WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Cuối tháng 3/75 tuyến đầu thất thủ [2]

Tiếp phần [1]

rut khoi da nangNguyên nhân và hậu quả

Phạm Huấn nói:

“Tại những địa điểm tập trung quân, vô cùng hỗn loạn, đau thương khủng khiếp. Và hai Cửa Thuận An, Tư Hiền thật sự biến thành những “bãi chết”, trong vùng “Biển máu”

(Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 58).

Theo ông triệt thoái vội vã, không có kế hoạch, lịch trình, sự phối hợp Quân đoàn và Hải quân lỏng lẻo, cuộc lui binh cũng hỗn độn y như cuộc triệt thoái Cao nguyên,  nó cũng chỉ là cuộc hành quân phá sản.

Cuộc rút quân đã rối loạn, hỗn độn và thất bại ngay khi bước sang ngày thứ hai, 24-3-1975. Hệ thống chỉ huy, phối hợp giữa các đơn vị, vấn đề an ninh, tổ chức thật tồi tệ và bị tê liệt từ lúc khởi đầu. Các cấp chỉ huy ở những cấp cao nhất và có trách nhiệm về cuộc rút bỏ Huế, đã không thành thật với nhau, phản bội, dối trá và bỏ rơi cấp dưới.

Kế hoạch rút quân bằng đường biển, với hơn 20 ngàn Chủ lực quân, hàng mấy trăm chiến xa, đại bác, cùng với cả trăm ngàn dân chúng, các lực lượng địa phương quân, công chức và gia đình họ, nhưng hai cửa Thuận An và Tư Hiền không được phòng thủ bảo vệ. Sự phối hợp và chỉ huy giữa Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn và hải quân thật lỏng lẻo. Không có lịch trình lên tầu ưu tiên, rõ ràng cho các đơn vị. Các đơn vị Quân Đội và dân chúng cứ tiếp tục đổ về hai cửa biển này để rồi chết chồng chất lên nhau”

(Phạm Huấn, sách đã dẫn, trang 57)

Nói về nguyên nhân sự sụp đổ nhanh chóng của Quân đoàn I, ông  Cao Văn Viên, cho rằng do sự rối ren của ta và nhất là lệnh của TT Thiệu không rõ ràng dứt khoát.

“Với cán cân lực lượng và địa hình thuận lợi cho CSBV, Vùng I, lực lượng VNCH không thể nào chống cự lâu dài trong cuộc tổng tấn công của địch. Nhưng phải nói, tình hình quân sự xấu đi một cách nhanh chóng vì sự sa sút tinh thần và những rối ren, lúng túng của ta, hơn là áp lực địch. Lệnh tái phối trí – tuy cần thiết – không rõ ràng và dứt khoát”

(Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 183)

Theo Tướng Viên binh sĩ nhiều người bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình trong làn sóng người tỵ nạn, họ quan tâm lo lắng về gia đình mình hơn là lo về đơn vị và sự tấn công của CS. Làn sóng người di tản làm náo loạn cả lên đã là một trong những nguyên nhân gây ra sụp đổ nhanh chóng cho cả Quân khu.

“Sự hỗn loạn, thất bại của cuộc tái phối trí ở vùng Một xảy ra không phải vì áp lực của Cộng quân, mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Trong những ngày cuối cùng ở Vùng I, vị tư lệnh Quân đoàn không chỉ đối phó với những khó khăn về quân sự, ông còn bận tâm với vấn đề tỵ nạn. Và khi chánh quyền trung ương bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ. Như chúng ta thấy, vấn đề tị nạn làm đảo lộn tất cả kế hoạch quân sự của Vùng I.”

(Cao Văn Viên.  Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 184,185.)

Chúng ta thấy ông Cao văn Viên có nhiều mâu thuẫn, ông cho biết lực lượng địch tới hơn 8 sư đoàn (trang 160),  gấp hai lần VNCH, ta không thể cầm cự lâu dài được, coi trên bản đồ ngày 19/3 (trang 166) ta chỉ còn kiểm soát được chưa tới 1/3 diện tích Quân khu I. Trong khi tại phía Bắc QK I phải rút từ Huế về Đà Nẵng, các tỉnh phía Nam Quân khu (Quảng Ngãi, Quảng Tín) đều phải hối hả rút về Chu Lai vì bị BV tấn công dữ dội mà ông lại nói không phải vì áp lực địch. Chẳng lẽ sự tấn công ồ ạt theo thế gọng kìm trên đánh xuống dưới đánh lên của BV không phải là áp lực gây hỗn loạn cho quân dân miền nam.

Tác giả Nguyễn Đức Phương (Sách đã dẫn trang 762, 763, 764) cho rằng Quân khu I thất thủ dễ dàng không có một lực lượng nào được tổ chức để đánh trì hoãn khi lui binh, theo ông có 4 nguyên nhân chính.

-Lực lượng Cộng Sản tại Quân khu I trội hơn nhiều so với sự phân tán mỏng của ta. Kế họach lui binh về các cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai có thể đúng tuy nhiên TT Thiệu chỉ chấp nhận lui binh cho đến giờ phút chót. Đến khi đã quá muộn ông lệnh cho Tướng Trưởng chỉ rút Sư đoàn TQLC còn tất cả bộ binh, thiết giáp, pháo binh đều bỏ lại, không có một kế hoạch nào để phối hợp Hải Lục Không quân trong trường hợp lui binh, hoàn toàn không có một sự tiên liệu nào.

-Ông Thiệu sai lầm trầm trọng khi cho rút Sư đoàn Dù về Vùng III quá nhanh, TQLC được đưa vào thay thế các vị trí của Nhẩy Dù khiến cho dân chúng hốt hoảng đổ dồn về Đà nẵng gây ra hỗn loạn. Đã phát thanh lời kêu gọi tử thủ Huế củaTổng thống sau lại cho lệnh bỏ Huế khiến  dân chúng hoang mang mất tin tưởng vào chính phủ và quân đội, binh sĩ cũng mất tinh thần, hốt hoảng khi trông thấy trước nguy cơ sụp đổ như đã diễn ra tại Vùng II.

