WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Viết cho ngày 01 tháng 11

Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.

Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.

Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đỡ? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.

Sau khi quân đội Pháp đầu hàng ở  Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xảy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nửa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.

Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào  Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu cơ quan quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.

Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

“… Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với báo chí như sau: “Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả những vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình”.

Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.

Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.

Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”, và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.

Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ” nhưng “nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cử dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẵn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.

Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.

Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo  rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay “dụ dỗ di cư”. Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” (Sic). Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rõ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do; đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.

Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy  rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rõ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.

Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam

Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.

Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.

Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1.200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.

Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2.000 đến 4.200 người di cư tới. Tổng kết là 4.280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là “tàu há mồm”, tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan… giúp được 555.037 người “vô Nam”.  Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.

Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.

Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”.  Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này,  trách sao chúng tôi không phải trả giá.

Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những kẻ phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước… Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rứt trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sống lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.

Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời, đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.

Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ.

© Nguyễn Thu Trâm

© Đàn Chim Việt

163 Phản hồi cho “Viết cho ngày 01 tháng 11”

  1. Trung Kiên says:

    Khà khà, tưởng gì chứ vào thùng rác lượm ra hàng tá tên viết lách giống như Chu Bằng Lĩnh, Nguyễn Ngọc Quang, Charlie Nguyễn, Trần Chung Ngọc!

    Nếu có kẻ xấu miệng bảo rằng; “Chưng Sơn là một tên hung hiểm độc ác, hiếp dâm, giết người”. Chắc là sẽ có kẻ tin ngay và tung tin này lên mạng. Nhưng với tôi thì không, tôi chưa vội tin mà cần phải kiểm nghiệm, tìm hiểu cặn kẻ, dùng não bộ của mình tìm hiểu sự thật!

    Mà nếu có kẻ nói là… chính mắt hắn đã nhìn thấy “Chưng Sơn hiếp dâm”, tôi vẫn chưa tin, phải xem kẻ “làm chứng” đó là ai đã…

    Nếu kẻ “làm chứng” là một tên ma cô, không biết lý do gì mà thù oán Chưng Sơn…thì tôi sẽ mỉm cười để nói với hắn là…tôi đã biết kẻ lưu manh đó, nó chính là người mà tôi đang đối diện!

    TK nói thế, Chưng Sơn nghĩ thế nào?

    À mà này!

    Chết là hết, tới ngày giỗ, không biết thì thôi, còn nếu biết, tôi cũng sẽ đốt cho Chưng Sơn nén hương!

  2. Hoài An says:

    Một nén hương cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm!

    Niềm tin là lẽ sống:

    Hoàng Hậu Nam Phương</b

  3. phx says:

    Biết rồi khổ quá nói mãi! Thấy những bài viết như thế này cứ lập đi lập lại những luận điệu cũ rích, chẳng có gì mới mẻ để mà đọc và học hỏi. Trước đó cũng có một số bài viết ca ngợi TT Diệm, thì thôi đã biết rồi. Lâu lâu cứ lập lại điệp khúc cũ hoài riết ngược đọc cảm thấy ngán quá.
    Người ta thường hay chửi bới CS này nọ nhưng chính bản thân mình hành xử cũng đâu có gì khác CS: Cái gì sai nói mãi cũng thành đúng. Nếu một người Việt công tâm có một chút tư duy và kiến thức, nhìn công cuộc của TT Diệm và chính quyền của ông ta làm trong bối cảnh lịch sử thời đó thì trong lòng cũng đã có sự phán xét rồi. Đâu cần phải nói thẳng ra. – Thân mến

  4. conmeo says:

    Muốn biết về lịch sử giáo hội công giáo phản quốc VN cứ vào sachhiem và giao điểm sẽ biết về tập đoàn Vatican khoác áo tôn giáo đào tạo tẩy não giáo dân ” Thà mất nước chứ không mất chúa”.
    Bằng chứng có đầy trong các văn khố ngoại quốc.
    Ngô đình diệm được nhà báo Anh xếp vào hàng bạo chúa, dòng họ hắn là tam đại Việt gian, dâng nước cho Vatican.

    • Choi Song Djong says:

      “Con chó nó còn biết gặm thịt chứ không nuốt xương khi có người ném cho nó khúc xương!

