“Vị tư lệnh xuất sắc nhất”: Ngô Quang Trưởng
(‘The Most Brilliant Commander’: Ngo Quang Truong)
By James H. Willbanks
Tướng Ngô Quang Trưởng qua đời ngày 22/1/2007 tại Fairfax, Virginia. Để tưởng niệm ông, người dịch xin gửi tới độc giả bài báo của Giáo Sư cựu chiến binh tại chiến trường An Lộc, James H. Willbanks, công bố ngày 15/10/2007 trên chương trình truyền hình Lịch Sử Hoa Kỳ băng tần C-SPAN3 (HistoryNet.com C-SPAN3 AMERICAN HISTORY TV). http://www.historynet.com/the-most-brilliant-commander-ngo-quang-truong.htm
(Nguyễn Tường Tâm)
Ông Ngô Quang Trưởng được xem là một trong các vị tướng có khả năng và ngay thẳng nhất của quân đội Miền Nam VN trong cuộc chiến lâu dài ở Đông Nam Á. Tướng Bruce Palmer mô tả ông trong cuốn “Cuộc Chiến 25 Năm” (The 25-Year War) là một “tư lệnh chiến trường nhiều kinh nghiệm mà địch thủ khó đương cự” (a tough, seasoned, fighting leader) và “có thể là vị tư lệnh chiến trường giỏi nhất của quân đội Nam Việt Nam” (probably the best field commander in South Vietnam.) Tướng Creighton Abrams, Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam từ năm 1968 tới 1972 đã nói với ban tham mưu của ông rằng ông nghĩ là Tướng Trưởng có khả năng chỉ huy một sư đoàn Hoa Kỳ (…told subordinates that he thought General Truong was capable of commanding an American division).
Ông Ngô Quang Trưởng thuộc một gia đình giầu có tỉnh Kiến Hòa. Tốt nghiệp Trung Học Mỹ Tho ông gia nhập trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ra trường năm 1954 ông được bổ nhiệm làm đại đội trưởng đại đội 1/tiểu đoàn 5 Nhẩy dù. Năm 1955, trong cuộc hành quân tảo thanh Bình Xuyên ông được vinh thăng trung úy tại mặt trận. Năm 1964, được vinh thăng thiếu tá và bổ nhiệm làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù, ông chỉ huy đơn vị hành quân trực thăng vận vào Mật Khu Đỗ Xá, quận Minh Long, Quảng Ngãi, xóa tan căn cứ của Bộ chỉ huy B-1 của Việt Cộng. Trong khi đó ông nổi tiếng là một vị chỉ huy được mến mộ vì đã lăn lộn với binh sĩ ngoài mặt trận và chăm sóc họ.
Năm 1965, Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù, vẫn dưới quyền ông đã hành quân trực thăng vận vào Mật Khu Hắc Dịch trong vùng Núi Ông Trình tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa), căn cứ của Sư Đoàn 7 Việt Cộng. Sau hai ngày tiểu đoàn của ông đã gây tổn thất nặng nề cho hai trung đoàn địch, ông được vinh thăng trung tá tại mặt trận và được tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Sau trận Hắc Dịch, ông Trưởng được bổ nhiệm tham mưu trưởng Lữ Đoàn Nhẩy Dù và sau đó trở thành tham mưu trưởng Sư Đoàn Nhẩy Dù năm 1965. Như sử gia Dale Andrade cho biết, vị trí không chiến đấu này có thể đã làm đình trệ binh nghiệp của ông, nhưng sự nổi tiếng về can đảm và công bằng của ông đã khiến giới lãnh đạo cao cấp nhất tại Saigon chú ý. Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Nam Việt Nam từ năm 1965 tới 1975, sau này đã mô tả ông Trưởng là “một trong các cấp chỉ huy giỏi nhất ở mọi chức vụ mà Sư Đoàn Dù có từ trước tới nay.”
Năm 1966, khi bùng nổ vụ bạo động tại miền Trung, ông được bổ nhiệm là quyền tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở Huế. Là một phật tử, mặc dù ông Trưởng không thấy thoải mái phải chỉ huy một đơn vị bị lên án là đàn áp phong trào Phật Giáo chống lại chính phủ quân nhân, ông Trưởng đã thi hành nhiệm vụ một cách chuyên nghiệp và Sài Gòn đã bổ nhiệm ông làm tư lệnh thực thụ của sư đoàn này. Với tài lãnh đạo nhiều kinh nghiệm thực tế, ông mau chóng huấn luyện Sư Đoàn 1, có tai tiếng trước khi ông đảm nhận, trở thành một trong các sư đoàn giỏi nhất trong quân đội miền Nam Việt Nam. Trung Tướng Robert E. Cushman, Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ số III (III Marine Amphibious Force) tại vùng I Chiến Thuật, và người thuộc cấp chính của ông, Trung Tướng Richard G. Stiwell, Tư Lệnh Quân Đoàn XXIV, đều cảm thấy rằng nhờ những cố gắng của ông Trưởng mà Sư Đoàn 1 Bộ Binh của QLVNCH “tương đương với bất cứ một sư đoàn Hoa Kỳ nào.”
Cố vấn của ông Trưởng thời đó đã viết, ông Trưởng là người “chuyên tâm (dedicated), khiêm tốn, nhiều sáng kiến và giỏi chiến thuật.” Và Tướng William C.Westmoreland, Tư Lệnh MACV (Military Assistance Command, Vietnam-Bộ Tư Lệnh Quân Viện tại Việt Nam) nói rằng ông Trưởng “được đánh giá cao trong số mọi cấp chỉ huy có khả năng của miền Nam Việt Nam.”
Năm 1967, sau khi các đơn vị của Sư Đoàn 1 tấn công và phá hủy cơ sở hạ tầng và một số lớn đơn vị của Việt Cộng tại Mặt Trận Lương Cơ, Đông Xuyên và Mỹ Xá thuộc quận Hương Trà, Thừa Thiên, ông được vinh thăng chuẩn tướng.