-Chiến tranh tâm lý có lẽ là nguyên nhân quyết định sự thất thủ Quân khu 1, tin đồn cắt đất nhường cho CS dồn dập từ Vùng II, nay Huế bỏ ngỏ khiến cho dân quân càng tin là đúng, dân di tản náo loạn cả lên, quân nhân bỏ hàng ngũ để tìm kiếm gia đình khiến cho đơn vị rã ngũ nhanh chóng.

-Hệ thống chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân đoàn I đã không chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn khó khăn của cuộc lui binh, thiếu khả năng vô trách nhiệm là nguyên nhân chính khiến cho kế hoạch lui binh không thể thực hiện được. Vị Tư lệnh Quân đoàn thiếu khả năng điều động một bộ tham mưu hỗn hợp như Phạm Huấn đã viết.

Cũng theo Nguyễn Đức Phương nhiều sĩ quan cao cấp của Quân đoàn I mất tinh thần đào ngũ bỏ chạy, thiếu cấp chỉ huy các đơn vị lần lượt tan hàng, Cộng quân chiếm được đất mà không phải giao tranh.

Phạm Huấn nhân định rằng các Tướng Việt Nam gặp trở ngại khi lãnh đạo đất nước cũng như chỉ huy mặt trận.

“Một viên chức cao cấp của Mỹ, sau này đã phát biểu về cuộc rút quân tại Huế và Đà Nẵng:

‘Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, hầu như không ai có đủ kinh nghiệm, để tự mình có thể chỉ huy một cuộc hành quân qui mô với nhiều đại đơn vị trên chiến trường!’.

Sự sụp đổ mau chóng của Quân Đoàn I, vỏn vẹn trong 9 ngày, sau quyết định rút bỏ Huế lần thứ hai ngày 20-3-1975, đã làm kinh ngạc mọi giới. Những người ngưỡng mộ và kính phục Tướng Ngô Quang Trưởng đều nghĩ rằng, sự thảm bại này là hậu quả của quyết định sai lầm, trong chiến lược “Đầu bé Đít to’ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Nhưng theo thời gian, những bí mật được tiết lộ, Tướng Trưởng cũng là người phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất đối với những đau thương, kinh hoàng trong hai cuộc rút quân tồi tệ, thê thảm từ Huế và Đà Nẵng”

(Sách đã dẫn, trang 103, 104.)

Cuộc triệt thoái tại hai quân khu đều đã xẩy ra những biểu hiện tiêu cực của nhiều sĩ quan cao cấp bỏ đơn vị chạy, cả một quân khu không có ai chịu trách nhiệm.

“Kể từ ngày 15-3-1975, hệ thống chỉ huy tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I của Tướng Lâm Quang Thi và các Tư Lệnh Mặt trận 2 chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên đã không còn giữ đúng với trách nhiệm, quyền hành và vai trò của mình nữa. Không một Tướng Lãnh, một giới chức Quân sự cao cấp nào dám nhận trách nhiệm khi cần ban hành những quyết định quan trọng. Trung tá Đào Trọng Vượng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân nói rằng: ‘Họ lặn hết. Tất cả những lệnh đều do các Sỹ quan Phòng Nhì, Phòng ba, cấp Thiếu Tá chuyển lại’.

Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân từ Quảng Ngãi ra thay thế Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, phòng thủ tuyến đầu Vùng Giới Tuyến. Lực lượng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân với quân số 100 phần trăm, và Pháo Đội đại bác 105 ly khoảng 1500 người, từ ngày đầu tiên, cho đến ngày rút quân 23-3-1975, gần hai tuần lễ, không nhận được bất cứ một lệnh chính thức nào của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I, hoặc Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến”

(Phạm Huấn sách đã dẫn, trang 41.)

Nguyễn Đức Phương cùng một nhận xét như trên.

“Theo lời của Đại tá Nguyễn Huy Lợi thuộc Biệt Khu Thủ đô thì một số sĩ quan thuộc Quân đoàn I chạy thoát được về Sài Gòn cho biết tình trạng của quân đoàn như sau ‘Cấp tiểu đoàn không biết họ phải làm gì. Trung đoàn trưởng của họ đã đi mất và chính họ không biết phải đi đâu và  không ai chỉ thị cho họ biết những gì phải làm. Sau quá nhiều chán nản tuyệt vọng, không một ai chịu trách nhiệm cho cả quân khu”

(Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 764, 765)

Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng cho rằng việc cấp chỉ huy bỏ đơn vị chạy trước là một nguyên nhân đưa tới sụp đổ Quân đoàn I, theo ông tại đây cấp chỉ huy không quân nhiều người đã lên trực thăng bay về phía Nam bỏ cấp dưới ở lại.

Sự thực khó thể chối cãi được là áp lực và hỏa lực vô giới hạn của BV đã khiến quân đội VNCH phải rút bỏ nhiều tỉnh, quận để co cụm lại lập phòng tuyến mới nên càng bị mất tinh thần. Các cấp chỉ huy không thấy một tia ánh sáng nào, ngay cả TT Thiệu cũng đã mất tinh thần rối trí chứ đừng nói các cấp thuộc hạ. Biết là tình thế không thể cứu vãn nổi nên nhiều người đành phải chọn kế “tẩu vi thượng sách”.

Theo ý kiến Tướng Toàn (trang 405, Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975), mặt trận Trị Thiên bỏ ngỏ vì TT Thiệu đã chủ trương rút bỏ những vùng rừng núi ít dân để bảo vệ những vùng trù phú. QK I chỉ giữ tới Đà Nẵng. Đó là một quyết định tai hại là nguyên nhân chính đưa tới thảm kịch như trên. Trang 407 ông nói đài BBC bình luận miền nam VN có thể sẽ chia cắt ngang từ vĩ tuyến 13, miền nam khó có thể tồn tại được, nguồn tin đã thúc đẩy quân dân hối hả chạy về phương nam. Quân đoàn II bị thảm bại trên đường triệt thoái cũng đã ảnh hưởng nặng đến tinh thần QK I. Sáng ngày 20/3, TT Thiệu đã tuyên bố tử thủ Huế đến chiều lại cho lệnh rút bỏ khiến người dân không ai còn tin tưởng vào chính phủ.

Phải nói đài BBC tuyên truyền xuyên tạc với mục đích phá hoại hơn là loan tin cũng là một trong những nguyên nhân chính đưa tới thảm cảnh hỗn loạn, tháo chạy tại miền Trung.

