhân quyền của Việt Nam gần đây là thảm hoạ. Gần 40 bloggers bị bắt giữ, nhận các bản án tù giam nặng nề chỉ vì họ có các bài viết phê phán chính phủ, chống Trung Cộng xâm lược một cách ôn hoà. Rất nhiều bloggers khác bị sách nhiểu, trấn áp.  Bắt giam ba bloggers Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy và cáo buộc tội “trốn thuế” để xét xử nhà bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân là những bước lùi nghiêm trọng.

Tuy nhiên, tôi không hy vọng gì một sự nhượng bộ của Tư Sang về nhân quyền. Nếu có chỉ có thể là hứa hẹn, hoặc chống chế “Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có những người vi phạm pháp luật”. Thực chất, trong lĩnh vực này, quyền hạn của Tư Sang cũng chẳng có bao nhiêu.

Tóm lại trong cơ cấu quyền lực hiện hành, chuyến công du của Trương Tấn Sang sẽ chẳng mang lại điều gì đột phá. Ông ta chỉ là người mang đến và mang về thông điệp của đôi bên.

© 2013 Lê Diễn Đức – RFA Blog

244 Phản hồi cho “Trương Tấn Sang làm gì ở Mỹ?”

  1. VN-USA says:

    Mười tám năm trước, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt trong tuyên bố về việc Tổng thống Hoa Kỳ Clin-tơn quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam đã nói “Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoan nghênh quyết định ngày 11/7/1995 của Tổng thống Bin Clin-tơn và sẵn sàng cùng Chính phủ Hoa Kỳ thoả thuận một khuôn khổ mới cho quan hệ giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cùng có lợi và phù hợp với các nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc tế.” Trong những năm qua, những đường nét cơ bản của khuôn khổ này đã từng bước được định hình. Như vậy, trong 18 năm qua, về cơ bản quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ đã được bình thường hoá và đã đi được một quãng đường đáng kể. Quan hệ này được xây dựng với phương châm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” Trong đó các lĩnh vực hợp tác ngày càng được mở rộng, các vấn đề khác biệt được xử lý trên tinh thần đối thoại, hiểu biết, theo hướng tạo dựng lòng tin. Song song với việc tiếp tục phát triển theo chiều rộng, quan hệ giữa hai nước bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu trên những nền tảng này. Quan điểm “Khép lại quá khứ hướng tới tương lai” của Việt Nam là một cách đối nhân xử thế nhân văn, để cuộc sống hoà bình được xây dựng trên những nguyên tắc, những khái niệm mới mẻ hơn, phù hợp hơn. Và ở đây quá khứ bi hùng chỉ khép lại từ từ, đặc biệt là đối với những người Việt Nam. Để đi đến chiến thắng phải trả một giá đắt. Người đứng đầu Nhà Trắng thì giải thích rõ hơn khi ông phát biểu với báo giới sau cuộc hội đàm cấp cao Việt – Mỹ. “Rõ ràng tất cả chúng ta đều nhận ra lịch sử vô cùng phức tạp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Từng bước một, chúng ta đã có thể thiết lập một mức độ tôn trọng và tin tưởng nhau, cho phép chúng ta giờ đây công bố quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước. Điều này sẽ cho phép có hợp tác lớn hơn nữa về một loạt vấn đề từ thương mại đến hợp tác quân sự, công tác đa phương về các vấn đề như trợ giúp thiên tai, trao đổi khoa học và giáo dục”. Tuyên bố chung giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói rõ rằng “để đem lại khuôn khổ tổng thể cho việc thúc đẩy quan hệ” và trước khi kết thúc cuộc gặp, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã chia sẻ với người đứng đầu Nhà Trắng bản sao lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman tháng 2-1946, không lâu sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ mong muốn hai dân tộc cùng dựng xây mối quan hệ “hợp tác đầy đủ”. Không phải nghi ngờ gì nữa về ý nguyện của nhà cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh, mong muốn có một mối quan hệ hợp tác hữu nghị với nhân dân Hoa Kỳ . Một động thái rất ý nghĩa bởi nó giống như một lời nhắc nhớ hai bên đừng bỏ lỡ những cơ hội mới như đã từng xảy ra trong quá khứ. Có thể, trong quá khứ đã có những cơ hội bị bỏ lỡ, nhưng ở thời điểm hiện tại, cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ đều biết rõ phải nắm bắt lấy cơ hội để thực hiện ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng quan hệ “hợp tác đầy đủ” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
    Chương trình nghị sự của Chủ tịch nước và đoàn đại biểu cấp cao Nhà nước ta lần này hết sức phong phú và dày đặc, chỉ trong vòng 3 ngày đã có gần 20 cuộc tiếp xúc, gặp gỡ làm việc với chính quyền, Quốc hội và các giới tại Hoa Kỳ như báo chí đã đưa tin. Nổi bật là Chủ tịch nước đã có hơn một giờ hội đàm và họp báo chung với Tổng thống Barack Obama, gặp Tổng thư ký LHQ, phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ (CSIS), trao đổi với các doanh nghiệp Hoa kỳ… Tại cuộc gặp, hai nhà Lãnh đạo khẳng định cam kết mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung. Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang diễn ra vào một thời điểm quan trọng đối với cả hai nước, phản ánh mong muốn chung cùng xây dựng mối quan hệ hướng tới tương lai giữa hai nước. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh các nguyên tắc trong quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Nói cách khác, khuôn khổ “Đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ” mà hai bên ký kết hôm nay sẽ đóng vai trò như một hành lang mở đường cho những hợp tác chặt chẽ hơn, sâu rộng hơn nữa trong tương lai.
    Chuyến thăm cũng thể hiện một Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trong hội đàm với Tổng thống Obama, khi phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) và trao đổi với Tổng thư ký Liên hợp quốc, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã chia sẻ những đánh giá, nhận định về sự vận động của tình hình thế giới và khu vực, vai trò của ASEAN trong một cấu trúc khu vực đang định hình hiện nay. Chủ tịch nước chia sẻ mong muốn của Việt Nam về một khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển; khẳng định Việt Nam sẵn sàng nỗ lực đóng góp hiệu quả và thực chất hơn nữa vào hòa bình và ổn định ở khu vực và trên thế giới. Chủ tịch nước nêu rõ duy trì hoà bình, ổn định, an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông là quan tâm và lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực; các quốc gia cần nỗ lực, thể hiện trách nhiệm trong việc thực hiện mục tiêu chung này. Trên tinh thần đó, Chủ tịch nước ta và Tổng thống Obama tái khẳng định ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có những quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982(UNCLOS), đồng thời tái khẳng định ủng hộ nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và tranh chấp lãnh thổ. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh giá trị của việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC), và tầm quan trọng của việc khởi động đàm phán để hoàn tất một bộ Quy tắc ứng xử (COC) có hiệu quả. Mặt khác, cho dù có gọi tên đối tác mới này là gì thì bản thân Hoa Kỳ có những lợi ích chiến lược trong việc thúc đẩy quan hệ với Việt Nam. Theo ông Ernest Bower, cố vấn cao cấp về Ðông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS): “Chính phủ Mỹ xem Việt Nam là nước có vị trí chiến lược hàng đầu ở Ðông Nam Á”. Ông Bower nói với BBC rằng, “Hoa Kỳ cần Việt Nam vì chiến lược của Hoa Kỳ ít nhất dựa vào một phần đó là ASEAN mạnh mẽ. ASEAN có nền móng vững chắc là điểm tựa cân bằng cho kiến trúc vùng kiểu mới trong Thượng đỉnh Đông Á. Nếu thiếu vắng yếu tố lãnh đạo mạnh mẽ của Việt Nam cũng như của ASEAN, là khối hợp tác mà Việt Nam tin tưởng, thì chiến lược của Hoa Kỳ sẽ rất yếu”. Do đó Việt Nam quan trọng với Hoa Kỳ vì lý do này và nhiều lý do khác nữa.