Trong Tết Mậu Thân năm 1968, Tướng Trưởng chỉ huy Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong một số những trận đánh đẫm máu nhất tại Huế trong cuộc chiến tranh. Hai đêm trước khi cuộc tấn công của Việt Cộng bắt đầu, ông Trưởng và bộ tư lệnh của ông tại Thành Nội đã cảm thấy có điều không ổn và đặt binh sĩ trong tình trạng báo động. Khi đêm đó trôi qua không có biến cố gì, ông cho các cố vấn về nghỉ nhưng vẫn cấm trại đối với binh sĩ của ông.
Trận tấn công của Việt Cộng bắt đầu lúc 3:30 sáng ngày 31/1/1968 với 2 tiểu đoàn Bắc quân thuộc Trung đoàn 6 tấn công Thành Nội và Trung đoàn 4 Bắc quân tấn công cơ quan MACV tại khu hành chánh phía nam Sông Hương. Nhờ đại đội phản ứng nhanh Hắc Báo của ông chống được cuộc tấn công ban đầu giữ được Bộ Tư Lệnh, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh cho Trung đoàn 3 bộ binh, lúc đó đang hành quân ở phía bắc thành phố chạy về giải vây cho ông. Trung đoàn này, được tăng cường ba tiểu đoàn Nhẩy Dù, đã tới được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ở góc phía đông bắc của Thành Nội vào chiều tối cùng ngày (31 tháng 1). Ngày hôm sau, ông Trưởng bắt đầu phản công chiếm lại toàn bộ Thành Nội và giải tỏa bờ bắc Sông Hương. Theo yêu cầu của ông, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ nhận trách nhiệm giải tỏa bờ nam Sông Hương.
Ngày mùng 4/2, tiểu đoàn 1/Sư đoàn 1 TQLC-HK được tăng cường bởi tiểu đoàn 2 /Sư đoàn 5 TQLC-HK, bắt đầu chiếm từng căn nhà, đẩy lui địch quân ra khỏi khu vực. Cho tới ngày 9/2, bờ nam sông Hương đã được giải tỏa. Khi cuộc tấn công của Sư đoàn 1 BB-VNCH ở bờ bắc sông Hương bị chặn lại vào ngày 12/2, sư đoàn được tăng cường bởi hai tiểu đoàn TQLC/VN. Ông Trưởng cũng yêu cầu Hoa Kỳ tiếp viện, và tiểu đoàn 1/sư đoàn 5 TQLC-HK tham chiến. TQLC Hoa kỳ cùng với các chiến sĩ Bộ binh và TQLC Việt Nam đã cùng nhau chiến đấu chiếm từng căn nhà để đẩy lui địch quân ra khỏi khu vực. Ngày 2/3/1968, trận chiến Huế chính thức kết thúc. Hơn 50 phần trăm thành phố đã bị hư hại hoặc phá hủy. Lực lượng bộ binh và TQLC VNCH thiệt hại 384 tử thương và 1,830 bị thương. TQLC Hoa kỳ bị 142 tử thương và 857 bị thương. Bộ binh Hoa Kỳ bị 74 tử thương và 507 bị thương trong lúc chiến đấu bên ngoài thành phố.
Như thường lệ, ông Trưởng đã hành xử một cách ngoạn mục, chỉ huy binh sĩ một cách bình tĩnh nhưng ấn tượng (Truong had performed magnificently, directing his troops in a calm but charismatic fashion). Trung tướng Cushman, người sau này trở thành bạn thân của ông sau khi đã làm việc với ông, đã mô tả hành xử của ông Trưởng trong trận chiến Mậu Thân như sau: “Ông Trưởng sống sót trong lúc bị địch quân bao vây tứ phía. Địch quân chưa chiếm được bộ tư lệnh của ông như họ đã chiếm được phần còn lại của Thành Nội.”
Sau Trận Tết Mậu Thân, ông Trưởng được đặc cách thiếu tướng. Tháng 8/1970, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Quân Đoàn IV tại Cần Thơ vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tháng 4/1971, ông được vinh thăng trung tướng.
Với tư cách tư lệnh lực lượng quân sự vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, chiến lược của ông Trưởng là thiết lập một hệ thống tiền đồn dọc theo biên giới với Cao Miên để ngăn chặn sự chuyển quân và tiếp liệu của Cộng Sản vào trong vùng, trong khi đó ông chia ba sư đoàn bộ binh trực thuộc thành các lực lượng đặc nhiệm cấp trung đoàn để thực hiện các cuộc hành quân lùng và diệt địch trong các căn cứ lâu năm của đối phương trên toàn vùng. Trong khi đó, với sự hết sức ngay thẳng (scrupulously honest) ông Trưởng tung ra một chiến dịch truy quét “lính ma” và “lính kiểng”, đào binh và trốn quân dịch trong vùng IV. Ông cũng gia tăng khả năng của các lực lượng Nghĩa Quân và Địa Phương Quân trong vùng, biến các lực lượng này thành một thể thống nhất trong kế hoạch phòng thủ tạo an ninh cho Đồng Bằng sông Cửu Long.
Ngày 30/3/1972, Bắc Quân tung ra cuộc tấn công “Đông Xuân” (Easter Offensive). Lực lượng tấn công gồm 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập với hơn 120,000 quân và khoảng 1,200 chiến xa và xe cơ giới vũ trang khác. Mục tiêu chính của Bắc Quân là tỉnh Quảng Trị ở phía bắc, Kontum ở Cao Nguyên Trung Phần và An Lộc ở xa hơn về phía nam thuộc Vùng III Chiến Thuật.
