WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Diện mạo văn hóa, văn học miền Nam trong những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn hóa-văn học [kết]

Tiếp theo phần trước

 

 

Về mặt báo chí

Sự có mặt của các nhà báo, phóng viên, các người làm truyền thông từ miền Bắc di cư vào miền Nam là một thách thức lớn lao đối với cá nhân và sự nghiệp của chính họ.

Điều trước tiên là họ không hoặc chưa có độc giả-. Trong Nam, người ta quen với văn phong của Bà Tùng Long và cách làm báo của bà Bút Trà rồi. Báo Sài Gòn Mới ra mỗi ngày 65.000 ngàn số, rồi còn Tiếng Chuông, 60.000 số, tiếp theo là Tin Điển, Tiếng Dội, Buổi Sáng, Thời Cuộc, Ánh Sáng, Lẽ Sống..

Không có độc giả, báo di cư lúc đầu lèo tèo bán được mười lăm đến 20 ngàn số đã là quý rồi. Đó là hoàn cảnh các báo Ngôn Luận của Hồ Anh, Tự Do của Phạm Việt Tuyền lúc đầu. Nhưng đến khi báo Sống của Chu Tử, tức Chu Văn Bình)- tác giả của các tác phẩm như  YêuGhét-. Ông nổi tiếng với mục Ao Thả Vịt. Và ông cũng là người đưa truyện dài Loan Mắt Nhung của Nguyễn Thụy Long ra trình làng.

Báo Sống của Chu Tử xuất hiện như một thứ nổi loạn thành công ngay từ đầ và đã tự tạo cho mình một phong cách làm báo riêng.- Đó là Phong cách Chu Tử- và nó có một số độc giả phần lớn ở Sài Gòn vượt mọi con số.

Chính Luận của bác sĩ Đăng Văn Sung thì đã chững chạc, uy tín lắm rồi về mặt tin tức và bình luận chính trị mà thường các báo chí khác ở Sài Gòn thường coi nhẹ..

Đây là một khúc quanh khá quan trọng trong làng báo Sài Gòn. Chính Luận tránh đưa những loại tin giật gân và nhảm nhí. Uy tín ấy nay nằm trong các tin tức bình luận chính trị sắc bén thay vì các tin tức nhảm nhí, bịa đặt.

Rồi điều thứ hai dân làm báo Bắc Kỳ chưa tạo được tên tuổi-. Tên tuổi ở miền Bắc thì có thể có- như trường hợp  Tam Lang, Vũ Bằng, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Lê Văn Trương, Thượng Sĩ, Trực Ngôn.

Nhưng tên tuổi ở trong Nam lại là một chuyện khác. Họ phải tự ngoi lên.

Những tên tuổi như Tam Lang, Vũ Bằng, nhất là Lê Văn Trương chẳng mấy chốc lu mờ đi nhường chỗ cho Sức Mấy, Hiếu Chân, Dương Hùng Cường hay Dê Húc Càn, Thần Đăng, Công Tử Hà Đông, Gã Thâm (hai bút hiệu của Hoàng Hải thủy), Thợ đấu Hoàng Anh Tuấn và đặc biệt nhất là Duyên Anh.

Nguyễn Thụy Long- tiêu biểu cho số phận một nhà báo long đong, cơ cực nhất, vào tù ra khám, lúc làm culy ở kho 5 Khánh Hội, lúc làm thợ hồ. Chỉ đến khi Chu Tử ra báo Sống, sau  1963 đã thu nhận ông. Trong hồi ký ông viết: ông run lên vì nhận được số tiền nhuận bút đấu tiên, từ đó đời ông mới khấm khá lên được.

Rồi đến Duyên Anh cũng có lúc ba chìm bảy nổi- nhưng không đến nỗi long đong như Nguyễn Thụy Long-, ông đã gây được sự nghiệp làm báo với nhiều bút hiệu như  Thương Sinh, Nã Cẩu, Bếp Lửa. Nhưng bút hiệu Thương Sinh quen thuộc hơn khi ông ra tờ Con Ong.[1]

Xem Duyên Anh và tôi,  Vũ Trung Hiên, 2000

Nếu Nguyễn Thụy Long may mắn gặp được Chu Tử với bào Sống, thì Duyên Anh cũng may mắn khi về cộng tác với tờ Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm, bút hiệu Thiên Hổ.

Duyên Anh (1935-1997)

Duyên Anh (1935-1997)

Truyện ngắn đầu tay Duyên Anh là Hoa Thiên Lý và Con sáo của em tôi đăng trên tờ Chỉ Đạo của Nguyễn Mạnh Côn đã chinh phục được lứa tuổi nhi đồng bấy giờ cũng như những truyện khác của ông sau này.