    Hoa Kỳ 28-7-2013
    AMARI TX

    • Tien Ngu says:

      Hỡi ơi…

      Đợi đến khi Cộng láo nó…đối tác toàn diện với Mỹ, thì đã bao nhiêu…đời trai đi…đái?

      Thay vì xin lỗi bà con khi xưa ta quá láo, quá ngu, thì Cộng láo vẫn tung cò mồi…tiếp tục hát láo…

      Chúng cứ mần như dân VN, ai cũng thuộc loại…mắt hí, khoái nghe chuyện….huyền thoại.

      Bớt láo tự sướng tí đi, cò à.

  2. Bich says:

    @Võ Trang: Võ Trang này đầu óc bị nhiễm độc nặng, rồi sẽ có ngày nhận ra chỉ còn mỗi mình là có suy nghĩ tối tăm như vậy, ít nhất thì cũng nên học người cùng tên Võ Ngọc Trang qua bài “cảm nghĩ….”, phải nhìn nhận thật khách quan mọi diễn biến, mọi sự kiện chứ đừng có u mê tự đeo gồng vào đầu óc mình như vậy!

    • Võ Trang says:

      “Mượn tay người khác để… trả thù” ? – cô còn con nít lắm!. Tôi nhớ có lần, cũng trên chinh diễn đàn này, một tác giả khác đã cho cô 1 lời khuyên thấy cũng tội: “Bích à, phải biết suy nghĩ bằng cái đầu, đừng dùng cái mông mà suy nghĩ …” cô có hiểu tại sao không? – Dùng cái đầu để suy nghỉ, thì sẽ cho ra những sản phẩm của 1 hệ thần kinh cao cấp. Dùng cái mông để suy nghĩ thì sẽ cho ra cái gì?
      Sau khi cô tìm được câu trả lời rồi thì tôi cho cô 1 lời khuyên thành thật: để thật sự trưỡng thành thì phải biết đứng trên chính đôi chân của mình.