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, người đóng vai chính tại chiến trường Hoả tuyến có viết sách về cuộc chiến Mùa hè đỏ lửa 1972 nhưng không thấy, không nghe  nói ông viết sách về sự sụp đổ Quân đoàn I năm 1975. Về Quân đoàn I trong trận chiến này chỉ thấy ghi lại trong một bài ngắn “Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn Một” đã đăng trên nhiều báo Việt Ngữ tại Hải ngoại từ nhiều năm qua. Nhưng bài này không phải do chính Tướng Trưởng viết ra mà do một người khác ghi lại (Lê Bá Chư, Lịch sử ngàn người viết) lời thuật của Tư lệnh nên cũng không thể coi đó là hoàn toàn ý kiến của ông.

Nội dung bài viết có nhiều điểm trái ngược với các tài liệu, sách vở nói về cuộc Triệt thoái này. Mở đầu bài viết nói.

“Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh binh chủng khác. Lần này thì chỉ một mình tôi thôi”

Theo ông Cao Văn Viên, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương và cả ý kiến của Thiếu Tướng Hoàng  Lạc, Tư lệnh phó Quân khu I thì trong các buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại dinh Độc Lập ngày 11/3, ngày 13/3 và 19-3 do ông Thiệu chủ tọa như đã nói trên đều có mặt Đại Tướng Cao Văn Viên, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng Văn quang, riêng buổi họp ngày 19-3 thì có thêm Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Tổng thống Thiệu không hề gặp riêng một Tướng nào, không nghe thấy một tài liệu nào nói như vậy. Về ngày 13/3 nêu trên, Tướng Hoàng  Lạc, phó Tư  lệnh Quân khu 1 cho biết Tướng Trưởng được mời về Sài Gòn trình bầy trước Hội đồng an ninh Quốc gia, các tài liệu của BộTTM, của Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương cũng đều nói như vậy.

Bài viết nói tiếp

“Nhưng khi tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi…..

… Tôi trình bầy cặn kẽ những ý kiến cũng như những dự định của tôi lên tổng thống nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút khỏi Quân Đoàn 1 càng sớm càng hay….

Lệnh của tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt nam sẽ thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên”

Theo Tướng Cao Văn Viên, Tướng Hoàng Lạc, tác giả Nguyễn Đức Phương… trong phiên họp ngày 13/3 TT Thiệu chỉ mới lệnh cho Tướng Trưởng rút Sư đoàn Dù về Sài Gòn và báo cáo tình hình Quân sự của Vùng I, không nghe nói ông Thiệu cho lệnh rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm 13/3 như trong bài của Tướng Trưởng. Theo ông Cao Văn Viên.

“Buổi họp ở Dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng 3, 1975 đã được thuật lại rõ ràng ở trên. Trong dịp đó tổng thống Thiệu đã cho hai vị tư lệnh quân đoàn I và III (tướng Trưởng và tướng Toàn) biết ý định sắp xếp lại lãnh thổ VNCH sao cho phù hợp với sự cắt giảm viện trợ quân sự. Tuy nhiên tổng thống Thiệu chưa cho lệnh rút quân ở bất cứ nơi nào lúc đó, trừ việc bỏ An Lộc ở vùng III. Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14 tháng 3 xảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam Ranh tổng thống Thiệu ra lệnh tái phối trí lực lượng của quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột”

(Những Ngày Cuối Của VNCH trang 162)

Theo như  Nguyễn Đức Phương đã nói ở trên, Tổng thống Thiệu chỉ chấp nhận lui binh vào giờ phút chót. Ngày 13/3 ông Thiệu chỉ thị cho Tướng Trưởng trả Sư đoàn Dù về Sài Gòn và tái phố trí lực lượng tại Quân khu I chứ chưa hề cho lệnh rút bỏ bất cứ một tỉnh nào. Cho đến ngày 20/3 khi tình hình Huế khẩn trương ông lệnh cho Tướng Trưởng tùy cơ ứng biến, có thể rút về bảo vệ Đà Nẵng nếu tình hình đòi hỏi.

Trong một cuộc nói chuyện với một nhà báo tại Hải ngoại, cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cho rằng những bài nói về ông, khen cũng như chê có nhiều điều không đúng và ông không thích báo chí nói đến mình, như vậy bài trên đây có thể chưa chắc đã nói đúng ý của vị cựu Tư lệnh Quân khu.

Trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh, Tướng Cao Văn Viên đã kết luận.

“Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim ‘Rashomon’. Một trăm nhân chứng, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hãy để cho hậu thế lượng định và phán xét”

(Lâm Lễ Trinh, Về Nguồn, trang 276).

Xem như thế sự thật chỉ là tương đối. Cũng trong bài phỏng vấn này, theo ông Cao Văn Viên, Tướng Trưởng cho biết Bộ tổng tham mưu không tăng viện theo lời yêu cầu của Quân khu I. Tướng Viên cho điều này không đúng vì ông đã tăng cường cho Tướng Trưởng cả hai Sư đoàn tổng trừ bị Dù và TQLC rồi. Bộ Quốc phòng Mỹ trả nhuận bút cho các Tướng lãnh lưu vong Việt Nam để viết tài liệu về chiến tranh Đông Dương. Trong một phiên họp thu thập dữ kiện cho Mỹ, Tướng Trưởng phát biểu sở dĩ thất bại là do lãnh đạo kém, chính phủ Trung ương thiếu nhân tài. Tướng Đồng Văn Khuyên, Trần Đình Thọ bênh vực cho Bộ TTM tranh luận trả lời ông Trưởng: Bộ Tham mưu đã yểm trợ hết mình cho Quân khu I, hai Sư đoàn Tổng trừ bị Dù và TQLC đều đã được tăng phái cho Quân đoàn I.

