Cái Làn
Khi được hỏi về “đàn ông,” nhà văn Phạm Thị Hoài (cố nén một tiếng thở dài) đáp khẽ:
“Đàn ông Việt Nam thường thừa nhận đàn bà Việt Nam lắm đức hạnh, ít nhất là cái đức chịu khó chịu thương. Song họ quên rằng, phần lớn những cái đức đàn bà ấy, nhất là đức chịu khó và cả chịu thương nữa, chỉ là cái khôn của cảnh khó. Các nhân vật nữ cũa tôi bày tỏ rõ ràng khao khát được ít đức hạnh đi một chút, được chia đều đức hạnh cho đàn ông gánh bớt. Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ hộ vợ, thế là văn minh rồi, nhưng cáng cho vợ cái đức hay lam hay làm thì ít ông chịu.”
Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của bà Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi!
Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm … tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
1954 – 1975: thời gian, dù ngắn, đủ xoá nhoà mọi ngăn cách giữa những “cái” vừa kể. Rồi ra, ai cũng biết: cái mền là cái chăn, cái mùng còn gọi là cái màn, cái phong bì với với cái bao thư là một, cái bật lửa đã trở thành bựt lửa, cái hôn và cái hun cùng một nghĩa và cùng đã – như nhau.
Cái làn, tiếc thay, không có được sự hội nhập dễ dàng (và lẹ làng) tương tự. Bên cạnh cái giỏ ny lông mầu sắc, rắn chắc và tuơi tắn, cái làn đan bằng mây hay bằng cói trông tội lắm: già nua, quê mùa, ọp ẹp, bẹp xẹp, xấu xí và (thường) hơi bẩn thỉu. Nó không thể sánh vai, cùng chị cùng em, chung bước với cuộc đời. Cái làn – do thế – rất it khi đi ra khỏi cửa, nó chỉ ở rịt trong nhà với mẹ tôi thôi.
Tôi thì khác. Tôi có số xa nhà.
Thiên hạ rời nhà là tắp ngay vào ngay khách sạn, hay phòng ngủ. Tôi thì không.
Tôi hay la cà ở đầu đường xó chợ, và ngủ bờ ngủ bụi, nên thỉnh thoảng vẫn bị túm vào những nơi tập trung – có tên gọi bắt đầu bằng chữ “trại”: trại tù, trại bệnh, trại phục hồi nhân phẩm, trại cải tạo …
Đời sống ở tất cả những cái trại (thổ tả) này đều có một điểm chung bất biến là … thiếu thốn! Vì vậy, tôi đi đến đâu là mẹ già – cùng với cái làn – lại phải lẽo đẽo theo sau đến đó, để thăm nuôi.Cho đến khi thằng con lưu lạc đến những trại tị nạn xa lắc xa lơ, ngoài biên giới quốc gia, bà cụ với cái làn mới thôi xuất hiện.
Từ những góc bể chân trời xa lạ, mỗi khi ngoảnh nhìn về quê cũ, bao giờ tôi cũng chỉ thấy trời chiều ùn lên những khối mây trắng đục. Hình ảnh quen thuộc của mẹ già – còng lưng với cái làn thức ăn nặng trĩu trên tay – cứ nhạt nhoà dần rồi… mất hẳn, không biết tự bao giờ.
Mẹ tôi qua đời đã lâu. Người đàn bà cuối cùng ở miền Nam – vào hậu bán Thế Kỷ XX – vẫn còn (thỉnh thoảng) xách làn đã mất. Mọi thứ liên quan đến bà, tuởng chừng, cũng đều đã trở thành hư ảo. Vậy mà chiều qua (chợt) nghe có người nhắc đến… cái làn. Sao không dưng mà bàng hoàng nhớ mẹ, nhớ nhà, và nhớ chốn cũ quê xưa đến rưng rưng nước mắt!
Đợt di cư thứ hai, từ Bắc vào Nam – khởi sự vào năm 1975 – ồn ào và lào xào hơn trước. Những thứ được mang theo, đến vùng đất mới, cũng linh tinh và lỉnh kỉnh hơn xưa: nón cối, dép râu, súng đạn, bác Hồ, tem phiếu, sổ gạo, cửa hàng ăn uống quốc doanh, bản khai lý lịch, mẫu đơn xin tình nguyện đi vùng kinh tế mới, trại cải tạo, ông công an phường, bà tổ trưởng dân phố, anh công an khu vực, chị hội trưởng hội phụ nữ, nghĩa vụ lao động, chiến dịch kiểm kê tài sản, chính sách cải tạo công thương nghiệp, Chủ Nghĩa Mác Xít Lê Nin Nít Bách Chiến Bách Thắng Vô Địch Muôn Năm …
Tất cả đều rất mới lạ, và (xem chừng) đe dọa. Chỉ riêng cái Tinh Thần Làm Chủ Tập Thể, được nhắc đến thường xuyên qua loa – đài là (nghe) có vẻ hiền hoà:
Đảng ta
Nhà nước ta
Xã hội ta
Nhân dân ta
Quốc hội ta
Chính phủ ta
Bộ đội ta
Sứ quán ta
Người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao ta
So với cái “tôi” nhỏ bé, bình thường của những người thuộc phe bại trận, cái “ta” (thoạt nghe) có vẻ vị tha, bao dung, và cao cả. Nó khiến người ta nghĩ ngay đến cái chung, đến sự liên đới, tính kết đoàn. Và “kết đoàn chúng ta là sức mạnh.”
Pages: 1 2