Cuộc tấn công bắt đầu vào trưa ngày thứ Sáu, ngày kỷ niệm Chúa bị đóng đinh (Good Friday), với các cuộc pháo kích nặng nề vào tất cả các căn cứ hỏa lực trong Vùng I Chiến Thuật, phía nam của khu Phi Quân Sự (DMZ). Ngày hôm sau, ba sư đoàn thuộc Mặt Trận B-5 của Bắc quân tấn công một loạt các căn cứ hỏa lực của QLVNCH ngay phía nam khu Phi Quân Sự, được trấn giữ bởi Sư đoàn 3 Bộ Binh tân lập. Các binh sĩ QLVNCH bị tràn ngập với tỉ số 1 chống 3, đã rút lui trong khi Bắc quân tấn công về phía nam. Trong khi hết căn cứ hỏa lực này tới căn cứ hỏa lực khác rơi vào tay 40,000 Bắc quân, căn cứ chiến đấu tại tỉnh Quảng Trị bị đe dọa và cuối cùng di tản trước cuộc tấn công. Trong cuộc chiến đấu cay đắng đó, Sư đoàn 3 Bộ Binh VNCH bị tan nát và không còn khả năng chiến đấu.
Ngày mùng 1/5/1972, Cộng quân chiếm tỉnh Quảng Trị. Điều này giúp Cộng quân kiểm soát các vùng lân cận và tiếp tục tấn công về phía nam. Biết được tình hình nguy ngập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã giải nhiệm Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Vùng I Chiến Thuật, người không có khả năng ngăn chận cuộc tấn công của Cộng Quân và ra lệnh Tướng Trưởng đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm vùng I chiến thuật. Ông Trưởng rời bộ tư lệnh Quân Đoàn IV ở Cần Thơ và tới Đà Nẵng ngày mùng 3/5. Sử gia Lewis Sorley sau đó viết rằng việc thay đổi cấp chỉ huy này có ảnh hưởng như nhanh như điện. Sự trở lại của ông Trưởng đã giúp trấn an tình hình, và chỉ riêng sự hiện diện của ông cũng mang lại niềm hy vọng mới cho các lực lượng VNCH tại Vùng I.
Tướng Trưởng mau chóng nhận quyền chỉ huy, ra lệnh bắn tại chỗ tất cả các đào binh nào không trở về trình diện đơn vị trong vòng 24 giờ. (ghi chú của người dịch: Trong vòng thân mật gia đình, ông tâm sự chưa bao giờ ông ra lệnh bắn ai) Ông lên truyền hình và hứa sẽ giữ Huế và đẩy lui Cộng quân. Ông thiết lập ban tham mưu rồi chuyển bộ tư lệnh của ông ra Huế, nơi đang bị rối loạn trước cuộc tấn công đang tiếp diễn của Cộng quân. Sau khi ổn định tình hình, ông thiết lập kế hoạch phòng thủ toàn diện nhằm chận đứng cuộc tiến công của Cộng quân. Đồng thời ông thiết lập kế hoạch tái huấn luyện và bổ sung các đơn vị trước đó bị tơi tả trong lúc rút lui khỏi Quảng Trị. Với thiết bị mới được Hoa Kỳ cung cấp, ông tập hợp các đơn vị đó lại và cho tái huấn luyện cấp tốc.
Cho tới giữa tháng 5, cuộc phòng thủ Huế đã được củng cố, tình hình đã ổn định và các đơn vị tái phục hồi đã sẵn sàng. Ông Trưởng tung ra một cuộc phản công với ba sư đoàn để tái chiếm những vùng bị mất, với sự trợ giúp của hỏa lực Hoa Kỳ, trong đó có các cuộc oanh tạc của pháo đài bay B-52, không yểm cận chiến của các oanh tạc-chiến đấu cơ (fighter-bombers) của Không, Hải Quân và TQLC Hoa Kỳ; trực thăng tấn công (Army attack helicopters); và hải pháo của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ. Đây là một tiến trình chậm chạp và được xem xét cẩn thận, nhưng các lực lượng của ông đã đẩy lui được sáu sư đoàn quân Bắc Việt để tái chiếm Quảng Trị vào ngày 16/9. Nhiều căn cứ hỏa lực dọc theo vùng Phi Quân Sư được tái chiếm (1), và tới cuối tháng 10 tình hình Vùng I được ổn định. Với việc tái chiếm Quảng Trị, và đứng vững của QLVNCH tại Kontum và An Lộc, Cuộc tấn công của Bắc quân đã thất bại. Ông Trưởng đã hoàn toàn biến đổi tình hình thê thảm khắp Vùng I nhờ sức mạnh cao ngất của tài lãnh đạo của ông (by the sheer force of his personal leadership.)
Năm 1975 ông Trưởng đứng trước thử thách lớn nhất đời ông. Công cuộc phòng thủ của QLVNCH tại Cao Nguyên Trung Phần sụp đổ trước một cuộc tấn công mới của Bắc quân. Tổng Thống Thiệu ra lệnh ông tử thủ Huế, và ông đã bắt đầu củng cố công cuộc phòng thủ thành phố này, chuẩn bị chiến đấu tại đây. Tuy nhiên, sau đó là một tuần lễ tranh luận (debate) với TT Thiệu và các sĩ quan tham mưu quân sự cao cấp của tổng thống, nổi bật bởi những lên án (highlighted by accusations), những lệnh lạc mâu thuẫn và các đề nghị không thể thi hành được. Trong các cuộc thảo luận này, ông Trưởng được lệnh bỏ Huế, mặc dù ông quả quyết rằng vẫn có thể phòng thủ được. Trong khi ông chuẩn bị thi hành lệnh mới nhất của Tổng Thống, thì vào phút chót Tổng Thống lại ra lệnh ngược lại bảo ông giữ Huế bằng mọi giá. Theo một quan sát viên cho phóng viên tuần báo Time biết: “Giống như là một người ngu hay một chàng điên (It was like a yo-yo) (2). Đầu tiên, ông Thiệu ra lệnh rút lui Huế và phòng thủ Đà Nẵng. Rồi ông lại hủy bỏ lệnh đó và bảo giữ Huế. Rồi ông lại đổi ý và bảo binh sĩ rút lui.”
Lệnh lạc rối mù (Confusion reigned). Ông Trưởng không nhận được rõ ràng những lệnh mới, nhưng ông cố gắng tuân hành theo khả năng của ông. Mặc dù vậy, việc rút lui khỏi Huế đã trở thành một thảm họa tương đương về mức độ với cuộc rút lui ở Cao Nguyên Trung Phần. Dưới cuộc pháo kích của đại bác hạng nặng, các lực lượng của ông tan rã. Vì những lệnh lạc mâu thuẫn, thiếu chuẩn bị và sự mất tinh thần, cuộc di tản trở thành một thất bại hoàn toàn. Lãnh đạo yếu kém ở nhiều đơn vị, sự mất thống nhất của các đơn vị và lo lắng về gia đình đã mau chóng đưa tới hoảng hốt và hoàn toàn rối loạn.