Như chúng ta đã biết năm 1972 cũng tại chiến trường Trị Thiên, hồi ấy VNCH có đầy đủ tiếp liệu đạn dược, được yểm trợ hùng hậu của không quân chiến thuật và pháo binh mà còn phải có yểm trợ của  B-52.  Tình hình tháng 3/1975 hoả lực VNCH bị cắt giảm 70%, áp lực và hoả lực BV lại mạnh hơn 1972 nhiều. Cái khó nó bó cái khôn, lãnh thổ quá rộng, lực lượng tổng trừ bị không còn. Ngoài ra TT Thiệu cũng không muốn giữ miền Trung nhưng tinh thần buổi họp ngày 11/3/1975 tại dinh Độc Lập. Cuộc lui binh của Quân đoàn I cũng chịu chung số phận với cuộc triệt thoái Cao nguyên chỉ là hành quân phá sản đã làm sụp đổ toàn bộ Quân khu khiến cho VNCH mất hơn một nửa các lực lượng tinh nhuệ.

VNCH mất khoảng 450 xe tăng , trên 400 khẩu đại bác, đạn dược, quân trang quân dụng coi như mất hết, phần đất còn lại của miền nam không thể nào tồn tại được nếu không có yểm trợ của B-52.

Dân tỵ nạn và di tản

Theo ông Cao văn Viên vị Tư lệnh Quân khu I trong khi đương đầu với địch ông còn phải quan tâm giải quyết vấn đề tỵ nạn đang trầm trọng (Những Ngày Cuối của VNCH từ trang 174-185). Khi Kontum, Pleiku mất người dân lo sợ chính quyền cắt đất nhường cho Cộng sản, hàng chục nghìn người đổ dồn về Đà Nẵng mua vé máy bay vào Sài Gòn, hôm 14/3 các Lữ đoàn Dù được điều động để về Sài Gòn khiến dân chúng hốt hoảng kéo nhau về Đà Nẵng. Ngày 19/3 Thủ Tướng Khiêm ra Đà Nẵng giải quyết vấn đề tỵ nạn, Thủ tướng cho thành lập Ủy ban Liên bộ để lo giúp dân tỵ nạn Quân khu để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Thủ Tướng hứa sẽ tăng nhiều tầu chở dân di tản và giúp đồng bào tỵ nạn. Trong khi ấy tại địa phương các đoàn thể, hội từ thiện, phú thương… đóng góp vào cuộc cứu trợ hiệu quả hơn của Trung ương nhưng vấn đề tỵ nạn vượt quá khả năng của họ.

Từ ngày 17/3 đường Quốc lộ Một tràn ngập người và xe cộ, tại các bến cảng, tầu chở quân như quân dụng cho chiến trường Huế Đà Nẵng bị dân và lính ép phải chở họ rời bến, giới phụ trách bến tầu phải thuyết phục họ mãi. Ngày 21/3 BV cắt đường Quốc lộ I, dân tỵ nạn bèn đi về miệt biển, tầu bè được mướn hay bị cướp để chạy loạn nhưng không đủ. Ngày 23/3 tầu Trường Thanh do Bộ tổng tham mưu mướn chở được hơn 5,000 người. Huế bỏ ngỏ đêm 25/3, dân quân rút theo bờ biển về Đà Nẵng. Tam Kỳ mất 24 /3, Chu Lai di tản ngày 26/3, dân Quảng Ngãi, Quảng Tín chạy về Đà Nẵng. Ngày 26/3 Tướng Trưởng gửi Tướng Hoàng Lạc Tư lệnh phó QK I về Sài Gòn trình Tổng thống và Thủ Tướng giải quyết ngay vấn đề tỵ nạn vì thành phố sắp rơi vào tình trạng hỗn loạn khiến Đã Nẵng sẽ tự sụp đổ không cần Việt Cộng tấn công. Lưu thông trong thành phố ứ đọng, dân số trước đấy chỉ có 300,000 nay có tới hơn một triệu, cướp của giết người giữa ban ngày.

Ngày 27/3 chuyến phi cơ dân sự đầu tiên mướn của Mỹ đáp xuống Đà Nẵng nhưng mỗi khi có máy bay xuống hỗn loạn diễn ra dữ dội. Các chuyến bay dân sự phải đình chỉ, giới hữu trách cho thay bằng 4 máy bay C-130, nhưng hỗn loạn liên tục nên 4 chiếc này chỉ cất cánh được một lần vào ngày 29/3. Bến tầu cũng hỗn loạn, các tầu thả neo ngoài khơi Đà Nẵng, dân dùng thuyền bè từ bờ ra tầu, mỗi tầu được chừng 10 ngàn thì  nhổ neo về Cam Ranh, Vũng Tầu, Phú Quốc…

Việt Cộng pháo kích tấn công Đà Nẵng mạnh vào đêm 28 /3, dân chúng tiếp tục tìm đường lánh nạn bằng thuyền bè dưới những trận mưa pháo của địch, nhiều người chết chìm khi lội từ bờ ra tầu. Bộ TTM đề nghị Phó thủ tướng Phan Quang Đán trưng dụng 13 tầu thương thuyền để chở dân tỵ nạn và kêu gọi các nước đồng minh giúp chở dân ra khỏi vùng giao tranh . Các nước hưởng ứng lời kêu gọi nhưng không thể gửi tầu tới ngay được trong khi tình hình ngày một thê thảm. Với con số người tỵ nạn quá đông cuộc di tản không thực hiện được như ý muốn, dân tỵ nạn tràn ngập các trại  ở Vùng III và Phú Quốc.

Tướng Viên nói khi chính quyền bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ, nó đã làm đảo lộn kế hoạch quân sự của Vùng I. Người dân bị ám ảnh của quá khứ, họ quá sợ hãi khi nhớ lại cuộc tàn sát tập thể  của CS tại Huế hồi Mậu Thân 1968 cũng như tại Đại lộ Kinh hoàng Quảng Trị năm 1972 để rồi hối hả bồng bế nhau chạy về phương nam.

Cuộc di tản náo loạn khiến cho binh sĩ hoang mang không còn tinh thần chiến đấu đã là một trong những nguyên nhân chính yếu đưa tới sụp đổ cho cả Quân khu. Thầy Mạnh Tử nói Thiên thời bất như Địa lợi, Địa lợi bất như Nhân hòa. Khi kẻ địch cất quân đánh nước ta là chúng có Thiên thời, nước ta có hào sâu, thành cao là ta có Địa lợi, nhưng khi quân địch đến, quân ta quăng gươm giáo chạy là ta không có Nhân hòa.

