WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nhìn lại tình sử giữa thi sĩ Hàn Mạc Tử và bà Hoàng Thị Kim Cúc

SachHanMacTu1_trt

 

Nhìn lại tình sử giữa thi sĩ Hàn Mạc Tử và bà Hoàng Thị Kim Cúc qua cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi

 
Hàn Mạc Tử là một thi sĩ có tài. Ông sinh năm 1912, lớn lên bị bệnh nan y và qua đời năm 1940 khi người Pháp còn đô hộ Việt Nam. Thơ văn và những mối tình lớn nhỏ của ông tạo thành một biến cố văn học tại Việt Nam sau khi ông chết. Cả một thế hệ cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940 bừng dậy vì những vần thơ trữ tình đầy nước mắt của ông. Nhất là những vần thơ thi sĩ dành cho bà Hoàng Thị Kim Cúc, người yêu trong mộng của ông.

Năm 1939 thế giới chiến tranh bùng nổ. Năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp kéo theo cuộc cách mạng chống Pháp giành độc lập. Đất nước chia cắt. Sau đó là cuộc nội chiến khốc liệt, Nam Bắc thống nhất, dân tình phân ly, chia rẽ. Thế nhưng hiện tượng văn học Hàn Mạc Tử hình như không bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn chính trị tại Việt Nam. Trước chiến tranh, trong chiến tranh, và sau khi thống nhất, ở trong Nam cũng như ngoài Bắc, trong nước cũng như hải ngoại giới văn học vẫn viết về Hàn Mạc Tử mà không hề bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh chấp Quốc-Cộng. Trong đó có các nhà văn nhà thơ nổi tiếng như Trần Thanh Mại, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Võ Long Tê và Nguyễn Đình Niên, Nguyễn Bá Tín …

Và mới đây cuối năm 2013, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bà Kim Cúc, người cháu gọi bà Cúc bằng cô ruột là bà Hoàng thị Quỳnh Hoa cho xuất bản cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” (nhà xuất bản Đà Nẵng – Hiệu sách Tường Tâm, Huế phát hành). Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” tiết lộ nhiều tư liệu liên quan đến mối tình Hàn Mạc Tử – Kim Cúc trước đây chưa được công bố do bà Kim Cúc chuyển lại cho bà Quỳnh Hoa trước khi qua đời tại Sài gòn năm 1988 do một tai nạn lưu thông.

Theo cuốn “Lá Trúc Che Ngang” thì sau khi Hàn Mạc Tử qua đời, qua thơ văn được phổ biến, bà Kim Cúc biết tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho mình, nên bà đã thu thập và lưu giữ mọi tư liệu liên quan đến Hàn Mạc Tử. Bà Kim Cúc rất buồn phiền vì đa số sách hay các bài viết về mối tình của Hàn Mạc Tử đối với bà đều sai sự thật. Bà nghĩ những gì chung quanh Hàn Mạc Tử là chuyện văn học cần được đính chính, chưa nói đến cần được đính chính để giữ gìn uy tín của gia đình bà .

Cá nhân bà từ năm 1971 từng biên thư cho các nhà văn nhà thơ viết không đúng về Hàn Mạc Tử. Và mấy chục năm sau bà nhờ giáo sư Võ Long Tê, ông Nguyễn Đình Niên, một giáo sư cùng dạy trường Đồng Khánh Huế, và cô cháu Quỳnh Hoa viết sách đính chính. Ông Võ Long Tê là người nhận được nhiều tư liệu do bà Kim Cúc gởi đến, nhưng vì một lý do nào đó sách ông hứa viết vẫn chưa ra đời. Ông Nguyễn Đình Niên thì bận việc dạy học và dịch kinh. Cuối cùng bà Quỳnh Hoa – như đã nói – đã thực hiện lời yêu cầu của người cô xấu số bỏ công nghiên cứu, viết và in cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” – LTCN.

Theo cuốn “Lá Trúc Che Ngang” nhà thơ Hàn Mạc Tử có tên là Nguyễn Trọng Trí, gốc làng Thanh Thủy, Thừa Thiên. Đầu thập niên 1930 ông là một công chức chập chững vào đời làm việc tại ty Đạt Điền Quy Nhơn. Năm 1932, cụ tham tá Hoàng Phùng, thân sinh cô Kim Cúc cũng được đổi từ Huế vào Ty Điền Địa Quy Nhơn. Cô Kim Cúc, một thiếu nữ xinh đẹp năm đó vừa tròn 19 tuổi đi theo thân phụ.