  3. vietha says:

    Học giả Mỹ “chấm điểm” cao chuyến thăm của Chủ tịch nước
    Thứ hai – 29/07/2013 22:02 – Đã xem: 192

    http://m.vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/133149/hoc-gia-my–cham-diem–cao-chuyen-tham-cua-chu-tich-nuoc.html

    Cập nhật: 02:00 | 30/07/2013
    Một quan chức cấp cao của Hoa Kỳ đảm trách quan hệ với châu Á đã nhận định chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có tầm quan trọng “lớn hơn tổng các thành tố của nó cộng lại”, với hàm ý rằng kết quả của chuyến thăm còn vượt cao hơn những kết quả, thỏa thuận cụ thể đạt được. Học giả Murray Hiebert, cố vấn cao cấp, Phó Giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) viết riêng cho Tuần Việt Nam.

    Khoảnh khắc ngạc nhiên ở CSIS

    Chiều 25/7, CSIS đã có vinh dự được chào đón Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến nói chuyện với giới học giả và ngoại giao tại Washington DC. Đây là lần đầu tiên một nguyên thủ quốc gia của Việt Nam đến nói chuyện tại CSIS. Trong bài diễn văn của mình, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã chia sẻ về tầm nhìn của Việt Nam đối với các mối quan hệ ở châu Á – Thái Bình Dương và quan hệ với Hoa Kỳ. Ông đã nói về cải cách kinh tế của Việt Nam và những kỳ vọng của đất nước ông về phát triển kinh tế. Ông cũng đã nêu lên vấn đề Biển Đông. Ông khẳng định rằng Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào cho đòi hỏi chủ quyền của họ đối với hầu hết Biển Đông.

    Một trong những khoảnh khắc đáng ngạc nhiên trong cuộc nói chuyện của Chủ tịch Sang là sau khi kết thúc bài diễn văn, ông tiếp nhận 6 câu hỏi từ khán giả. Các câu hỏi đề cập đến nhiều chủ đề, từ quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ tới vai trò của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, hay quan điểm của Chủ tịch nước đối với việc Philippines kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài Liên hiệp quốc, hay tính chính đáng của đường chín đoạn.

    Các câu ông trả lời không hề khuôn sáo hay có sự chuẩn bị trước mà rất thanh thoát. Vào cuối cuộc nói chuyện, ông còn đi vòng qua hàng rào an ninh ngăn cách với hàng ghế cử tọa để bắt tay một số đại sứ các nước ASEAN và cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam trong đám đông khán giả.

    Không né tránh thảo luận những vấn đề gai góc

    Về tổng thể, tôi sẽ chấm điểm cao cho chuyến thăm này, mặc dù không có nhiều sản phẩm cụ thể. Một quan chức cấp cao của Hoa Kỳ đảm trách quan hệ với các nước châu Á đã mô tả tầm quan trọng của chuyến thăm này “lớn hơn tổng các thành tố của nó cộng lại”, với hàm ý rằng kết quả của chuyến thăm còn vượt cao hơn những kết quả, thỏa thuận cụ thể đạt được. Tôi cho rằng điều có ý nghĩa quan trọng là Chủ tịch Trương Tấn Sang đã không né tránh thảo luận về vấn đề gai góc nhất trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ hiện nay, đó là nhân quyền. Việc đưa ba nhà sư và hai linh mục đi cùng ông tới Washington là một sáng kiến hay. Và giờ vấn đề sẽ phụ thuộc vào các quan chức cấp dưới của cả hai bên phải cùng nhau tìm kiếm các cách thức để giảm thiểu căng thẳng xoay quanh vấn đề nhân quyền.

    Một điều quan trọng nữa là hai bên đã thảo luận với nhau về tranh chấp Biển Đông. Về phần mình, Hoa Kỳ rất lo ngại về việc Trung Quốc ngày càng tỏ thái độ kiên quyết và cứng rắn, đặc biệt đối với Philippines và Việt Nam trong vòng 2-3 năm qua. Đối với Hoa Kỳ, tự do thông thương hàng hải có ý nghĩa sống còn. Hoa Kỳ cũng lo ngại rằng một vụ va chạm có thể xảy ra từ sự hiện diện quá dày đặc của các tàu quân sự trong hoặc gần khu vực tranh chấp, từ đó dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng không lường trước được.

    Tôi nghĩ rằng cả hai phía đã đạt được một số kết quả đáng hài lòng, cho dù có thể có một số mục tiêu không được như kỳ vọng ban đầu. Không nghi ngờ gì là Việt Nam hài lòng khi nhận được lời hứa từ Tổng thống Obama rằng Hoa Kỳ sẽ trao cho Việt Nam quyền tiếp cận thị trường dệt may lớn hơn theo đàm phán TPP, một vấn đề mà trước đó giữa hai bên còn tồn tại nhiều căng thẳng. Các quan chức Việt Nam cũng đã hi vọng rằng họ sẽ nhận được cam kết từ phía Mỹ coi Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Ở điểm này thì Hoa Kỳ vẫn nhìn nhận Việt Nam như một nền kinh tế phi thị trường, do khối Doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, các quan chức Hoa Kỳ đã hứa hẹn rằng họ sẽ xem xét lại đánh giá này. Việt Nam có lẽ cũng sẽ hài lòng hơn nếu Tổng thống Obama chấp nhận lời mời thăm Việt Nam. Cuối cùng, ông Obama đã hứa ông sẽ cố gắng tới thăm Việt Nam trước khi kết thúc nhiệm kỳ trong vòng hơn 3 năm tới.