© Trọng Đạt

©Đàn Chim Việt

——————————————–

Tài liệu tham khảo

 

Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.

Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến tranh Việt Nam 1963-1975, Đại Nam 2001.

Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003

Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.

Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987

Ngô Quang Trưởng : Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I, do Lê Bá Chư ghi chép, (Lịch Sử Ngàn Người Viết) Sài Gòn Nhỏ Dallas ngày 26-1-2007.

Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản 2005.

Nguyễn Văn Toàn, Lê Bá Khiếu, Nguyễn Văn: Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975

Trần Văn Nhựt: Cuộc Chiến Dang Dở, nhà xuất bản An Lộc, 2003.

Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1991.

Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản QĐND Hà Nội, tái bản lần thứ tư, 2003

Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999

Lâm Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.

Marilyn B. young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents – Oxford University press 2002.

Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn, Ai Mất. Người Việt Dallas 7-10-2005.

Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.

Nguyễn Văn Châu: Nhớ Về Quân Đoàn I, Sài Gòn Nhỏ Dallas 25-8-2006.

Phan Nhật Nam: Một Đời Trung Liệt, Ba Lần Giữ Nước, Tướng Quân Ngô Quang Trưởng, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2-2-2007.

 

 

129 Phản hồi cho “Cuối tháng 3/75 tuyến đầu thất thủ [2]”

  1. DâM TiêN says:

    Ấy a, em DâM TiêM làm tổng thống…độc diễn từ năm 1971,
    em DâM tiên lại có nhiều mối tình hậu trường mà Xịa nó
    nắm chứng cớ; em Dâm Tiên lại mang quý kim sang gưởi
    ngân hàng Thụy sĩ mà InterPol nó chộp được nhưng tha bắt…

    Em Dâm Tiên lại có tình báo Huỳnh văn Trọng dẫn đường rắp
    ranh thân Pháp và nhà Vua cũ… ( mà Xịa nó dư biết, nó tha)

    Thì nay tụi ” đế quốc” nó muốn bỏ rơi miên Nam Vn theo như
    kế hoạch toàn cấu của nó,

    mà nó chỉ thị Ngầm cho Dâm Tiên em phải rút bỏ Huế và Cao
    nguyên , thì em Dâm Tiên…lấy cái gì mà…chống lệnh của nó?
    Chống lệnh nó, thì Dâm tiên có lên C.130 cùng tài sản vợ
    con cưng, chạy đi được an toàn du hí tại nước ngoài,ru mà?

    Có thế thôi, mà nhì nhằng goài, vô tích sự, hà hà, ông Đẹt ?

    • Nguyen Trong Dan says:

      TÁM ƠI TÁM…SẠO QUÁ À !
      TOÀN LÀ VU VƠ VỚ VẪN !

      LÀM GÌ CÓ CHỈ THỊ ” NGẦM ” Ở ĐÂY !
      LẠI CÒN ” INTER-POL” , “TÀI SẢN….” ” GHỆ GỘC ” nghe hấp dẫn cứ như chuyện trinh thám… của đại tá công an ” Ván Bài Lật Ngữa” …

      VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐỨT HƠI , HẾT ĐẠN..

      ĐỒNG MINH HỨA MỘT ĐÀNG , LÀM MỘT NẺO KHÔNG CAN THIỆP KHI NGỤY QUYỀN CS HÀ NỘI VI PHẠM HIỆP ĐỊNH..

      CUỘC VẬN ĐỘNG THUỢNG VIỆN TỪ NHÀ TRẮNG CỦA FORD XIN CAN THIỆP THẤT BAI….

      BÓ TAY DOT COM
      ĐƠN GIÃN CÓ THẾ THÔI…

  2. LeBInh says:

    Tôi không phải là người tốt nghiệp ở trường huấn luyện quân sự, nhưng tôi nhìn vào bản đồ của Việt Nam Cộng Hòa, tôi thấy rất là khó giữ, nếu miền Trung như là sa mạc của xứ Iraq, thì bọn cs đã banh thây hết nói phét. Khi Nga-Tầu đã quyết định cho bọn tay sai cs những vũ khí hạng nặng thì cuộc chiến VN không còn là cuộc chiến tranh du kích, ông Thiệu phải hiểu được điều đó vì ông là tướng, ông học nhiều trường quân sự, tôi không hiểu người ta đã dạy ông những gì hay đầu óc của kẽ tầm thường thì dạy cho lắm cũng vô ích. Ông Cao văn Viên kể lại rằng, ông Thiệu trong dinh Độc Lập có máy truyền tin riêng để ông ra lệnh trực tiếp với các quân khu, ông Viên chỉ ngồi chơi vì, ông Thiệu chỉ thích ông Viên một điều là trung thành. Vấn đề nêu ra ở đây là không có súng đạn dồi dào thì miền Nam sẽ mất, nhưng mất cách nào ? 3,4, 7 năm hay lâu hơn, hay mau lẹ, đó là tùy người lãnh đạo giỏi hay dở. Trận Long Khánh đã cho thấy bọn cs dù đông đảo đã không đánh bại nổi sư đoàn 18 bộ binh của tướng Lê Minh Đảo. Bọn cs cũng đã tính 2, 3 năm sau mới chiếm được miền Nam, chính ông Thiệu đã giúp cs chiếm được miền Nam nhanh chóng chứ không phải bọn cs đánh giỏi, vấn đề rất giản dị, anh có súng đạn nhiều anh giữ nhiều đất, có súng đạn ít thì anh giữ ít đất, làm lãnh đạo mà không biết lo xa, khi cháy nhà mới hốt hoảng lo chữa cháy thì đã muộn .

    • Dài Lắm says:

      Cuộc chiến VN, cái đau thương là miền nam chúng ta không có lãnh đạo. Về chính trị đảng phái không kết hợp được quyền lợi đảng phái và quyền lợi quốc gia. Vì thế các đảng phái chia rẽ qúa không thuyết phục được người Mỹ, không làm cho người Mỹ phải nhìn nhận quyền dân tộc vì thế họ điều khiển cuộc chiến theo ý riêng của Mỹ, bỏ qua quyền lợi VN. Còn các lãnh đạo đương thời như ông Thiệu, ông Minh (big) có lẽ cũng là hệ qủa của sự việc mất quyền dân tộc mà thôi.Vụ việc Nhã, Quang trong dinh độc lập ai có thể tin là Mỹ hoàn toàn không biết. Vì thế cảnh đau thương tang tóc cho dân miền nam trước và nhất là sau tháng tư 1975 bắt buộc phải có và chính Mỹ cũng hình dung ra cuộc tắm máu đó nhưng vì quyền lợi của nước Mỹ mà thôi. Không ai làm được hơn trong cuộc chiến tranh này ngoài trừ Dân Tộc Tính được tôn trọng từ người Mỹ.