      Trẻ con thường hay chơi xỏ nhau, lấy phân chó khô gói vào giấy bọc kẹo rồi đưa cho nhau. Những đứa trẻ thông minh thì mở ra xem trước, vứt đi, còn những đứa dốt nát, nhẹ tin, vội bóc giấy rồi tỏm ngay vô họng làm trò cười cho bạn bè. ” Trung Kiên says.

      Gởi tặng ông bạn vài lời giáo huấn của bác Trung Kiên.

    • Trường Thanh says:

      conmèo nó kêu meomeo
      Định nhảy cành đào té cổ xuống ao
      mèo biết đọc sách?

      Cả hà triệu cuốn sách nói về đạo làm người, dạy những điều hay lẽ phải thì không chịu đọc, lại mò vào sáchhiếm với giao điểm. Mèo thì phải đi lùng bắt chuột, bắt những con chột béo, ngon, chỉ có mèo già mới đi lục thùng rác?

  5. xoathantuong says:

    15-25 ngàn người Nùng. 109 ngàn người tự lo phương tiện để vào miền Nam. Có 23.5% là người theo đạo Phật…

    Ai muốn biết thêm chi tiết xin theo link sau:
    nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Operation_Passage_to_Freedom

    “The official figures reported that a total of 768,672 people had migrated under military supervision. Of this number around 190,000 were French and Saigon soldiers and returned prisoners; some 43,000 were military dependents, “15,000–25,000 Nung tribesmen who were military auxiliaries, between 25,000 and 40,000 French citizens, and about 45,000 Chinese residents.
    …The official figures recorded that more than 109,000 people journeyed into the south by their own means, some arriving outside the 300-day period.
    …an October 1955 government report claimed that 76.3% were Catholics, 23.5% were Buddhists and 0.2% Protestants”

    • xoathantuong says:

      http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_C%E1%BA%A7n_lao_Nh%C3%A2n_v%E1%BB%8B
      Đảng Cần lao Nhân vị

      “Cần lao Nhân vị Cách mạng Đảng – hay Đảng Cần lao Nhân vị – là một chính đảng tồn tại và hoạt động tại Việt Nam Cộng hòa từ năm 1954 đến tháng 11 năm 1963 do hai anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu thành lập vào cuối năm 1954 tại Sài Gòn dựa trên chủ thuyết chính trị Nhân vị (Personalism) của triết gia người Pháp Emmanuel Mounier[1].

      Nhận xét của một số chuyên gia là Đảng Cần lao Nhân vị dùng chung một mẫu với Đảng Cộng sản Việt Nam và Phong trào Cách mạng Quốc gia được tổ chức như mặt trận Việt Minh (hoặc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau năm 1954) để củng cố địa vị của đảng.[7]”

      Đảng Cần lao theo tài liệu của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
      https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon/pent13.htm

      “4. Political Parties
      the Personalist Labor Revolutionary Party (Can Lao Nhan Vi Cach Mang Dang) …”

  6. con meo says:

    Thế hệ trẻ VN cần phải biết rõ lịch sử đạo thiên chúa, giáo hội Công giáo VN bằng cách hãy vào các website sachhiem.net, giao điểm để biết lịch sử phản quốc của giáo dân VN làm tay sai cho Vatican và vẫn còn tiếp tục nhận chỉ thị từ Vatican, tẩy não giáo dân: tổ tiên VN là man di, cầm thú, phỉ báng Phật giáo, âm mưu Công giáo hoá VN để dễ bề sai bảo.
    Dòng họ Ngô Đình là Việt gian ba đời, kỳ thị tôn giáo khác, dâng nước cho Vatican.
    Bằng chứng còn đầy trong các văn khố ngoại quốc.