    Phía Hoa Kỳ hài lòng vì Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã cam kết Việt Nam sẽ cùng với 11 đối tác khác trong vòng đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) nỗ lực làm việc để hoàn tất đàm phán trước thời điểm cuối năm nay. Tôi nghĩ Hoa Kỳ sẽ hài lòng hơn nữa nếu Việt Nam có thêm những bước đi cụ thể trong lĩnh vực nhân quyền và Hoa Kỳ vẫn đang hy vọng sẽ có thêm nhiều tiến bộ mới đạt được trong lĩnh vực này trong vài tuần tới.

    “Đối tác toàn diện” – chờ “rượu mới cho chiếc bình mới”

    Một trong những kết quả nổi bật của chuyến thăm là khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama cùng thống nhất nâng cấp quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ lên “đối tác toàn diện”. “Đối tác toàn diện” tất nhiên có những ý nghĩa khác so với “đối tác chiến lược”. Một cách khái quát, đối tác chiến lược” hàm ý một mối quan hệ chặt chẽ về chính trị và an ninh.

    Trong khi đó, “đối tác toàn diện” mang ý nghĩa một mối quan hệ rộng, bao gồm cả quan hệ kinh tế và ngoại giao nhân dân. Ngoại trưởng Hillary Clinton đã đề xuất một mối quan hệ đối tác toàn diện khi bà tới thăm Hà Nội hồi năm 2010, nhưng kể từ đó sáng kiến này không được cụ thể hóa thêm bao nhiêu. Một số nhà phân tích cho rằng căn nguyên một phần do Việt Nam cũng phải đối mặt với một số quan ngại liên quan đến quan hệ với các cường quốc khác. Còn chính quyền Mỹ cũng phải tạm lùi do sức ép không ngừng gia tăng từ một số thành viên quốc hội và các tổ chức nhân quyền.

    Có lẽ chúng ta sẽ không thể hiểu được chính xác “đối tác toàn diện” có nghĩa là gì cho đến khi Việt Nam và Mỹ thực sự bắt đầu thương thảo và đưa những nội dung thực chất, hay “rượu mới” vào cái “bình mới” này. Bởi vậy, chúng ta sẽ chờ đợi trong vài năm tới để xem khuôn khổ đối tác mới này sẽ đóng góp như thế nào vào việc thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.

    Nghị trình rộng rãi của “Đối tác toàn diện” hàm chứa nhiều tiềm năng to lớn để làm sâu sắc hơn mối quan hệ song phương giữa hai nước trong nhiều lĩnh vực, từ quan hệ chính trị tới kinh tế và quân sự. Tuy nhiên, liệu rằng mối quan hệ đó có thể đạt được chiều sâu tới mức nào còn phụ thuộc vào việc cả hai bên sẽ đặt bao nhiêu tâm huyết vào đó để tăng cường hợp tác giữa hai nước.

    “Lập trường Việt Nam trước sau như một là không ủng hộ “đường lưỡi bò”, phản đối “đường lưỡi bò”. Bởi “đường lưỡi bò” được xác lập không có cơ sở, không có căn cứ của bất cứ loại luật pháp quốc tế nào. Chúng tôi cũng nghiên cứu, đọc rất kỹ. Các bạn là một trung tâm nghiên cứu lớn của Hoa Kỳ và cũng là của thế giới, các bạn có thể giúp chúng tôi về cái sở cứ của vấn đề – Chủ tịch nước hỏi ngược lại với cử tọa – Không biết có ai chứng minh được không?”. Giới học giả CSIS cùng vỗ tay nhiệt liệt sau câu hỏi này. Chủ tịch nước nói thêm: “Tôi thật tình, nếu có các bạn Trung Quốc ở đây thì tôi cũng phải nói như vậy”. (Trích phát biểu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang).

    • Murray Hiebert

    • Tien Ngu says:

      Thấy thương quá…
      Cố…tự sướng, té ra là…xã rác.

      Không biết dùng đầu óc, tự viết bài, cú nà cắt dán. Bịnh quá, cò?

  4. quả dừa says:

    Những người cccđ lừa đảo đâu phải là người vn đâu , bằng chứng là họ cứ quạy phá biểu tình quấy rối đồng hương bao nhiêu năm nay , họ là người Mỹ da vàng nên tụi Mỹ trắng gọi là mọi da vàng dơ dáy , hôi thúi đó . Không tin ra Sài Gòn nhỏ đi chơi thử coi thì bít.