Tình hình tại Đà Nẵng cũng tồi tệ như vậy. Trong khi thành phố bị hai sư đoàn Cộng quân pháo kích, ông Trưởng cố điều động cuộc di tản bằng đường biển. Nhưng tiếp theo đó là một địa ngục, khi các thường dân cũng như binh sĩ cố thoát về phương nam bằng mọi cách. Đà Nẵng rơi vào tay Cộng quân vào ngày 30/3. Trong tiến trình bỏ rơi một thành phố có 3 triệu dân, bốn sư đoàn chủ lực quân tan rã, trong đó có hai sư đoàn ưu tú nhất của QLVNCH: Sư đoàn 1 BB và sư đoàn TQLC.
Tướng Trưởng, một người quyết tâm muốn giữ Huế, đã bị đặt trong tình huống không thể phòng thủ nổi bởi các lệnh lạc mâu thuẫn nhau của TT Thiệu. Khi Đà Nẵng thất thủ, ông Trưởng và sĩ quan tham mưu của ông đã dùng phao bơi ra đoàn tầu cấp cứu của Hải quân Việt Nam. Ông Trưởng đã hết sức đau lòng vì sự mất mát các lực lượng của ông, đặc biệt là Sư đoàn 1 BB mà ông yêu mến. Tin tức cho hay ngay khi về tới Saigon ông vào nằm bệnh viện vì mất tinh thần (nervous breakdown). Một sĩ quan Hoa Kỳ đã từng làm việc thân cận với ông nghe thấy vậy đã đi tìm ông và thu xếp để đưa gia đình ông ra đi trên một chiến hạm Hoa Kỳ khi Saigon rơi vào tay Cộng sản.
Gia đình ông bị chia rẽ một thời gian: Vợ ông và người con trai lớn tới được căn cứ Fort Chaffee, ở tiểu bang Arkansas; các con gái ông và người con trai giữa đã chạy được với một nhân viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tới thành phố Seattle; và người con trai út không biết một chữ tiếng Anh, ở trại tị nạn Pendleton, tiểu bang California trong nhiều tuần lễ trước khi danh tánh của em được tìm thấy.
Sau khi tái hợp, ông Trưởng và gia đình chuyển tới Falls Church, tiểu bang Virginia. Sau khi ổn định ở đây, ông viết nhiều bài nghiên cứu lịch sử về cuộc chiến Việt Nam cho Trung Tâm Quân Sử của Quân Đội Hoa Kỳ. Năm 1983, cùng năm ông trở thành công dân Hoa Kỳ, ông chuyển tới Springfield cùng tiểu bang. Ông làm nhân viên phân tích điện toán (computer analyst) cho Sở Hỏa Xa Hoa Kỳ (Association of American Railroads) trong 10 năm cho tới khi ông về hưu năm 1994.
Mặc dù kết quả của cuộc chiến tại Vùng I và cuộc sụp đổ sau đó của miền Nam VN, danh tiếng của ông Trưởng không thay đổi. Trong hồi ký năm 1992, Tướng Norman Schwarzkopf đã gọi Tướng Trưởng là “vị tư lệnh chiến thuật sáng giá nhất mà tôi được biết”. Ông viết, “Chỉ hình dung địa thế và rút kinh nghiệm chiến đấu chống địch quân trong mười lăm năm của mình, Tướng Trưởng đã chứng tỏ khả năng phi thường (an uncanny ability) tiên đoán những gì địch quân sẽ thực hiện.”
Tướng Schwarzkopf viết: “Ông ấy trông không có vẻ một thiên tài quân sự (a military genius): chỉ cao có 5 feet 7 (khoảng 1m70)… rất gầy, vai xuôi và cái đầu dường như quá khổ so với thân mình… Gương mặt dài và nghiêm nghị… và luôn luôn ngậm điếu thuốc trên môi. Tuy nhiên ông được các sĩ quan và binh sĩ kính nể và những tư lệnh Bắc quân biết khả năng của ông sợ hãi.
Không giống một số tướng lãnh Miền Nam, những người đã trở nên giầu có cùng với sự thăng tiến cấp bậc, ông Trưởng ngay thẳng và theo một người bạn thân của ông thì ông sống một cuộc sống “khắc khổ” (spartan and ascetic life). Trung Tướng Cushman cho biết Tướng Trưởng không có một bộ đồ vest, và vợ ông nuôi heo trong khu nhà khiêm tốn của ông trong doanh trại ở Cần Thơ. Tướng Cushman mô tả Tướng Trưởng, “Ông ấy rất sáng tạo và luôn luôn tìm cách cải thiện đời sống binh sĩ và gia đình họ.”
Một con người khiêm tốn, ông Trưởng là một người không ích kỷ, dốc lòng cho binh nghiệp. Ông hết lòng với thuộc cấp, và nổi tiếng trong việc chăm sóc binh sĩ, thường bay trong lửa đạn để tới đứng với binh sĩ trong mưa và bùn lầy trong lúc bị địch quân tấn công. Ông đối xử với mọi người như nhau và không dành đặc ân cho ai. Có câu chuyện kể rằng ông từ chối đáp ứng một yêu cầu đưa người cháu gọi ông bằng bác ruột về đơn vị không chiến đấu, để rồi sau đó người cháu của ông đã hy sinh tại mặt trận.
*
Ghi chú: JAMES H. WILLBANKS là Giám đốc Khoa Lịch Sử Quân Sự tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ tại Căn Cứ Fort Leavenworth, Kansas. (director of the Department of Military History at the U.S. Army’s Command and General Staff College at Fort Leavenworth, Kansas). Ông là một cựu sĩ quan bộ binh trong 23 năm, đã trải qua cuộc bao vây bằng pháo binh khốc liệt dài hai tháng tại An Lộc trong cuộc Tấn Công Đông Xuân (Easter Offensive) của Bắc quân vào năm 1972.