  7. May Vu says:

    Không hiều tại sao HOA KỲ lại chọn FINAL GAME cho Cụ Diệm vào tuần lể NHÁT MA (HALLOWEN )MA QUỶ này ? Là nước nặn ra VNCH , thay QUATER BACK để đấu GAME với khối CỘNG SÃN ?
    AI ờ US /MỶ cũng ít nhiều biết môn CÀ NA , và TT DIỆM lại ở nhiều năm tại New York ,TT Anh Minh mà không biết ,ông chủ GAME U.S bỏ tiền ra , Quaterback TT Diêm cứ chọi banh tầm bậy ,(intercepts) ,Mất banh (fumbles) và quyết định thay thế ,Là chuyện thường tình Nhửng nước nhận VIÊN TRƠ MỶ ? Đến nay các Pro HOÀI NGÔ củng chưa nhận ra màn dàn dưng CHỐNG CỘNG như BET banh CÀ NA ,BÓNG RỔ hay rỏ ràng nhất là ĐÔ VẬT (Wrestling) vẩn là THẬT ,Thua game ,Chiến tranh MN ,TÙ ngu ,TIỀN ngu mà vẫn thấy khái khoái lâng lâng ?
    Nhóm Pro HOÀI NGÔ Bắc kỳ 54 củng như nhóm Pro CS Bắc kỳ 75

  8. D.Nhật Lệ says:

    Vận nưóc VN.kể từ 1945 – 1954 thật qúa đen tối.Nếu không có một loạt tay sai người Việt qua Liên Xô
    để được bọn này rèn luyện rồi về cộng sản hóa một nửa nước như một đòn bẩy để tròng lên cả nước thì
    nước ta làm gì bây giờ chịu Tàu cộng nuốt dần như thế này nhưng VC.chỉ dám kêu ú ớ trong miệng !
    Trước tại họa Đỏ là cộng sản từ miền Bắc,miền Nam không còn con đường tự cứu nào khác là phải cậy
    nhờ Mỹ vì Mỹ cũng đang ở thế phải tìm cách ngăn chận Cộng sản Quốc tế.Thế nhưng,quan hệ đồng minh
    Việt- Mỹ chỉ êm ả và thuận buồm xuôi gió ở giai đoạn đầu.Lý do là vì đó là một quan hệ BẤT BÌNH ĐẲNG
    và bên nào mạnh thì lấn lướt bên yếu.Hơn nữa,Mỹ vốn thực dụng chỉ làm sao có lợi cho mình,bất chấp lợi
    ích của đồng minh miền Nam còn khiếm khuyết về mọi phương diện.Do đó,hậu qủa không thể tránh khỏi
    là Mỹ càng ngaỳ càng muốn can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến.Và muốn thế thì phải hất cẳng TT.NĐD.vốn
    cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia như lịch sử đã cho thấy.
    Vài hàng nói đến bọn Mỹ qúa thủ đoạn (không khác VC.chỉ thua VC về mặt tàn ác đối với đồng bào của mình).Giai đoạn kế tiếp là Mỹ chuẩn bị dư luận bằng hàng loạt tài liệu nửa thực nửa hư,thậm chí vu cáo và bịa đặt về TT.NĐD.để có cớ lật đổ ông cho bằng được.Tại sao như vậy ? Để biết sự thật,”Bên dòng lịch sử” dù hồi ký cũng đã thuật lại lời TT.NĐD.như sau “Nếu bây giờ,chúng ta nhượng bộ một bước thì Mỹ sẽ lại đòi thêm,biết nhượng bộ đến bao giờ cho vừa lòng họ.Tôi muốn võ trang đầy đủ cho Bảo An,Dân Vệ,
    Thanh Niên Chiến Đấu : Mỹ KHÔNG CHỊU.Tôi muốn tăng cường quân đội : Mỹ TỪ CHỐI,không cấp vũ khí và phương tiên.Mỹ chỉ muốn ĐƯA QUÂN qua VN.mà thôi”.
    Cũng chính lời tác giả là linh mục Cao Văn Luận mô tả lại những gì ông biết về những chính khách Mỹ
    từng đích thân tiếp xúc ông để tìm hiểu xem nhân vật nào có thể thay ông Diệm được,kể từ sau 1963.Tất
    cả đều lắc đầu và bày tỏ sự hối hận đã lật đổ TT.NĐD.,nhất là những người Mỹ từng viết sách trước đó
    để chuẩn bị dư luận cho Mỹ thực hiện việc lật đổ một chính phủ hợp pháp trước mắt quốc tế.
    Đến nay,rất nhiều người VN.dù đã ngót 1/2 thế kỷ vẫn kết tội chế độ NĐD.đàn áp Phật giáo,chỉ vì họ đều
    quên rằng Liên Hiệp Quốc qua phái đoàn điều tra gồm những người Phật giáo như Thái Lan,Sri Lanka
    (Tích Lan),Burma (Miến Điện) v.v..đã bác bỏ cáo buộc nói trên bằng một bản Phúc Trình gọi là “Report
    of the United Nations : fact finding mission to South-Viêt Nam” tuyên đọc ngày 13-12-1963.Sở dĩ có sự
    chậm trễ này là vì bị Mỹ ngăn chận khi thấy thủ đoạn của mình đã không xảy ra đúng kế hoạch của Mỹ là
    đổ tội NĐD.đàn áp Phật giáo.Sau đó,mọi sự đã rồi thì LHQ.mới có phiên họp để tuyên đọc.
    Tóm lại,quan hệ với Mỹ là một kinh nghiệm cay đắng không chỉ cho riêng miền Nam VN.mà còn cho nhiều nước nhược tiểu khác như Trung Hoa Quốc gia thời còn Tưởng Gíới Thạch,Pakistan,Kampuchia v.v.Có
    một số người hiện nay,nực cười thay là dùng kinh nghiệm đó để hù doạ VC.Theo tôi là sai hoàn toàn vì
    csVN.đang có quan thầy Tàu cộng đỡ đầu đến mức lệ thuộc vào Tàu cộng trên hầu như mọi lãnh vực,về
    mặt tinh thần (ý thức hệ CS) lẫn về mặt vật chất (các công trình trọng điểm,viện trợ kỹ thuật và tài chính) và vì thế Mỹ không thể ép VC.qúa.Ngược lại trước kia,VNCH.chỉ dựa vào Mỹ vì chẳng nước tư bản phương Tây nào chịu làm ĐẠI CA như Mỹ cả.Vì thế,Mỹ trở mặt thì VNCH.phải…đi đứt !
    Đại họa cho nước VN.ta “lún sâu vào con đường lệ thuộc”(TC.) là ở chổ này ! Đó không phải chỉ do tôi
    hay bất cứ người quốc gia nào nói mà là một trí thức thiên tả-thân cộng ở Pháp nhận định mới đây trên
    báo mạng DĐ.Đó là ông Nguyễn Ngọc Giao thuộc nhóm DĐ.,từ “trí ngủ” đến trí…thức thật !