    • Tien Ngu says:

      Nghe hát, là biết ngay cái trình độ giáo dục của anh cò hấp thụ. Thấy thương…má anh quá. Bả chắc cũng vậy…

  5. Văn Chu Đặng says:

    Mỹ không thể và không bao giờ có thể áp đặt cho VN, một dân tộc đã thà hy sinh tất cả cho nền độc lập tự chủ, tự do của mình (kiểu VN), trong khi Mỹ chấp nhận khác biệt về thể chế chính trị, vậy thì không thể áp đặt dân chủ nhân quyền kiểu Mỹ cho VN một nước khác biệt cả về văn hóa, bản sắc dân tộc.. Vậy có chăng chỉ giúp nhau cải thiện rút ngắn bất đồng rút ngắn khoảng cách về vấn đề cùng quan tâm. trên cơ sở tôn trọng độc lập tự quyết của dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau

    Đừng vì thù hận, vì ” cả giận mất khôn”như người Việt đã có câu răn mọi người đó, hãy nghĩ thoáng hơn về VN ngày nay, nếu ai có điều kiện nên về để trực tiếp nghe dân xem họ sống thế nào điều họ cần là gì. Tại sao một số người cứ ép dân biểu Mỹ , CP Mỹ, CSVN phải tranh cãi áp đặt nhân quyền theo khẩu khí của họ, mà không bao giờ hiểu thấu đáo nhân quyền rất phức tạp, nó sẽ luôn tồn tại và phát triển cùng sự tiến bộ xã hội, về pháp luật, về dân trí, trình độ nhận thức,trình độ phát triển kinh tế?

    • Tien Ngu says:

      Nên nghỉ thoáng về Việt Nam Cộng sản?
      csVN biết cách đặt…nhân quyền theo khẩu vị của họ?
      Không nên vì….thù hận mà mất khôn, hãy để em cho Cộng sản…mần ăn với Mỹ?

      Bớt láo cho bà con nhờ tí đi cò à…

      Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bãn Giốc, Lão Sơn…
      Nghìn vạn giặc Tàu hiện diện trên quê hương.
      Đường phố đang đàn biến thành phố…Tàu, từ Nam ra Bắc

      Sinh viên nghèo phải đi mần bồi phòng, kiêm…bán dâm mới có cái lây lất. Cướp bây giờ toàn…chơi bạo, mới có tiền xài lai rai.

      Nhà nước Cộng láo, mấy chục năm cai trị bằng…láo, nều không láo được thì chơi…bạo lực. Dân sống lâu năm dười bàn tay của chúng, lâu ngày thành…y chang…

      Thế thì nàm sao mà dân VN, cái xứ VN nó khá nỗi, cò?

      Thơm đâu không thấy, chỉ thấy là Cộng láo sẽ…thúi ngàn thu. Biết khôn mà học hỏi cách…thật thà lại đi…

  6. Võ Trang says:

    Sau 38 năm, người ta tưởng những suy nghĩ về chính nghĩa của người miền Nam Việt Nam đã bị chôn vùi – nhất là qua những chiến dịch tuyên truyền của “phe thắng cuộc” CSVN – những người đang nắm toàn bộ quyền lực của bộ máy cai trị tại Việt-Nam hôm nay. Sự trở lại của đề tài này không phải chỉ vì miền Nam có chính nghĩa mà còn vì khả năng tuyên truyền của miền Nam lúc bấy giờ không đủ sức chống lại dư luận thế giới, nhất là dư luận tại Mỹ đã bị giới truyền thông đầu độc và 1 xã hội Mỹ đã quá mệt mõi về 1 cuôc chiến mà họ không thể thấy đuợc ảnh hưởng gì đến mình ngoài những hy sinh mất mát…

    Những hình ảnh thảm sát tại Huế và nhiều nơi khác trong trận tổng tấn công Tết Mậu Thân của Bắc Việt thật ra không được phổ biến rộng rãi tại Hoa Kỳ. Nhưng phản ứng vì quá xúc động của tướng Nguyễn Ngọc Loan và sai lầm của 1 số binh lính Hoa Kỳ tại Mỹ Lai, Quang Ngãi lại được phóng sự rộng rãi tại hải ngoại.

    Những phá sản của cơ sở CS nằm vùng tại miền Nam trong trận tổng tấn công này không được nhìn thấy nhưng ngược lại 1 khả năng tấn công trên toàn miền Nam đã được ghi nhận… Những người Việt Quốc Gia đã thiếu 1 cái nhìn chiến lược(!) : Trong khi CS đủ khôn ngoan để lợi dụng tất cả những bất đồng của người Việt như là những đóng góp chung trong mưu đồ chia rẽ của họ thì phải chăng người Việt lại thấy thoải mái và tự hào khi phe phái của mình thắng thế hơn – dù chỉ là trên 1 diễn đàn ảo?