*
Có một số ý kiến phản hồi của các độc giả gốc Việt cũng như người sắc tộc khác. Người dịch chỉ dịch vài ý kiến tiêu biểu của mấy độc giả người sắc tộc khác dưới đây:
- Robert Valenzuela viết: Một tấm gương tốt của một vị chỉ huy và một quân nhân thực sự. Đã sống hiểm nguy ngoài mặt trận như các thuộc cấp. Ước gì Việt Nam có nhiều người như ông…
- Cav Advisor viết: Tôi đã có may mắn được phục vụ với tư cách cố vấn tại Thiết đoàn 7 kỵ binh thuộc Sư đoàn 1 BB-VNCH khi Tướng Trưởng làm tư lệnh. Ông ấy là một vị tư lệnh xuất sắc (superb leader). Tôi luôn luôn kính trọng nhớ mãi những kỷ niệm với ông.
- Robert Branson viết: Tôi có may mắn đặc biệt được thuyết trình cho Tướng Trưởng tại Quận Kế Sách, tỉnh Ba Xuyên. Ông là người hiểu biết, chú ý và ngay thẳng với lỗi lầm. (honest to a fault). Quan trọng hơn nữa, ông đối xử với các sĩ quan trong đơn vị và các sĩ quan tham mưu của ông cùng một tiêu chuẩn.
Ghi chú:
(1): Tác giả có sự lầm lẫn ở đây. Sau khi tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, Quân Lực VNCH được lệnh không tái chiếm lại vùng đất bên bờ bắc sông Thạch Hãn. Từ đó tới sông Bến Hải cũng còn xa khoảng 30 km trong khi vùng Phi Quân Sự chỉ cách sông Bến Hải có 5km thôi, cho nên QLVNCH không tái chiếm lại những căn cứ hỏa lực dọc theo vùng Phi Quân Sự như tác giả viết (ghi chú của Nguyễn Tường Tâm).
(2): yo-yo: a stupid or foolish person (Merriam-Webster’s Dictionary and Thesaurus).
© Nguyễn Tường Tâm
© Đàn Chim Việt
Nếu Tướng Ngô-Qyang-Trưởng Chỉ-huy Tướng Hoàng-Xuân-Lãm thì cục-diện chiến-trường tại Vùng I Chiến-thuật lúc bấy giờ không tồi tệ như vậy. Cuộc hành-quân Lam-Sơn 719. Nếu Trưởng Phòng 2 Quân-Đòan I/V1CT có chuyên-nghiệp tình-báo thì “Ước tính tình-báo đã không làm cho Tư-lệmnh Chiến trường Tướng Lãm bại xuội” Trong phần trách nhiệm phân chia về không yểm cho HQ/LS 719 do Mỹ đảm nhiệm ( Hành-quân vượt biên khả-năng không yểm có thể quyết-định thắng bại) Mỷ có làm trách-nhiệm mà Mỹ cam-kết yểm-trợ không-yểm 100% không !!! ? Di tù 10 năm không ân-hận hay buồn phiền gì cả. Chỉ uất thôi. Các vị nào phê phán, đánh giá QLVNCH thế nào cũng không đúng, cũng đúng cả… Hiện tình bây giờ trên quê-hương Nước Việt chưa chứnh-minh được Ai thắng Ai đây ? Mặc dù đã rỏ ràng Việt-cọng đã thua VNCH về mặt-trận kinh-tế…Việt Cọng đã, đang di theo Kinh-tế thi-trường của VNCH trứơc đây cho dến bây giờ vẫn chưa hoàn-chỉnh bàng VNCH… Vì xấu hổ Việt-cọng ngụy-tao gọi là “ĐỔI MỚI” Kinh-Tế là cái Ghế của Chính-Trị Việt-cọng dù có cố gắng niếu kéo cách nào đi nữa cũng không giải nghĩa và chứng-minh được “Kinh-tế Thi-trường hướng theo Xã-hội chủ-nghĩa” là thế nào ? Hướng theo XHCN mà Việt-cọng đang xử dụng chính là che đậy đã thua thề chế Chinh-tri của VNCH trước năm 1975. Việt-cọng che đậy được bao lâu nữa đây ?
To nguoi viet nam say:noi nhu may anh ‘lich su la lich su o the thay doi’ dung vay,nhu vua Quang Trung du co thua Nguyen Anh(do N Anh cau vien ngoai bang,giong may ong XHCN cau vien nhau hoi chien tranh VN nen thang va khoa khoang kieu ngoai,tuong minh gioi),nhung doi nay ngta van noi lai lich su va nguong mo,dat ten duong vua QT do.Noi hon ma da chet la loi noi tho thien cua nguoi thien can,o nhin xa va o biet gi lich su het,chang le dang cong san moi co 60 nam lanh dao ma co dam chac minh lanh dao den 100 nam khong! (BBT: Mời ông bà vào vpskeys.org tải phần mềm tiếng Việt)
Nói gì thì nói,nếu chúng ta thẳng thắn và công minh nhìn vào Sự thật và chấp nhận sự thật thì mới là người chính nghĩa.Còn như khăng khăng chối bỏ nó thì là người Bảo thủ!Riêng tôi chỉ cần nêu 2 điểm để đánh giá trung thực nhất.Đó là:1/Hiêp Định Geneve 7/1954 và Hiệp Định Paris 27/01/1973 phía cầm quyền HN thực thi ra sao??Có làm đúng như đã ký không???Đó là giấy trắng mực đen còn rành rành ??Tại sao TS.Luật CHHV đòi hủy điều 4 HP và Đa Đảng,Trưng Cầu Dân Ý có sự Giám sát của Quốc tế??2/-Ngay Công Ước Quốc Tế và Hiến Chương LHQ khi VN tham gia ký kết thỏa thuận năm 1982 có thực hiện đúng không??Lịch sử là cái gì??Ai ghi chép??Công Hàm cắt đất,nhường biển cho TQ ai ký???Thế mà còn nói ngược nói xuôi,chối leo lẻo thì còn gì nữa??!Hơn nữa kho tàng Văn Học VN và tục ngữ,ca dao có rất nhiều câu nói thâm thúy như TS.Vũ nói:Cướp đêm là giặc,cướp ngày là Quan,hay là Bay Chết mặc bay Tiền Thầy(Quan)bỏ túi!!Tướng ,Quan thì đều như nhau Chỉ Huy,Lãnh Đạo mà thôi??Còn riêng thế hệ 75>90 thì biết gì về lãnh vực Quân sự với Các Tướng Lãnh VNCH?Riêng Tôi thì:Nhất Thắng,Nhì Trinh,Tam Thanh,Tứ Trưởng đấy có hiểu hay không thì tìm Tư Liệu mà xem,đọc chứ đừng Ăn càn Nói bừa trên diễn đàn mà mọi người cho là Đầu óc Bã Đậu.Biết thì thưa thốt,không biết thì dựa cột mà nghe!Thành ngữ của Cha Ông ta nói đấy!Mở căng óc ra mà suy gẫm rồi nói.Cuối cùng, giải nghĩa giùm tôi cái XHCN(CNXH)nó như thế nào và Berlin,Liên Xô sao không giữ mà bị sụp đổ???Mong lời giải thích thuyết phục nghe Người VN.Saigon,19h00′.