Chàng thanh niên Nguyễn Mạnh Trí gặp cô Kim Cúc tại một hội chợ do chính quyền bảo hộ tổ chức hằng năm tại Quy Nhơn. Bị tiếng sét ái tình, Trí tìm cách tiếp xúc với cô, nhưng cô Kim Cúc, vốn thuộc gia đình giáo dục khắt khe, cô luôn tìm cách tránh né. Nhân Trí làm việc cùng sở với Hòang Tùng Ngâm, em con chú con bác với cô Kim Cúc nên đã thổ lộ tâm sự với bạn và nhờ bạn làm cánh nhạn đưa thơ. Nể bạn Ngâm nhận thơ nhưng không chuyển, nghĩ là không thích hợp với gia phong, và khuyên Trí nếu yêu cô Kim Cúc thì nên nhờ mai mối đi hỏi chính thức.

Có ít nhất hai lần Hàn Mạc Tử tìm cách đón gặp cô Kim Cúc trên đường phố định ý đưa thư, nhưng cô Kim Cúc né tránh không tiếp chuyện, cũng không nhận thư. Về mai mối thì văn học không ghi lại gì rõ ràng hơn là câu chuyện mơ hồ đầu năm 1936 Hàn Mạc Tử nhờ một người cậu đến nhà thăm ông cụ của cô Kim Cúc dọ ý, nhưng thấy không xong ông giả vờ để quên một bức thư Hàn Mạc Tử viết cho bạn kể lể sự thầm yêu trộm nhớ Kim Cúc của mình (LTCN – trang 62)

Chuyện dạm hỏi này là nguyên nhân của lời đồn “gia đình Kim Cúc đã từ chối lời cầu hôn của Hàn Mạc Tử với lý do không môn đăng hộ đối” mà ông Quách Tấn đã viết trong số 73 báo Văn năm 1967 (LTCN – trang 28).

Sự thật là, cô Kim Cúc theo đúng gia phong đất thần kinh của thời đại, nghiêm cấm phụ nữ tiếp xúc với phái nam nên cô không có một tình ý gì với Hàn Mặc Tử qua những cố gắng tiếp xúc làm quen và chuyện mai mối của người thi sĩ.

Dư luận cho rằng Hàn Mạc Tử thất tình nên năm 1932 đã bỏ Quy Nhơn vào Sài gòn lập sự nghiệp. Đầu năm 1936 Hàn Mạc Tử trở lại Quy Nhơn, và mấy tháng sau thì cô Kim Cúc theo thân sinh trở về Huế. Nổi thất vọng của Hàn Mạc Tử trở nên chất chứa.

Năm 1937 Hàn Mạc Tử bị bệnh cùi, một chứng bệnh nan y. Ông đau khổ vì mối tình ôm ấp không được đáp lại, lại đau đớn vì cơn bệnh hành hạ thể xác, nhưng ông dấu bố mẹ vào nằm điều trị tại trại cùi Quy Nhơn và chỉ biết thổ lộ nổi lòng với người bạn thiết là Hoàng Tùng Ngâm. Bệnh càng nặng mối tình của Hàn Mạc Tử càng nóng bỏng và thơ của ông càng rung động lòng người đã giúp đưa Hàn Mạc Tử vào bầu trời vinh quang của văn học Việt Nam sau khi ông qua đời .

Thương bạn, năm 1939 Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho chị Kim Cúc yêu cầu cô viết thư thăm hỏi Hàn Mạc Tử. Và cô Kim Cúc đã gởi một tấm bưu thiếp (carte postale) cô mua tại tiệm ảnh Tăng Vinh in hình một thiếu nữ chèo đò trên sông Hương với vài lời thăm hỏi, không đề ngày, không ký tên. Cảm động, Hàn Mạc Tử đáp lễ với bài thơ viết tay:

Ở đây thôn Vỹ Giạ

Sao anh không về chơi thôn Vỹ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt qua xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió, mây đường mây;
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay .
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó ?
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?