  3. Nói với Hòai Nguyễn says:

    Nói với Hòai Nguyễn
    Ông Ngô quang Trưởng có hai người phó: Trung tướng Lâm quang Thi , tư lệnh phó Quân đoàn ( coi về quân sự) và ông Hoàng Lạc Tư Lệnh phó về lãnh thổ (đất đai). Ông Tướng Huỳnh văn Lạc phục vụ tại Quân khu 4 là một ông tướng khác với tướng Hoàng Lạc

  4. hoài nguyễn says:

    Theo những tài liệu khác , vùng I lúc đó , tư lệnh là Trung Tướng Ngô quang Trưởng , tư lệnh phó là Thiếu Tướng Lâm quang Thi , nhưng trong bài viết trên , ở nhiều chỗ , tác gỉa lại viết tư lệnh phó là tướng Hoàng Lạc . Có vị nào biết rõ về chuyện này xin cho biết ý kiến . Thành thật cảm ơn . Riêng tôi , tôi không biết có vị tướng nào tên Hoàng Lạc trong QLVNCH , hình như có một vị tướng tên Hoàng văn Lạc thì có . Trân trọng .

    • Thắc-Mắc says:

      Bạn hoài nguyễn,
      Tôi chắc-chắn có nhiều người cũng sẽ trả lời một cách chính-xác câu hỏi của bạn. Tuy nhiên tôi từ 1971 đến hết 1974 có những dịp gặp những vị tướng của quân-đoàn I + vùng I chiến-thuật. Đó là Trung-tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-lệnh ; Trung-tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó quân-đoàn kiêm Tư-lệnh BTL/HQ quân-đoàn I phía Bắc gồm 2 tỉnh Quảng-Trị và Thừa-Thiên (như bài viết chủ có đề cập), còn Thiếu-tướng Hoàng Lạc là Tư-lệnh phó Vùng I CT (nếu tôi không lầm thì danh-từ Vùng thay-thế cho quân-khu dùng cho cấp quân-đoàn, cũng như Khu CT [chiến-thuật] dùng cho cấp sư-đoàn). Thường thì mỗi quân-đoàn hay sư-đoàn đều đảm-trách phần lảnh-thổ hoạt-động, nên có hai cấp phó, một cho lảnh-vực thuần-túy quân-sự (quân-đoàn, sư-đoàn), một cho những lảnh-vực khác trong lảnh-thổ hoạt-động của đơn-vị mình (vùng CT, Khu CT). Thiếu-tướng Hoàng Lạc thì tôi nghe quen hơn, cũng có thể có chữ lót ‘ văn ‘, nhưng có thể rằng người ta muốn cho sự khác-biệt rõ hơn nên chữ lót bị bỏ đi, vì có một vị tướng khác là Thiếu-tướng (hay có thể còn là Chuẫn-tướng) Huỳnh văn Lạc, (tôi không nhớ lúc nào) làm Tư-lệnh sư-đoàn 9. Tôi biết rõ tướng Huỳnh văn Lạc khi ông còn mang cấp-bậc Thiếu-tá, Liên-đoàn-trưởng SVSQ/VBQG tại Đà-lạt năm 1959-1960. Mong các bạn khác biết rõ hơn, xin đóng góp ý-kiến.

  5. vu doan says:

    Trong bao nhiêu năm, người lính Miền Nam quen được cung cấp đạn dược đầy đủ . Nay bỗng nguồn đạn dược bị cắt đứt , thì sự hốt hoảng tột độ , không biết phải ứng phó hợp lý ra sao tất phải xảy ra . Cũng giống như tình trạng của một số người, trước tháng Tư 75, được sống trong nhung lụa ; sau ngày mất nước, bỗng nhiên bị mất hết tài sản vào tay bọn Việt cộng , trở nên tay trắng , dễ bị quẫn trí , tâm trạng rối bời , không biết phải xoay trở ra sao để sống còn .

    Không phải người lính Miền Nam dở, vì nếu dở thì đã không thể tạo ra biết bao nhiêu những chiến thắng lẫy lừng trong quá khứ. Mà chỉ vì chưa đã phải lâm vào tình huống bị cắt đứt đạn dược trước đó mà thôi.

  6. Nguyễn Tha Hương says:

    Xin hỏi Đảo quê hương (Phần 1):
    – Vậy chứ đảng csvn có ôm bầu sữa súng đạn của ngọai bang tàu phù và Nga vào miền nam để giết hại dân lành là chính , thứ nữa đến cày nát quê hương miền Nam không ?
    - csvn có đem lính tàu phù vào miền Nam để đánh biển người (lấy thịt đè súng đạn) không ?
    - Bây giờ đang bán dần đất nước cho tàu cộng, có thấy nhục không ? Rõ ràng đang bán dần đất nước mục đích vì tiền tham nhũng chứ đâu có thương dân tộc mình đâu ? Sớm muộn gì rồi đảng csvn lẫn Đảo quê hương cũng phải quỳ lạy tàu cộng để sống còn !
    Cám ơn ông Trọng Đạt đã khảo cứu thêm, viết lại những trang sử cũ như nhắn nhủ cho thế hệ trẻ tương lai biết được vì sao chúng ta phải sống lưu vong. Nhắc lại lịch sử là nhắc lại cho thế hệ con cháu sau này học hỏi khôn ngoan hơn, khỏi mắc bẫy cộng sản tàn ác, dã man.
    Mong rằng các Ông Bùi Tín, Nguyễn Văn Lục, Trọng Đạt ….nên tiếp tục viết tiếp những trang sử đang được bạch hóa và sẽ được bạch hóa nay mai. Mỗi người trong quý vị có một ý tưởng , một đường lối viết khác nhau nhưng gọp lại là một kho tàng lịch sử cận đại phong phú .
    NTH

  7. DâM TiêN says:

    Đố ai biết ? Đó là,

    Nếu chú Sam không OK tí toét, thì ông Thẹo Ve, có cho ăn kẹo,

    cũng chẳng dám rút bỏ hai miền then chốt của VNCH, là m\iền
    Cao nguyên và vùng Giới tuyến.