Ông “Người Việt Nam” viết:
“Chỉ độ vài năm gần đây, chính các anh đã tuyên truyền rất nhiều trên các website, nhất là trên youtube.com, ngay cả diễn đàn này đã đang và sắp trở thành diễn đàn của những kẻ bại trận trong cuộc chiến nhằm đánh bóng, tôn vinh cho một thể chế đã chết.Hận thù một cách mù quáng những người là đảng viên CS, hay những thay đổi tuy rằng chậm như có chiều hướng tích cực đi lên của đất nước Việt Nam trên hầu hết các lĩnh vực
Càng có nhiều người như các anh dĩ nhiên càng có nhiều người như chúng tôi ở thế ngược lại. Đó là bất đắc dĩ thôi!”
Ông hiểu lầm. Chính ông là người tuy thắng trận mà giọng đến ngày hôm nay, vẫn đầy hận thù. Những điều các ông đối xử với người miền Nam chúng tôi, sau năm 75, là biểu tượng đầy hận thù.
Thời gian, sức lực của chúng tôi còn dành để đi làm, nuôi gia đình, không dại gì mà đem hận thù các ông một cách vô ích.
Tôi thương tiếc những người lính binh nhì miền Nam đã chết để bảo vệ quê hương của họ; nhưng tôi không thương tiếc ông Thiệu, ông Khiêm, ông Kỳ, mà ngày xưa các ông gọi là “thằng” Kỳ và bây giờ các ông gọi là “tướng” Kỳ.
Tôi nghĩ, chúng ta nên vứt ông Hồ, ông Thiệu, ông Kỳ vào xọt rác lịch sử; quên họ đi và làm lại lịch sử nước Nam từ đầu. Họ đã gây quá nhiều đau thương cho nước ta; họ đã làm quá nhiều điều sai lầm.
Ngày xưa, tôi phải bịt mũi, không biểu tình chống ông Thiệu vì làm như vậy chỉ lợi cho các ông CS bắc Việt; hơn nữa tôi không thể phản bội những người bình nhì QLVNCH đang chết ở chiến trường cho tôi được ngồi học yên ổn.
Tôi không mù quáng hận thù các ông vì truyện ngày xưa, nhưng tôi lạnh lùng, sáng suốt tranh đấu chống các ông vì những điều ngang trái các ông làm ngày hôm nay. Cũng như cái thiện phải muôn thủa chống cái ác.
Chính phủ của các ông, NGÀY HÔM NAY, là một chính phủ độc tài, công an trị, tham nhũng, bất tài, phản nước,phản dân; đó là lý do, NGÀY HÔM NAY, chúng tôi chống các ông.
Nước ta, dưới sự cai trị của các ông, là nước chư hầu của Trung Hoa,mất biên giới, mất đảo, mất biển, bị vây tứ phía, từ Ai Lao, Căm bốt bên phía tây, đến Biển Đông bên phía đông; chính trị nước ta đặt dưới sự chỉ đạo của 4 cái tốt, 16 chử vàng của Bắc Kinh; trên phương diện chính trị, kinh tế, nước ta phụ thuộc Tầu; trên phương diện quốc phòng, ta bị bao vây. Trung Hoa chỉ cần lấy nước sông Mekong và xây thêm vài đập trên sông này là dân ta đói, và nước sông bị ô nhiễm. Tóm lại Trung Hoa đã làm chủ nước ta mà không cần phài đem quân sang đánh dưới như thời phong kiến.
Trong nước thì nhân tài, một là bỏ chạy, hai là vào tù; thử hỏi bao giờ các ông mới nhìn thấy sự thật; hay các ông là loài mà người Nam chúng tôi gọi là “điếc không sợ súng”.
Tôi nghĩ, ông là loại đảng viên tép riêu nên chưa nhìn thấy, nên tôi phải viết cho ông rõ, chứ 14 tên trong BCT của ông, chúng biết rõ từ lâu rồi, nhưng bàn tiệc của chúng đang vui, cơm chúng đang ngon, tiền vào túi như nước, nên chúng “cóc” cần.
Sự thật mất lòng, ông thông cảm cho.