  9. Trung Kiên says:

    Đọc bài viết với diễn tả cuộc di cư “vĩ đại” khá chi tiết, TK tưởng tác giả Nguyễn Thu Trâm phải là một người trong số các cụ đầu tóc bạc phơ, nhưng khi đọc đến câu;…

    Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi“…thì ra Thu Trâm cũng còn trẻ?

    TK không coi TT Ngô Đình Diệm là vị “ân nhân” đã có công đem, và ổn định đời sống cho gần một triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam,…mà TK ngưỡng mộ, yêu mến và kính trọng vị nguyên thủ quốc gia, Ngô Đình Diệm là người hiền đức, một người đã hết lòng vì dân vì nước…và vị quốc vong thân!

    Nếu ÔNG không là người nhân ái, mà là kẻ “độc tài cố vị” như một số người cáo buộc, … ÔNG đã thẳng tay cho phản công tiêu diệt tất cả những tên phản tướng trong bộ TTM chiều 1.11.1963… thì hẳn sự việc chắc chắn đã đổi khác rồi. Nhưng tiếc thay, “lịch sử” không có chữ “NẾU”!

    Bọn phản tướng quá hèn hạ và vô liêm sỉ đến nỗi, sát hại anh em cụ Diệm bằng súng và dao, nhưng lại không dám nhận trách nhiệm!… Chúng tung tin là hai ông đã tự vẫn! Hu hu hu… tự tử thế nào khi hai tay đã bị trói quặt về đàng sau???

    Đồng ý với tác giả;…”cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam… .

    Đối với ông Hồ Chí Minh và csvn thì đây là một đại thắng tất yếu… “bất chiến tự nhiên thành” mà thành quả của nó, họ là đã đạt được chỉ ngắn gọn 12 năm sau đó (ngày 30.4.1975) khi quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn.

    Khốn nạn thay, những kẻ phản loạn đầu óc quá thiển cận và vọng ngoại như: Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim…cùng một số chính khách salon, làm tay sai cho Mỹ, đã ra tay lật đổ chế độ Đệ Nhất Công Hoà và sát hại ông Diệm, chúng vô tình (hay cố ý) đã tiếp tay cho csvn thôn tính VNCH?