    Thôi,lá bài quốc tế…thế chiến quốc..thì xin ông Đạt nhìn rõ! bớt
    lạc đề lạc hướng đi. Thanh kiêu.

    • Giản dị says:

      Có thể nhận định tương đối đơn gỉan nhưng coi như tạm đủ ý của bạn Dâm Tiên, Nên để Trọng Đạt đăng bài cho mọi người cùng am tường. Người viết cũng không kém 20 năm chiến địa, Mọi chuyện xin dành cho lịch sử, thế nào cũng có một trong các sử gia đúc kết đầy đủ. Nv xin tạm đưa tư kiến, cả hai miền nam, bắc VN đều nhận lệnh và chiến tranh VN nên gọi là chiến tranh UỶ NHIỆM. Hay dở của lãnh đạo miền nam không bàn vì ai cũng có tư duy chiến tranh và lãnh đạo. Nhưng điều hình như it để ý là người lãnh đạo biết Mỹ rút quân, nếu can trường và sáng suốt hẳn nhiên Mỹ phải kiêng nể và phải làm toàn vẹn với quân dân mình nếu muốn đưa 1/2 triệu quân về nước an toàn. Các sĩ phu, chính trị gia cũng thiếu sáng suốt, không đẩy lãnh đạo đương thời phải triệu tập hội nghị DIÊN HỒNG để lấy ý toàn dân. Chắc chắn Mỹ kiêng nể và phải làm khác đi, it nhất cũng phải tuân thủ ý dân miền nam đòi hỏi chớ không dễ dàng với lý lẽ cuối cùng cắt viện trợ. Tiếc rằng chiến lược và chiến thuật cũng chỉ nằm trong MỸ BẬT ĐÈN XANH vì thế mất miền nam cũng là chuyện đương nhiên không tiêng ai có trách nhiệm tổng thể. Mong rằng được tiếp tục đọc những bài của Trọng Đạt.

      • DâM TiêN says:

        Tài liệu lịch sử, nằm trên những phóng đồ hành quân,
        nằm trên những tài liệu ngoại giao hay nội bộ các nước
        liên quan, mà không bao giờ được tiết lộ. Nó nằm
        trong văn khố, hay đã theo xuống tuyền đài.

        Một khi bạch hóa được những dữ kiện đó, thì nhìn rõ
        rnét mặt lịch sử.
        Chứ, cứ ê a lần mò, ” nghe nói ” hay xem những
        phóng sự chiến trường, thì lịch sử vẫn bị mấy thư
        ký quèn, lẹt ĐẸT bẻ cong như lò xo, phải chăng ông
        ký ĐẸT ?

  8. Dân Việt says:

    Những đau thương sau khi buông súng theo lệnh ông tổng thống ( bất hợp hiến) Dương Văn Minh, hơn 1.100.000 người của ” bên thua cuộc” là những nhân sĩ, trí thức bị “học tập cải tạo” bởi những tên cán bộ quản giáo là những người rất ít học, tại hàng trăm trại cải tạo ở những chốn rừng thiêng nước độc khắp nơi trong nước từ miền Bắc đến miền Nam mà không ít người vì không bao giờ “thuộc bài” nên đã phải ở lại miền Bắc ‘học tập” đến 17 năm trời và trong số đó đã có đến 165.000 người đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn ở chung quanh những trại cải tạo đó vì đòn thù, vì bệnh tật, vì đói khát và vì bị hành hạ. Bên cạnh đó, “bên thắng cuộc” cũng đã hành quyết hơn 95.000 người bị quy tội phản động, âm mưu lật đổ chính quyền hay “có nợ máu với nhân dân”.
    Không lâu sau khi “Thắng Cuộc”, “bên thắng cuộc” cũng đã xua đuổi hơn 1.500.000 thị dân bị quy là thành phần tư sản và tiểu tư sản đến khai hoang lập ấp cũng ở những vùng rừng thiêng nước độc, với mỹ từ “Đi Xây Dựng Vùng Kinh Tế Mới” nhường lại cơ ngơi của họ ở các đô thị cho gia đình, bà con của “bên thắng cuộc” đến ở dùm, khiến cho con cái của họ phải thất học vì nghèo đói và vì không có bất cứ một cơ sở giáo dục nào ở giữa chốn thâm sơn cùng cốc đó, hệ lụy là hàng chục ngàn thị dân và con cái của họ cũng đã bỏ mình vì sơn lam chướng khí và nhiều năm sau hang triệu người bỏ nước ra đi ước đoán có khoảng từ ba trăm đến bốn trăm nghìn người vong mạng ngoài biển vì hải tặc và song vùi chon. Ôi thật là kinh khiếp đau thương cho dân miền Nam của chúng tôi.
    Tác giả Trọng Đạt dùng chữ “Nhân Hòa” ám chỉ bên thua có lẻ chỉ đúng một phần nào vì với bọn cướp nước và thí quân của Bắc Việt cho đến nổi cả triệu quân nướng trong biển lửa họ vẫn tiếp tục ngay cả Mỹ cũng chùn tay ! nói gì người miền Nam vốn chỉ đánh để tự vệ và quân lương thì bị thiếu hụt cho dù cầm cự vài tháng . Sau khi hết quân lương chỉ có hai cách : Một là tự sát như dân Do Thái năm 73 sau công nguyên , (bức tường mà Dân Do Thái ngày nay chiếm bái là nơi họ tự sát tập thể trước khi quân La Mã đánh chiếm) và cách thứ hai là đầu hàng khi hết lương thực và vũ khí để chiến đấu .
    Cho nên chuyện thua cuộc là chuyện phải đến dù Khổng Minh tái thế cũng chào thua và kết quả cho dân Việt Nam biết thế nào là tủi nhục và mất mát khi bị quân thù chiếm đóng, 38 năm sau mọi người đã thấy rõ ai là kẻ yêu dân yêu nước , thấy rõ quân đội nào thương dân và yêu nước.
    Quân đội Nhân Dân và công an ( cựu bộ đội ) cho dân thấy được bộ mặt thật hèn hạ trước giặc Tàu và ác với dân , quân đội cuối đầu nhận lệnh của bọn chính trị bộ hèn kém đã bị Tàu đấm mõm bạc triệu đô và gái. Đến năm 2020 còn tệ hơn nữa, Tàu sẽ bắt thanh niên Việt đi lao công các hầm mỏ ở miền Hoa Bắc và con gái thì đưa về Tàu cho thanh niên Tàu hưởng lạc.
    Chuyện 38 năm nhắc lại kẻ thắng vui mừng nhưng sẽ không lâu nữa cũng nếm mùi tủi nhục như dân miền Nam Việt Nam Cộng Hòa trước kia thôi, lần này vĩnh viển Việt Nam sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, Việt Nam sẽ là một tỉnh phía Nam của Tàu và vùng nắng ấm hàng trăm triệu dân Tàu dời cư sang chiếm hết nhà đất rừng núi Việt Nam để sống đời.
    Vậy xin hỏi các “anh hùng” quân đội nhân dân còn hèn và ngu đến bao giờ mà chưa chịu động binh ? trước khi quá muộn.