-Diễn đàn này không của riêng nick Người Việt Nam và tôi cũng mong bạn sống đến 100 tuổi xem lịch sử sẽ như thế nào?riêng tôi, nếu diễn đàn này còn, người Việt lưu vong ngày càng đông, bạn NVNam hãy xem chúng tôi và thế hệ mai sau sẽ kính trọng những anh hùng như tướng Ngô Quang Trưởng như người Mỷ kính trọng cố tổng thống Regan muôn đời, bạn đã quá ấu trĩ khi nhận định rằng phần đông người trong nước thì vô nghĩa, thờ ơ,vi phạm hiệp định, dùng vũ lực thôn tính và dối trá về “học tập cải tạo” và bịt miệng cả dân tộc cũng không có nghĩa toàn dân không biết gì,đến cả những công thần còn không dám nói, mà có nói cũng chẳng ai tôn trọng thì bạn nghĩ là thờ ơ à, 1 nhóm người , nhiều nhóm nguời thương tiếc kính trọng, nhắc hoài cũng phải thông báo đến bạn à!! hì hì…,nhạc tiền chiến, nhạc trữ tình, nhạc lính còn nghe, còn hát karaoke trong dân gian, cán bộ cũng ghiền luôn mà bây giờ lan ra tới biên giới Tầu cộng cũng phải xin bạn à.
-Trong hoàn cảnh lòng dân đang căm phẩn sự thối nát của đảng CSVN thì những gì tốt đẹp nhất của chế độ VNCH từ người dân miền Nam, người bị CSVN lường gạt và lớp trẻ sau này sẽ nhớ mãi, sẽ tìm hiểu thì bạn nghĩ chính thể này bị phai mờ theo thời gian à! chỉ có những người sợ bị mất quyền lực như đảng CSVN mới điên cuồng phát ngôn bừa bãi không sợ trẻ em nó cười cho thối mặt.
-Đã nói là diễn đàn tự do, nếu thích thì bạn cứ post những chủ đề ca ngợi đảngCSVN, ca tụng những người khác lên đây để đọc giả nhận xét, bạn nói nhà nước CSVN ngày càng lớn mạnh bằng nòng súng, bằng bạo lực với nhân dân là danh dự hay bị phỉ nhổ vậy? bạn có gan kêu gọi cái đảng thổ phỉ này trưng cầu dân ý dưới sự giám sát của liên hiệp quốc để xem dân Việt trên toàn thế giới còn thích đảng bao nhiêu % thì tôi mới sợ, còn nếu cứ xử dùng luật rừng và đem 700 tờ báo lá cải đó ra đánh bóng cho đảng thì không có gì hèn hơn bản lĩnh của 1 đảng phái luôn tự hào đã đánh đuổi đế quốc sừng sỏ.
-Cuối cùng tôi muốn nhắc để bạn hiểu thật rõ là cho dù CSVN đã ngốn tiền thuế của dân để thực hiện cái nghị quyết 36 lố bịch trong thời gian dài vừa qua thì cho đến bây giờ có được 1 tổ chức nào thực sự của đảng công khai tiếp xúc với khúc ruột ngàn dặm chưa hay vẫn chỉ là lãnh sự quán, đại sứ quán trốn mất biệt trong các văn phòng,mua chuộc, gài bẫy bọn biến chất tham tiền nằm vùng để phá hoại cộng đồng! chính nghĩa vĩ đại thế cơ à!!!! và nhất là các tà khách VN mỗi lần công du ra nuớc ngoài đã được cái gọi là kiều bào đón tiếp ra sao ?, bạn NVNam ơi, tôi và hầu hết những nạn nhân của CSVN không hề có tư tưởng , hành động gây chia rẽ dân tộc VN để thế giới lợi dụng và nhục thể,nhưng đảng CSVN không xứng đáng để lãnh đạo dân tộc VN thì không có lý do gì chúng tôi phải hợp tác với họ.
Cái ông/bà “Người Việt Nam” nào đó chắc là mang trong lòng sự thù hằn hoặc ghen ghét đối với quân đội Việt Nam Cộng Hoà đến mù quáng, cho nên đọc bài này mà không hiểu đây là bài dịch từ “bài báo của Giáo Sư cựu chiến binh tại chiến trường An Lộc, James H. Willbanks, công bố ngày 15/10/2007 trên chương trình truyền hình Lịch Sử Hoa Kỳ băng tần C-SPAN3 (HistoryNet.com C-SPAN3 AMERICAN HISTORY TV). http://www.historynet.com/the-most-brilliant-commander-ngo-quang-truong.htm” mà dịch gỉa đã ghi chú ở đầu bài, vì thế nó mang phần nào tính trung thực của sự việc, của con người ông Ngô Quang Trưởng, không phải là một bài viết xưng tụng láo khoét của mấy ông Việt cộng trong đảng cs xưng tụng lẫn nhau.
Tôi 13 tuổi khi cuộc chiến hai miền Nam Bắc xãy ra, bây giờ khi muốn tìm hiểu về cuộc chiến tranh ấy thì tôi tìm đến sách báo, những bài báo như vầy, theo tôi nó hữu ích cho tôi và những người trẻ muốn biết về cuộc chiến hoặc về quân đội VNCH. Cũng như nếu có những bài viết đúng đắng về quân đội miền Bắc thì đó là những tư liệu để tìm hiểu một phần về cuộc chiến. Tuy nhiên đọc tài liệu và tin vào tài liệu thì còn phải tìm hiểu thêm.
Tuổi thiếu niên tôi đã từng sống với những con em, và thậm chí những người đi lính cho chế độ cũ. Nhưng tôi chưa bao giờ có ý xúc phạm, miệt thị dưới bất kì hình thức nào. Vì đó là một hoàn cảnh éo le, tang thương của lịch sử mà tôi chắc chắn rằng bất kì người Việt Nam nào dù đã từng cầm súng ở một phía nào cũng đều bất đắc dĩ.
Chỉ độ vài năm gần đây, chính các anh đã tuyên truyền rất nhiều trên các website, nhất là trên youtube.com, ngay cả diễn đàn này đã đang và sắp trở thành diễn đàn của những kẻ bại trận trong cuộc chiến nhằm đánh bóng, tôn vinh cho một thể chế đã chết.Hận thù một cách mù quáng những người là đảng viên CS, hay những thay đổi tuy rằng chậm như có chiều hướng tích cực đi lên của đất nước Việt Nam trên hầu hết các lĩnh vực
Càng có nhiều người như các anh dĩ nhiên càng có nhiều người như chúng tôi ở thế ngược lại. Đó là bất đắc dĩ thôi!