Đầu thơ Hàn Mạc Tử viết mấy lời:

Túc hạ,
Có nhận được bức ảnh Bến Vỹ Dạ lúc hừng đông, hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ của túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến nghĩa năm xưa thì phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật đầy đủ. Và mong rằng một mùa xuân nào đó được gặp lại túc hạ mới phỉ tình cho .
Thăm túc hạ bình an và vui vẻ .
Hàn Mạc Tử (ký) –
(Xem bút tự của Hàn Mạc Tử – LTCN – trang 88 & 89)

 

Ngày 11-11-1940 Hàn Mạc Tử qua đời tại trại cùi Quy Nhơn và chuyện tình của ông qua những bài thơ đẫm nước mắt, chứa đầy máu và trăng trở thành một đề tài lớn trong giới văn học khắp ba kỳ.

Tuy không có quan hệ tình cảm qua lại gì trước với Hàn Mạc Tử, danh tiếng, thơ văn và mối tình phong kín đậm đà của Hàn Mạc Tử đã làm cho quả tim Kim Cúc rung động.

Đáp lễ bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Giạ” (sau này giới văn học tự động viết lại chữ “Dạ” cho đúng chính tả) bà Kim Cúc chép lại bài thơ của Hàn Mạc Tử và viết một bài cảm tác cùng tên bên cạnh, với lời nhập đề: Ngày đầu Xuân đề tặng hương hồn anh H. M. Tử, người tài hoa bạc phận, một tâm hồn tha thiết yêu đương, và một cuộc đời vô cùng đau khổ. (LTCN – trang 91)

 

Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm giữ trong lòng một ý thơ
Vẫn biết cách xa ngoài vạn dặm .
Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ !

Một mình một cõi với nước mây
Với cả đau thương với hận này
Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ
Lẫy lừng danh tiếng kể từ đây.

Hồn anh lẫn khuất tận mô xa,
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa đời phức tạp ấy
Ai biết tình ai vẫn đậm đà !
H.H. thôn nữ

H. H. là Hoàng Hoa, một bút hiệu khác của bà Kim Cúc.

Sau đây là thủ bút của bà Kim Cúc (LTCN – trang 91)

Nowy obraz

 

 
Tháng 11 năm 1942 nhân lễ giỗ lần thứ hai của Hàn Mạc Tử, bà Kim Cúc đã viết một bài văn xuôi ca ngợi thành tích văn học của Hàn Mạc Tử trong đó bà cho rằng mộng thành danh của Hàn Mạc Tử đã thành:

Âm dương đôi ngã làm sao nhắn
Sự nghiệp trăm năm chí đã thành

Trong bài văn xuôi này Kim Cúc tự cho là người thân của Hàn Mạc Tử cám ơn ông Quách Tấn đã hết lòng sốt sắng đối với Hàn Mạc Tử và ước mong rằng ông Quách Tấn sẽ nổ lực thu góp xuất bản thơ của Hàn Mạc Tử nhiều hơn nữa (LTCN – trang 104)
Một năm sau cũng nhân lễ giỗ lần thứ ba của Hàn Mạc Tử bà Kim Cúc viết một tự truyện nhan đề: “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê”(LTCN – trang 107). Tự truyện được phóng tác dựa vào những tâm tình của Hàn Mạc Tử đối với cô Kim Cúc gởi cho bạn năm 1936.

Người “Gái Quê” trong tự truyện chính là cô và cũng là nhan đề của tập thơ “Gái Quê” in năm 1936 của Hàn Mạc Tử trong đó chan chứa mối tình kín đáo của Hàn Mạc Tử dành cho cô.

Lời văn của tự truyện ướt át không che dấu sự đáp ứng ân tình muộn màng của bà Kim Cúc dành cho Hàn Mạc Tử. Bà trích dẫn từng câu từng ý trong tập thơ “Gái Quê” để diễn lại cơn sóng lòng của Hàn Mạc Tử trong từng giai đoạn yêu đương của Tử mà bà không hề biết.

· Chàng thơ thẩn vì yêu:

“Tứ gió xuân đi gió hạ về
Anh thường gởi gắm mối tình quê
Bên em mỗi lúc trên đường cái
Hóng mát cho lòng được thỏa thuê”

Em có ngờ đâu trong những đêm,
Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm,
Anh đi thơ thẩn như ngây dại
Hứng lấy hương nồng trong áo em
(Trích “Âm thầm” – Gái Quê)

· Chàng thất vọng quyết bỏ xứ “Quy Nhơn” vào miền Nam “xa ngút ngàn” để xây đắp sự nghiệp.