    Trong chính sách trở lại Đông Nam Á của Hoa Kỳ, trong chiến lược tòan cầu của họ, những chi phí tại Việt-Nam có thể không đáng gì so với toàn budget của họ – như họ thường dùng danh từ “seed money” để chỉ những chi phí đầu tư mà dù có thất thoát cũng nằm trong dự tính. Nhưng những thất thoát như thế đủ để CSVN dùng như là 1 thắng lợi ban đầu mà dù có mất về sau thì cũng không ảnh hưởng gì vì cái hậu cứ cuối cùng của họ, Cộng Sản Trung Hoa đã được an bài trong 1 “hơp tác toàn diện”. Về phía người Việt-Nam Quốc Gia, bất cứ thắng lợi nào của CSVN đều kéo dài thêm đau khổ cho dân tộc này cụ thể là những tù nhân đang trông chờ ánh sáng từ bên ngoài của những song sắt.

    Hôm qua, trong 1 phản hồi cho 1 còm sĩ trên diễn đàn này tôi có vào RFA để xem phóng viên Nguyễn Khanh kết luận về sự thành công của quan hệ Mỹ-CSVN qua cuộc họp mặt vừa qua giữa TT Hoa Kỳ Obama và Chủ Tịch CSVN TT Sang. Không xúc động gì đến mối tình lãng mạn Mỹ – CSVN mà theo phóng viên Nguyễn Khanh là sẽ kết thúc bằng 1 cuộc hôn nhân xinh đẹp trong vài năm nữa, tôi bỗng có chút ray rức tự hỏi tại sao có những người vừa mới hôm qua – và ngay cả hôm nay vẫn còn la ó “chống cộng” thì lại hân hoan, sung sướng, hảnh diện hay dững dưng trước kết luận này? Hm! Năm rồi tôi có đọc tin chương trình Việt Ngữ của RFA có thể bị đóng cửa vì thiếu budget (tôi không tin) thì nay lại có “job” để tiếp tục nhiệm vụ. Dĩ nhiên tôi biết chương trình của đài RFA là của ai. Chỉ đối với người Việt-Nam thì phải chăng họ vẫn chưa học được bài học nào? – hay là họ đã học được rồi – như 1 còm sĩ khác đã phát biểu trên diễn đàn này là BIẾT THÌ SỐNG”?

    Năm 2004, vào thời điểm ông Nguyễn Cao Kỳ về hoạt động tại Việt-Nam, GS Lê Xuân Khoa có viết 1 bài tôi đọc được trên Việt Báo với câu kết (?) đại ý như thế này: Người Việt tị nạn phải xét lại thái độ của họ để không bị bỏ rơi 1 lần nữa như họ đã bị bỏ rơi vào tháng Tư năm 1975… Tôi thì không! Tôi thà bị bỏ rơi chứ không sống vô định, nhất là ở cái xứ sở này khi tôi biết chắc là tôi không bao giờ bị tù tội vì “tuyên truyền chống phá nhà nước” – như cô đào Jane Fonda đã viếng thăm Bắc Việt vào cao điểm của chiến tranh, lên ổ cao xạ phòng không của quân đội Bắc Việt chụp hình lưu niệm với chiến sĩ miền Bắc, hát cho quê hương Việt-Nam dưới hầm chống bom mà vẫn được TT Obama vinh danh là người phụ nữ của thế kỷ 21!

  7. KBP says:

    TT obama và chủ tịch nước VN Trương Tấn Sang đã ký kết hợp tác ” chiến lược toàn diện” chắc có nhiều người tức ói máu, uổng công kêu gọi ký thỉnh nguyện thư, đi biểu tình… hao tiền tốn của . Cuối cùng quyền lợi của nước mỹ lại đứng trên bọn cờ vàng !

    • noileo says:

      KBP says: 29/07/2013 at 04:09

      “TT obama và chủ tịch nước VN Trương Tấn Sang đã ký kết hợp tác ” chiến lược toàn diện” chắc có nhiều người tức ói máu,”

      Riêng KBP tức ói nhiều bát máu vì sự thật chỉ là “tòan diện”, không hề có “chiến lược”, càng không hề có “chiến lược tòan diện” như KBP cố gắng tự dối mình, lừa người một cách vô vọng!

      • tuphuong says:

        Bây giờ ‘toan diện” rồi sẽ đến lúc “toàn diện chiến lược”, nhanh thôi, cứ đợi đấy!

      • noileo says:

        tuphuong says: 31/07/2013 at 04:12

        “Bây giờ ‘toan diện” rồi sẽ đến lúc “toàn diện chiến lược”, nhanh thôi, cứ đợi đấy!”