Tôi đã thấy có những tín hiệu khả quan rằng giờ đây trong nước không có tuyên truyền cực đoan như trước nữa, ngôn từ nó đã giảm nhẹ dần dần, ít nhiều đã có giao tiếp-làm ăn buôn bán…mọi chuyện từ từ sẽ nhẹ nhàng đi.
==========
Tôi nói một ví dụ:
Những sách báo cũ chính thống của trong nước trước đây khi viết về các vua triều đại Nguyễn, với lời lẽ hết sức bôi nhọ, phủ nhận toàn bộ công trạng của Chúa Nguyễn và các vua Nguyễn sau này. Nhưng đần dà những người tìm hiểu lịch sử, và ngay cả những sử gia chính thống cũng phải nhìn nhận đại công của Chúa Nguyễn và các vua Nguyễn sau này (ví dụ: Hoàng Sa-Trường Sa). Họ không phải không yêu nước, nhưng mà bất lực trước sức mạnh của thực dân Pháp nên có người buông xuôi, có người phản kháng.
Cái gì cũng phải từng bước, có giai đoạn….các anh cứ tuyên truyền một chiều, cực đoan tự nhồi sọ lẫn nhau chỉ có phản cảm cho người trong nước mà thôi.
========================
Làm gì thì cũng nên nghĩ cho đại cục, tương lai của nước Việt Nam và cho thế hệ sau này, chứ đừng vì cá nhân nhỏ bé. Thế hệ sau này sẽ là những người phán xét lịch sử!
Các anh có cố tôn vinh thì chỉ độ 10-15 năm nữa các anh cũng chẳng còn ai để mà tung hộ một cái quân đội/chế độ đã trở thành hồn ma trong lịch sử đau thương của dân tộc.
Nó chỉ còn là một quá khứ oai hùng thì ít mà cay đắng thì nhiều với các anh mà thôi. Chứ với phần đông người trong nước thì vô nghĩa/thờ ơ.
Đừng đánh bóng lại một cái hồn ma đã chết cách đây 36 năm, càng viết nhiều, càng thấy nước nhà lớn mạnh do ĐCS lãnh đạo thì các anh càng cay đắng, càng hận thù mà chống cộng cho đến chết thôi.
Hãy nghiệm lại điều tôi nói sau 10-15 năm nữa, nếu ai đó còn sống đến thời gian đó!
Sự thật xin hãy để phô-bày trước công-luận,phản- biện là quyền của mọi người.Tuy nhiên,nếu khách-quan và đừng cố cãi chầy cãi chối cứ cho rằng tất cả caí gì,điều gì của đảng và nhà nước ta đều đúng thì e rằng cái lối mòn suy-nghĩ công-thức,nghe ngóng một chiều;giống như con ngựa bị bịt mắt,con cá(của”bác Hồ”) được vổ tay cho ăn hoặc tệ hơn nữa như con chó Palov.
Người cần phải được tự-do bày tỏ và còn điều quan -trọng hơn nữa là,con người phải biết suy-luận.
Tra loi ho ban Người Việt Nam:
“Các anh có cố tôn vinh thì chỉ độ 10-15 năm nữa các anh cũng chẳng còn ai để mà tung hộ một cái quân đội/chế độ đã trở thành hồn ma trong lịch sử đau thương của dân tộc.”
Dung roi !! chi do 10-15 nam nua chang con ai de tung ho, vi chung toi da chet va nuoc Viet cua con chau Lac Hong da thuoc ve Tau, hoac la khu tu tri duoi su lanh dao cua Tau, la dong chi anh em cua cac ban.
Cần gì đợi lâu vậy. Một ngày gần đây, rồi sẽ có những đại lộ, những con đường, những công viên…ở Sàigòn mang tên những liệt sĩ VNCH như Ngô Quang Trưởng, Hồ Ngọc Cẩn, Ngụy văn Thà, vv. vv Lịch sử chân chính không bao giờ quên, chỉ có cái lịch sử bóp méo của XHCN thì đem các danh nhân VN như Trưng nữ Vương và Lý Công Uẩn lết xuống bùn của Tàu cộng!!
Cuộc chiến tương tàn – cuộc lưu vong
XIN ĐỌC LÀ :
Cuộc lưu vong sau tương tàn cuộc chiến ….
Khi đất nước nguy hiểm đến cùng tột; mới biết ai là kẻ ANH HÙNG; với tinh thần chiến đấu của Tr.T Ngô Quang Trưởng; nếu lúc Mỹ đã có ý bỏ miền Nam VN để đổi lấy MỘT LỐI THOÁT cho Mỹ vớ QTCN. Nhưng nếu TR. NQT là quyền Tổng-Tư Lệnh/ VNCH; thì tôi tin rằng miền NAM VN không mất vào tay VI-Ci sớm như thế đâu. Mà cao lắm thì Tướng Trưởng vẩn cố thủ được VUǸG IV đến khi KHỐ CSLIÊN SÔ tan vỡ. Dĩ nhiên; Pháp hay Mỹ sẽ biến MNVN trở thành nước TU-DO và ĐỘC LẬP như Cămbốt ngày nay.
Ngược lại; Nguyễn văn Thiệu lúc đó như thằng điên he is like yo-yo; chỉ biết bảo vệ mạng sống,và gia đình để trao cái chết; cái khó cho kẻ khác. Rồi lên máy bay riêng cút trốn qua Dailoand.
Rất tiếc thương cho những người HÙNG dù HỮU DANH hay chiến sĩ VÔ DANH đã hy sinh nằm xuống quá đau thương; sau khi CSVN chiếm trọn miền nam với sự trả thù VÔ NHÂN ĐẠO; còn hơn bọn cướp TÀU CỘNG.
Khi toi cang nghien cuu ve vi tuong nay, NQT toi cam dong vo cung, va cang thay dang kinh phuc cho mot vi tuong Mien Nam, Viet Nam va chinh ca dong minh cua minh la cac tuong Hoa Ky da khong het loi khen phuc va kinh ne. XIN HA MU KINH CHAO mot nguoi qua co, mot tinh hoa cua con chau Lac Hong.