Nước non muôn dặm tình đương nặng
Sự nghiệp trăm năm chí chửa thành

· Chàng trở về cũng để chỉ:

…. Nép mình trong cánh cửa
Hé nhìn dáng điệu của người yêu
Bước đi ngượng ngịu trên đường cái
Mỗi lúc ngang qua trước mặt lều.
(Trích “Tôi không muốn gặp” – Gái Quê)

· Chàng từng điên cuồng không kềm chế được khi nghe tiếng đàn trong nhà Kim Cúc vọng ra:

Đêm nay ta lại phát điên cuồng
Quên cả hổ ngươi cả thẹn thuồng
Đứng rũ trước thềm nghe ngóng mãi
Tiếng đàn the thé ở bên trong
(Trích “Tình thu” – Gái Quê)

Qua tự truyện “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê” Kim Cúc viết “về sau lâu lắm có lẽ những nén hương tâm chàng đốt chân thành quá nên đã kinh động đến lòng người thiếu nữ vô sự kia …. Nhưng mà đáng buồn cho thi sĩ, thiếu nữ vẫn không thể làm thỏa lòng chàng được…”. Cô Kim Cúc không giải thích tại sao tim cô đã kinh động mà cô không thể đáp trả. Phải chăng gia đình cô không thuận như tin đồn và ông Quách Tấn đã viết năm 1967 và năm 1971 cô Kim Cúc đã yêu cầu đính chính, nhưng 17 năm sau (1988) khi xuất bản cuốn “Đôi nét về Hàn Mạc Tử” ông Quách Tấn vẫn giữ nguyên đoạn đó (LTCN – trang 28).

Theo “Lá Trúc Che Ngang”, trong những điều chuyện thêu dệt chung quanh mối tình Hàn Mạc Tử – Kim Cúc, bài viết “Ba mối tình của Hàn Mạc Tử” của ông Kiêm Đạt đăng trong một tờ Phụ Nữ Diễn Đàn năm 1985 tại Nam California là có tính thêu dệt nhất (LTCN – trang 181).

Ba mối tình ông Kiêm Đạt nói đến là ba mối tình với Mộng Cầm, Thương Thương và Kim Cúc. Theo bà Quỳnh Hoa, nội dung bài viết của ông Kiêm Đạt hoàn toàn không đúng sự thật, nhất là khi ông viết rằng giữa Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc đã có “những ngày yêu thương cuồng nhiệt”.

Cuốn“Lá Trúc Che Ngang” có một đặc điểm. Nó không làm cho “chuyện tình của cô tôi” thêm hoang đường mà chỉ có mục đích trả lại sự thật cho văn học. Sự thật đó là: Có một mối tình giữa nhà thơ Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc. Nhưng nó không ướt át hai chiều như các cây bút nổi tiếng thời đó và sau này tô vẽ. Nó là mối tình của Hàn Mạc Tử đối với một người thiếu nữ xuân sắc đang tuổi dậy thì trong khung cảnh thơ mộng của thành phố biển Quy Nhơn. Nàng biết, nhưng lễ nghi ràng buộc không cho phép nàng đáp lại. Rồi để nó đi qua như nước chảy qua cầu, cho đến khi nhà thơ yểu mệnh năm 28 tuổi. Và cơn bão văn học sau đó đã làm động lòng người thiếu nữ một thời chưa dám yêu .

Cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi”của bà Quỳnh Hoa là một đóng góp lớn cho văn học. Nó cho thấy trước khi Hàn Mạc Tử chết đó là mối tình một chiều. Bà Kim Cúc chỉ viết một tấm thiệp nhỏ an ủi người bệnh và thi sĩ đáp lễ bằng một bài thơ. Ngoài ra hai người chưa từng trao đổi một lời qua lại. Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” giúp cho những ai viết về Hàn Mạc Tử sau này có những tư liệu chính xác .

Nhưng còn một câu hỏi cuốn “Lá Trúc Che Ngang” không có câu kết luận: Bà Kim Cúc không lấy chồng, tu tại gia, sống một cuộc đời ăn chay niệm Phật có phải vì cô đã yêu và sống vậy để đáp ân tình người đã khuất không?

Bài thơ cảm tác đáp bài “Ở đây thôn Vỹ Dạ” và trong tự truyện “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê” tình yêu muộn màng của bà Kim Cúc đối với Hàn Mạc Tử đã thể hiện rõ nét. Trong cái khung văn hóa của đất thần kinh thập niên 1940, một người con gái chưa chồng đặt bút xuống với nội dung và cách hành văn đó là một nhìn nhận “công khai và minh bạch” quả tim mình đã có chủ bởi một người đã khuất. Cho nên nếu bà Kim Cúc ở vậy cũng không phải là một điều ngạc nhiên.