    • Veryhart says:

      Lại một ông nữa lấy tài liệu của “Huy Đức” làm tài liệu gối đầu giường. Thương hại cho ông này quá. Mở mắt ra mà đọc, mà học Trọng Đạt nhé. Vứt “Bên thắng cuộc” vào sọt rác đi. đọc thấy lợm giọng lắm.

  9. Người Việt says:

    Cuộc di tản mất miền trung rồi miền nam trong 2 bài trên, trước 30 tháng 4 năm 1975 khi miền nam ViệtNam sụp đổ, rất thê thảm làm chết rất nhiều người dân Việt.

    Nhưng chưa thê thảm bằng bàn tay cai trị hung tợn sắc máu của người cộng sản VN đối với người dân Việt, nhất là người dân Miền Nam, bị đói rách bệnh tật thê thảm, người đi cải tạo bị bịnh và chết tức tưởi vì sự trả thù của nguoi CSVN. Không biết chích xác số người chết vi đói và bịnh tật.

    Cuộc Vượt Biên của thuyền nhân VN sau 30 tháng 4 năm 1975 khi cộng sản bắc việt chiếm trọn miền nam VN. -Có vài triệu người Việt của cả nưóc VN từ 3 miền bắc trung và nam VN đã bỏ nước để trốn chạy CSVN, mọi người dân ai cũng muốn chạy thoát khỏi bàn tay hung tợn sắc máu của người cộng sản VN. Gọi là vượt biên, họ đi bằng đường biển (đến các nước đông nam á như: Phi Luật Tân, In Đô, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, HongKong, v.v…) và đường bộ qua Lào va Cambuchia rồi đến Thái Lan, không biết có bao nhiêu người chết trên đường chạy thoát này, nhưng chắc chắn là nhiều hơn cả lúc chiến tranh, không có thông kê chích xác được, chắc là con số triệu người,

    –Và bây giờ với tài cai trị độc tài gian xảo của ĐCSVN, người dân vẫn muốn ra đi bằng du học, kết hôn, đi lao động nước ngoài, và di dân lậu đến các nước tây phương, -kể cả các con của cán bộ cao cấp tham nhũng và bản thân cán bộ này có nhiều tiền do tham nhũng cũng tìm đường ra các nước từng là kẻ thù là các nước tây phương (Mỹ, Úc, Canada và Âu Châu), chứ họ không đi đến cắc nước cộng sản đồng chí anh em thắm thiết và môi hở răng lạnh như Nga và Tàu đâu nhé,

    –Kể cả con gái của Thủ Tướng (Nước CHXHCNVN là Nguyễn Tấn Dũng) là Nguyễn Thanh Phương lấy chồng Việt Kiều Mỹ, và cũng để chuyển tiền tỷ Mỹ Kim ra nước ngoài ở Tây Phương đấy. Họ chỉ thích tiền đô la Mỹ Úc Canada và EUro thôi, chứ không thích tiền có hình ông già Hồ VN, hay tiền của Nga và Tàu đâu nha. (năm ngoái xảy ra Vụ công ty quốc doanh hàng hải VN: ViNaLine (11 Tỷ US Đôla) và ViNaSin (6 Tỷ US Đôla) tổng cộng cũng 17 tỷ US Đôla rồi) chưa kể các công ty quôc doanh lớn hỏ khác nữa đó.

  10. hoàng says:

    Nó cũng chỉ là cuộc hành quân phá sản,”hành quân phá sản”là hành quân gì nhỉ.?Những kẻ thích làm chính trị salon thường đùng ngôn ngữ cs để gây thịện cảm với bọn bán-nước,buôn-dân,và tìm cho mình một chổ đứng trên bải rát thối tha của xã-hội.Viết cho nhiều chỉ là bồi bút cho cs mà thôi.

    Tại sao người miềm Nam ngày xưa thường dùng là thất trận,bại trện,hay tổn thất trong cuộc chiến,hay cuộc hành quân,thì bây giờ lại bám theo đít cs dùng ngôn ngữ cs để gây sự thân-thiện kế
    đến nhận bọn mà buôn-dân,bán-nước.

    Cho nên VN suốt chiều dài lịch-sử chỉ có chiến-tranh và giết chóc nhau để làm niềm vui kiêu hảnh.

    • Tien Ngu says:

      Cho em can tí đi thầy ba…

      Chỉ có cái loại….ngu trời gầm mới lấy…chiến tranh giết nhau làm niềm….kiêu hãnh.

      Đúng nà…cái tật lớn hơn cái tuổi, khoái…lên lớp.

      Diễn đàn này ai cũng ngu như nông dân Bắc Việt, Nam Việt khi xưa chắc?

      Lịch sử được tác giả trình bày một cách…vô tư, không khoe láo như các sử gia cò mồi, không biết….thưỡng thức, còn lên giọng…cò mồi hát ngược.

      Thấy thương quá….

Leave a Reply to Giản dị