        Tính từ 1946, khi bị Truman ngó lơ vì VNDCCH không dấu đuọc cái đuôi cộng sản, vì Hồ chí Minh không dấu đuọc cái tiền sự làm gián điệp cho cộng sản Nga, đến nay đã là 67 năm,

        trong 67 năm đó có bản văn tự 6-3-1946 bán nước cho giặc Tây, có tội ác rước giặc Tàu vào VN năm 1950, có “vinh dự” làm bù nhìn cho giặc Tàu, tuân lệnh giặc tàu chia cắt đất nước 1954,

        có cuộc khủng bố giết hại hàng trăm ngàn nông dân bắc việt, có bản văn tự bán nước 1958, có 21 năm cuộc chiến tranh Hồ chí Minh tội ác thảm sát hàng triệu người dân miền nam, tiếp theo đó là 38 năm nghèo đói tụt hậu, xuống dốc không phanh, trong đó có cuộc khấu đầu Thành đô 1990 xin làm nô lệ giặc tàu,

        và gần đây là ngư dân VN khi đi đánh cá trong vùng biển VN phải treo cờ giặc tàu, nếu không thì bị giặc tàu đánh đập trước sự chứng kiến hèn nhát của Phùng quang Thanh đại tướng Quân Đội Nhân dân cộng sản, bộ trưởng quốc phòng chxhcnvn…

        mà vẫn chỉ là “cứ đợi đấy”, vẫn “rồi sẽ đến lúc” ???
        đó là “nhanh thôi”??

        Ngôn ngữ Việt cộng lai Tàu cộng quả là khôn ngay !

    • Hòa says:

      Có thể cho biết “chiến lược toàn diện” là gì không? Mỹ Việt đã ký kết cái gì không? hay là không có gì sất, chỉ là nước bọt.??
      Lẽ dĩ nhiên quyền lợi của tổ quốc Mỹ thì trên hết tất cả mọi thứ, trên “đám cờ vàng” cũng là lẽ dĩ nhiên. Tổ quốc trên hết mà lị.
      Chớ lãnh tụ Mỹ đâu có ngu cực như bọn csvn gốc công nông bần cố vô tri “quyền lợi đảng viên” trên cả tổ quốc Việt nên bọn csvn chỉ biết hèn với giặc (Trung Cộng mặc xác ngư dân) ác với dân. Cũng chắc chắn rằng quyền lợi của đảng csvn đối với Mỹ lại còn thua kém xa “đám cờ vàng” là chuyện đương nhiên. Bọn csvn đâu có bỏ phiếu bầu cho lãnh tụ Mỹ được, nhưng chắc chắn là “bọn cờ vàng” thì được. Có bố láo không? hay dư lợn viên bị … lùn?

  8. Hòa says:

    Cần gì dài dòng? Tư Sang về tay không thì rõ Mỹ xem Tư Sang là cái quái gì rồi. hahaha
    Tư Sang kéo bầu đoàn thê tử, vẹm cộng (bao nhiêu mạng? 300?) tốn bộn tiền nhưng vẫn không được việc. Ngược lại thương gia Mỹ thu lợi vì bọn cộng nô đi mua sắm tiêu sài. Các cộng nô nầy 3 đời bần cố nay học thói trưởng giả chắc chắn mua hàng tại tiệm Mỹ chở về VN nhiều lắm.

  9. nvtncs says:

    Tôi xin được trình bầy đoạn kết quyển sách của nhà báo TS Uwe Siemon-Netto:
    ————————————————————-
    A reporter’s love for a wounded people
    Cuốn sách Đức: “A reporter’s love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.

    Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta:

    Đoạn kết

    Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

    Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng.” Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

    Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

    Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng.” Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

    Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

    Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân.” Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.

    Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

    Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

    Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

    Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

    Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

    Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ? Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

    Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

    Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
    Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”
    Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố.”
    Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
    Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

    Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.

    Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?
    http://www.lienlacso3.info/index.php?/archives/486-A-reporters-love-for-a-wounded-people.html
    —————————————–

    • Huong Nguhyen says:

      Tôi biết tác phẩm này lần đầu do ông Thái Anh giới thiệu với 1 phần phỏng vấn tác giả. Tôi không đọc được bản chính của cuộc phỏng vấn nhưng theo bản dịch của ông Thái Anh thì tôi rất … “confused”. Tôi không thể hiểu được tại sao để hàn gắn những tang thương cho 1 dân tộc “khốn nạn” (miserable) như thế này thì chỉ có 1 cách là chấp nhận những kẻ trốn chạy trở về. Tại sao những nạn nhân lại cần được tha thứ? Tôi đã phản hồi và chỉ ít lâu sau thì DCV remove bài viết vào archive…