Nhờ bà Kim Cúc kho tàng thi văn Việt Nam thêm phong phú nếu chỉ nói đến bài thơ “Ở đây thônVỹ Dạ” và tập “Gái Quê”. Cuộc đời ở vậy của bà Kim Cúc đã làm cho văn học sử Việt Nam có thêm một thiên tình sử cực đẹp. Và cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” đã giúp làm nổi bật nét đẹp hiếm có này./.

March 14, 2014

© Trần Bình Nam

© Đàn Chim Việt

4 Phản hồi cho “Nhìn lại tình sử giữa thi sĩ Hàn Mạc Tử và bà Hoàng Thị Kim Cúc”

  1. Hà Hồng Hoàng says:

    Nhớ Huế

    ( Tôi gửi bài thơ này lên đây như một nén nhang tưởng nhớ Cô Hoàng Thị Kim Cúc, người đã mời tôi ăn một bửa cơm Huế rất ngon do chính người nấu đãi vào dịp tết năm 1985 )

    Anh tiển em về nơi cố đô ,
    nghìn năm rêu cũ , lạnh sương mờ ,
    tiếng trống Ngọ Môn chừng vọng lại ,
    im lìm thành cũ , ánh trăng xưa .

    Em về thăm chốn Thần kinh ấy ,
    giấc mộng đêm hè hoa với trăng ,
    nơi đây vẫn cứ đêm rồi sáng ,
    anh mãi đường xa giửa bụi trần .

    Khi nào em có qua cồn Hến ,
    bãi bắp bờ sông rạng nắng chiều ,
    nắng dọi dòng sông xanh biêng biếc,
    Con đò thơ thẩn , nước trong veo .

    Anh vẫn ngồi đây nhớ Huế yêu ,
    nhớ về Thượng Tứ cửa thành rêu ,
    nhớ súng thần công buồn cổ độ ,
    trông vời ngựa tế dốc Nam Giao .

    Rồi sẽ cùng em đi Khiêm lăng ,
    nghe đồi thông réo khúc chiều sang ,
    và đêm trên mặt Hương giang …hẹn
    thuê đò vọng nguyệt giửa muà trăng .

    Anh sẽ đưa em về Kim Long ,
    qua chùa Thiên Mụ , tiếng chuông boong ,
    sẽ nắm tay em đồi Vọng Cảnh ,
    tiếng gà eo óc giửa đường thôn .

    Anh vẫn mơ qua trời Thuận An ,
    phi cơ nghiêng cánh ngắm lúa vàng ,
    và em Vỹ Dạ em nghe thấy…
    tiếng gầm rung chuyển . Bóng chim sang .

    03-4-1986

    Hà Hồng Hoàng

  2. Nguyễn Trọng Dân says:

    Lòng ai…

    Lòng ai trăn trở giử trọn tình
    Sóng gió thuơng đau nẻo nhân sinh
    Đẩy xô lãng mạn tìm dang dỡ
    Bới đào nhung nhớ kiếm trung trinh
    Kim chỉ làm sao may ngăn cách ?
    Tơ hồng khôn trói khói tử sinh !
    Rón rén chim khuya nhìn sương vỡ !
    Bùi ngùi lá úa ngó bình minh…

  3. Nguyễn Trọng Dân says:

    Họa bài Thôn Vĩ Dạ

    Sông đẩy thuyền đi , gió đẩy mây
    Trể xe lạc bước đến thôn này
    Lối cỏ quanh co đường vắng vẽ
    Rào dậu hững hờ én bay bay
    Thôn Vĩ tan hoang nghèo sơ xác
    Mặc Tử , hồn xưa biết có hay?
    Thôn nữ mĩm cười da bánh mật
    Chỉ lối ân cần , nắm nhẹ tay…

  4. TRĂNG NGÀN says:

    HÀN MẶC TỬ

    Tài sao đoản mệnh ôi thương thay
    Mặc tử đi rồi đời vẫn say
    Những giọt thơ tình trong như ngọc
    Men nồng vị đắng tận hôm nay
    Có ai về Huế cho ta nhắn
    Lá trúc chữ điền đâu phôi phai !

    NGÀN THƠ
    (17/3/14)

Phản hồi