    Những kẻ kể trên đích thực là tội đồ của dân tộc, chúng đáng bị nguyền rủa!

    Ngày 2.11.2012 sắp đến, đánh dấu 49 năm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm (và bào đệ ngô Đình Nhu) bị sát hại. TK xin dâng nén hương lòng…

    …kính xin vong linh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hồn thiêng sông núi hãy phù trợ và giúp dân tộc Việt Nam sớm thoát ách CS bạo tàn để xây dưng một nước Việt Nam; DÂN CHỦ – TỰ DO với một xã hội CÔNG BẰNG và NHÂN ÁI!
    Mong thay!

    • Trung Kiên says:

      Chào bạn Lê Lai

      Cám ơn Bạn đã nhắc nhở!

      Nhưng TK gởi lời khuyên “đừng nhìn vấn đề bằng cặp mắt của kẻ đi 4 chân nữa! lại cho Bạn là, không phải hễ Chưng Sơn nói thế nào, viết thế nào là Bạn vội tin và nhét vào đầu nhé!

      Con chó nó còn biết gặm thịt chứ không nuốt xương khi có người ném cho nó khúc xương!

      Trẻ con thường hay chơi xỏ nhau, lấy phân chó khô gói vào giấy bọc kẹo rồi đưa cho nhau. Những đứa trẻ thông minh thì mở ra xem trước, vứt đi, còn những đứa dốt nát, nhẹ tin, vội bóc giấy rồi tỏm ngay vô họng làm trò cười cho bạn bè.

      Nói thế chứ Chưng Sơn là người lớn, biết cầm bút viết, chắc sẽ không chơi xỏ Lê Lai như vậy đâu…

      Anh em ông Diệm là người yêu nước và chống cộng triệt để, họ biết làm gì có lợi cho dân cho nước mà, Bạn không nên lấy đầu óc tiểu nhân của mình suy lòng thiên hạ!

      Sau cùng xin có lời với Bạn: Chết là hết, nếu không biết thì thôi, nếu biết, tôi sẽ thắp cho Bạn nén nhang. Tôi cũng đã nói với Chưng Sơn như thế!

      Chúc Bạn sức khoẻ và tâm hồn an lạc…

      • D.Nhật Lệ says:

        Phải nói bác TK…là người quân tử qúa mức khi hạ cố trả lời kẻ
        mà ngay từ đầu đã bộc lộ chân tướng của mình là khinh thường
        đến nỗi coi người khác không phải con người.
        Đây là phản ứng thường thấy nơi những kẻ “suy bụng ta ra bụng
        người”,không đáng cho bác phải thảo luận vì họ chẳng biết gì về
        phương thức đối thoại dựa trên tinh thần dân chủ,bình đẳng cả.
        Chúc bác TK.luôn an mạnh.

      • Choi Song Djong says:

        Chẳng phải TK quân tử gì,nhưng bác ấy có sức nhẫn nại thế thôi.D.Nhật Lệ cũng đã biết cái cách thức khi người ta muốn thuần một con hoặc một bấy thú ? nếu ta chuyên dùng roi vọt thì chẳng những không đem lại kết quả mà có khi còn bị thú cắn.

      • Trung Kiên says:

        Chào bác D.Nhật Lệ

        Đôi khi cũng mệt mỏi nhưng phải cố gắng thôi! Tưởng rằng mình vào đây để học hỏi thêm, nào ngờ còn có những người kém hiểu biết hơn mình, nên cũng rán cố gắng kiên nhẫn chia sẻ, giúp đỡ nhau mở mang trí óc vậy mà!…

        Mình nghĩ rằng, đây cũng là cách đóng góp với ĐànChimViệt, vì họ chủ trương cổ vũ cho “DÂN CHỦ” và “nâng cao dân trí“. Dân trí có cao thì xã hội mới tiến lên được, phải không Bác?

        Không chỉ DIỄN ĐÀN mà cả đất nước cũng đang rất cần những người hiểu biết như Bác. Mình cũng thường đọc ý kiến của Bác, cám ơn nhiều.

        Chúc Bác sức khoẻ tốt, luôn kiên cường và nhiều nghị lực…

      • Trung Kiên says:

        Cám ơn bạn Choi Song Djong đã quan tâm góp ý.