      Cám ơn ông NTNCS đã cho đăng phần kết luận của tác phẩm này ở đây. Thông thường phần kết luận là phần đúc kết tất cả các ý nghĩ chính và quan điễm, nhận định cuối cùng của tác gỉa cho nên tôi hy vọng là mình sẽ không lạc đề. Bằng những lời văn đầy tình cảm qua chính cuộc đời của mình tác gỉa đã hẵn nhiên gây xúc động cho độc giả. Nhìn chung những nhận định về cộng sản của ông cũng không có gì mới lạ nhưng quan trọng vì nó được nói lên từ 1 người ngoại quốc không có ân oán với CS và cũng chẳng có ân huệ gì với Việt-Nam: Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Có lẻ tác gỉa còn quên 1 điểm chính: Cộng sản chiến thắng vì họ DÁM tàn ác. Không phải kẻ sát nhân nào khi bóp cò súng đều không run tay. Nhưng họ dễ dàng xữ dụng Mã Tấu để chém hàng loạt và rượt theo chém cho chết những ai còn chạy trốn trong những cuộc thanh trừng. Họ sẵn sàng đốt cháy cả rặng Trường Sơn hay hy sinh sinh dù 2,3 thế hệ để chống Mỹ. Họ sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình qua những cuộc đấu tố: con tố cha mẹ, vợ tố chồng để hành quyết những người này trong những toà án nhân dân. Họ sẵn sàng bỏ đói cả dân tộc để cũng cố quyền lực của mình và giờ đây, họ sẵn sàng chịu nhục bán cả đất nước để đổi lấy vị trí lãnh đạo của mình…
      Điểm ngạc nhiên với tôi là trong khi tác gỉa không có 1 gỉai pháp nào cho những bế tắc hiện nay của Việt-Nam thì tác giả nhất định từ chối 1 giải pháp phải dùng bạo lực dù nó khả thi như chính tác gỉa nhìn nhận. Và có lẻ vì thế, tương lai là niềm hy vọng và hiện tại là hiện thực của những nguyện cầu. Trong những tâm hồn đã rách nát tả tơi vì chiến tranh và sụp đổ trong những giá trị đạo đức thì những vỗ về an ủi là liều thuốc an thần tốt nhất. Nếu những người đối lập mang cái tình cảm này thì những người Cộng sản rất hoan nghênh. Nhưng nếu đó là cái tình cảm của những đảng viên, đồng chí của họ thì những người đó nhất định phải chịu phê bình nghiêm khắc trong những buổi họp phê và tự phê cuối tuần…

      Viết đến đây thì tôi đã hiểu tại sao ông Thái Anh giới thiệu tác phẩm này đến người Việt và nhất là phần phỏng vấn tác giả cho 1 tha thứ về sự trở về của những kẽ “khốn nạn” như chúng tôi.

  10. nguyen hoang dung says:

    1000 ngưới chống VN , chống BU của họ quan hệ với VN , đằng sau họ là vợ con thân thuộc cho là 1000 người nữa , thêm bè đảng 1000 người nữa thêm những người mướn đi biểu tình , tổng cộng khoảng 5,000người thật trong cộng đồng 1 triệu rưởi người VN sinh sống ở Mỹ ,vậy họ làm gì được với VN , không kể 15,000 sinh viên VN đang du học trong số đó có những người biết đâu sau này sẽ là những người lãnh đạo đất nước VN , vậy thì đối với đất nước VN bọn này không có chỗ chen chân . Ngay kiếm một visa nhập vào VN với thành tích chống phá đất nước như thế này e cũng khó. Nhìn các hình ảnh này thật là tội nghiệp và đáng khinh và đáng lên án cho bọn cầm đầu

    • noileo says:

      “vậy họ làm gì được với VN”, nguyen hoang dung hỏi!

      Trả lời:
      Họ, nhưng người Việt tự do ở Mỹ, ở nước ngoài, “không làm gì đuọc” VN vì họ không hề muốn làm gì Việt nam.

      Họ chỉ muốn thay đổi ách cai trị tàn ác ở VN.

      Ách cai trị cộng sản Hồ chí Minh độc tài toàn trị tàn ác, vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng ở VN đang giam cầm tuổi trẻ, đàn áp trí thức, trấn lột dân nghèo, ăn cắp quốc khố, mãi quốc cầu vinh.

      Họ, những người Việt tự do ở Mỹ & ở nước ngoài, chỉ muốn ách cai trị cộng sản Hồ chí Minh độc tài toàn trị tàn ác, vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng ở VN phải thay đổi, bị lật đổ.

      Và họ đã làm đuọc rất nhiều trong công cuộc đó, và họ sẽ thành công trong một ngày gần đây, bởi vì không chỉ họ muốn thế, mà hầu như tất cả mọi người VN trong nước, trí thức, bình dân …, đều muốn thế.

      Chỉ còn một số người ở trong nước, bấy lâu nay bị bọn cộng sản Hồ chí Minh và bọn trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ chuyên nghề làm chứng gian, và dâm loạn viên nguyen hoang dung lừa gạt, che dấu tộ ác cộng sản, nên chưa cảm thấy muốn [dân chủ tự do nhân quyền & độc lập thạt sự] nhiều.

      Một khi nhìn ra bộ mặ thật độc tài đê tiện gian ác của bọn cộng sản Hồ chí Minh phản quốc, vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng, những người còn lại ấy cũng sẽ gia nhập lực lượng những người VN đứng lên chống lại cộng sản, thiết lập một nền chính trị dân chủ & tự do & nhân quyền & đọc lập thật sự cho đất nước, mà ở đó quyền tư hữu đuọc tôn trọng, quyền đuọc tự do học tập, đuọc tự do đọc, nói, nghe viết… và nhiều quyền căn bản của con người đuọc tôn trọng, bảo vệ …

Leave a Reply to Tien Ngu