        Chúc vui vẻ…

    • Bần-Nông says:

      Thấy comment của bạn, tôi không biết bạn hiểu chính trị được bao nhiêu mà đưa ra kết luận là “miền Nam rơi vào tay CS từ giữa năm 1964” nếu Ngô Đình Diệm & Nhu còn nắm chính quyền???!!!… Dựa vào comment của bạn, thì bạn là người thông suốt & am tường chính trường lắm. Tôi có vài câu hỏi mong bạn giải thích cho tôi được am tường (cám ơn bạn trước).

      1) Trong hồi ký của Võ Nguyên Giáp có đoạn ông viết “ông không hiểu tại sao Mỹ không tiếp tục dội bom & phong tỏa Bắc Việt (1972) trong khi Bắc Việt đang kiệt quệ sắp sửa đầu hàng. Tại sao vậy?
      2) Tại sao các tuần dương hạm của hạm đội 7 đưa mắt làm ngơ để tàu TQ đánh chiếm Hoàng Sa (1974), trong khi các tuần dương hạm nầy đang cách Hoàng Sa không xa?
      3) Khi 1 quốc gia trong Hội Đồng Bảo An LHQ phủ quyết, thì nghị quyết đó không thể thực thi. Trung Hoa Quốc gia đã là thành viên của Hội Đồng Bảo An LHQ & họ có quyền phủ quyết không cho TQ vào LHQ, thì bằng cách nào TQ có thể vào được LHQ?

  10. Nguyễn says:

    Hình như là bà Nhu mommy của các em LE CHIEN giết ông Diệm thì phải…:))

    Sử Mỹ đã chép rằng:

    “…her uneducated, uncontrollable mouth, killed her brother-in-law…”

    Người Bắc Di Cư vào Nam

    Một số rất đông đồng loạt chuyển vào Nam như thế thì trước mắt là gánh nặng rồi đó, còn chuyện hữu ích là chuyện về sau.

    Là gánh nặng hay hữu ích là một lẽ, nhưng họ vừa là người tị nạn lại vừa là đồng bào, thì người miền Nam có trách nhiệm cần cứu giúp cưu mang họ. Và người miền Nam đã rất tích cực về phương diện này trong tinh thần “Lá lành đùm lá rách”.

    Mỹ, trong vai trò đối nghịch CS, cũng đã viện trợ cho chương trình di cư.

    Tóm lại nó là một công việc rất hao tổn, khó nhọc.

    Nhưng nó lại là một mối làm ăn béo bở cho gia đình ông Diệm. Ông Diệm đã ăn cắp trong túi của người miền Nam và ăn xén trên đầu của người miền Bắc. Đó là lý do người dân cả 2 miền Nam Bắc đã xử tội ông Diệm.

    John Cooney – Chủ nhà báo, chủ bút, trưởng ban biên tập, nhà thuyết trình thời sự
    Drew Parson – Mang nhiệm vụ báo cáo, tường trình. Nhân viên cao cấp trong chương trình viện trợ cho Ngô Đình Diệm

    “Tham nhũng trong chính phủ ông Diệm rất cao và cũng làm hại tới uy tín của tổ chức cứu trợ. Ước tính chỉ trong năm 1955 (ngay từ lúc Diệm bắt đầu cầm quyền) chính quyền Eisenhower đã chuyển vào Việt Nam trên 20 triệu đô-la viện trợ giúp người tị nạn Công giáo. Không thể tránh được, có quá nhiều gắn ghép và tham nhũng trong việc phân phối thực phẩm, thuốc men, và các đồ dùng khác tới các làng mạc. Tờ National Catholic Reporter đã phúc trình những sự lạm dụng của Tổ chức Cứu trợ Công giáo trong nhiều bài mà một bài có đầu đề là: “Việt Nam 1965-1975. Vai trò của Tổ chức Cứu trợ Công giáo: Công trình của Chúa hay của CIA?” Những sự lạm dụng bị phanh phui gồm có: dùng viện trợ để truyền đạo, chỉ giúp những người Công giáo tuy viện trợ là cho tất cả mọi người, đồng nhất hóa với quân lực, và đem cho lính riêng của ông Diệm thay vì cho dân sự đúng theo mục đích của viện trợ.”

Leave a Reply to Hoài An