Ngoài Nhật Tiến viết về các thiếu nhi bất hạnh còn có Lê Tất Điều. Nhưng Duyên Anh có thể nói là một nhà văn viết dành cho tuổi trẻ. Thế giới của tuổi nhi đồng  trong truyện của Nhật Tiến thường gặp nhiều bất hạnh. Trong khi thế giới trong truyện của Duyên Anh là một thế giới vui tươi, nghịch phá. Thế mới là tuổ trẻ. Vio2 thế, những truyện thiếu nhi  của ông được nhiều thanh thiếu niên tìm đọc. Trội vượt hơn cả là các cuốn Luật hè phố, Thằng Vũ, Bồn Lừa, Thằng Côn vv..

Nhưng Duyên Anh còn nổi tiếng- như một thứ vua không ngai- trong các phóng sự mang tính châm chọc, chửi  bới đủ hạng người trong xã hộii và gây nhiêu thù oán với những bài viết phóng sự như Tiền Mẽo, Sến Việt, Đầm Giao Chĩ.. Ông chế ra nhiều chữ, chửi ai thì người đó chỉ có chết. Tỉ dụ chửi tác giả Cậu Chó, ký tên Trần Đức Lai của ông Tô Văn. Tô Văn tên thật là Bùi Bá Nhân, Thương Sinh đổi ra là Bùi bất Nhân..

Khen ai cũng hết lòng khi gọi  Phạm Kim Vinh, tức Trương Tử Phòng, bình luận gia của báo Chính Luận là quân tử. Cũng đúng chừ không phải là sai. Những Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Diệm thì đều có trong mắt của Duyên Anh. Ông trân trọng cả hai. Điề đó cũng đúng cả.

Khi ông làm phòng viên cho tờ Xây Dựng đi dự phiên tòa xử Đặng Sỹ, ông thấy rõ  việc dàn dựng của Trí Quang trong việc này. Ít báo nào dám lên tiếng. Ông ghi nhận và những ghi nhận của ông trong phiên tòa được giao cho một người viết ký tên Lê Thương Hòa. Lê Thương Hòa là ai? Theo Duyên Anh tiết lộ chính là Trần Kim Tuyến.

Cuộc đời Duyên Anh lúc cuối đời gặp rất nhiều truân chuyên, oan trái từ đi tù cải tạo đến bị đánh oan và gia đình gặp nhiều lủng củng..

Vài dòng ghi nhận vắn tắt về ông như một chứng nhân đặc biệt của nhà báo di cư vào miền Nam.

Trước cuộc di cư, làng báo Sài Gòn bị cộng sản trà trộn, chi phối. Đó là cái khó khăn thứ ba.

Đó cũng là một thử thách thêm nữa cho các nhà làm báo di cư phía Bắc.

Một trong những vết đen của làng báo Nam Kỳ là là có sự thả lỏng cho sự xâm nhập của cộng sản vào trong các tòa doạn.

Quả thực, họ đãng lũng đoạn nhiều tờ báo mà nhiều khi chủ nhiệm chủ bút không biết.

Các tờ báo trong Nam một cách nào đó đã bị chi phối bởi cộng sản qua những nhân vật chủ chốt như Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Linh và Mai Văn Bộ. Ngoài ra hầu như báo nào cũng bị  chi phối xâm nhập như các tờ Dân Chúng, Sài Gòn mới và sau đó là các tờ Tiếng Dội, Trời Nam, Lẽ Sống, Buổi Sángvv..

Điều tai hại là ngay một số số ký giả lão thành có uy tín như Nam Đình, Nguyễn Ang Ca, Trần tấn Quốc cũng ngả theo cộng sản.

Cho nên, ngay khi vừa chấp chánh thì chính quyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đóng cửa ngay lập tức tờ Thần Chung của Nam Đình.

Ngày nay nhìn lại, phải nhìn nhận là các tờ báo này thiếu nhạy bén về chính trị, chú trọng nhiều vào phạm vi thương mại nên phần đông đều có bọn ký giả nằm vùng theo cộng sản  xâm nhập. Triệu Công Minh len lỏi vào báo Tiếng Dội, Trường Xuân Trúc vào báo Dân Chúng, Nam  Thanh, báo Lẽ Sống, Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba, báo Buổi Sáng, Trần Thanh Thế, Văn Mạnh, báo Sài Gòn mới, Nguyễn Văn Hiếu, báo Tiếng Chuông.. Cộng thêm một số ký giả kỳ cựu và nghệ sĩ cải lương cũng theo cộng sản như Các ông Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Nguyễn Tích Dẫn, Nguyễn Huy, Hồ Văn trai, Sơn Tùng, Phong Đạm, Quốc Phượng, Hoài Trinh,  đạo diễn Lê Dân và Mai Thế Đồng, nhà văn Thẩm Thệ Hà, Nguyễn Bảo Hóa. Các cán bộ trí vận như  Nguyễn Văn Chì, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cửu, Cổ Tấn Văn, Bùi Đức Tịnh, Hồ Văn Trai..

Cộng chung, trên dưới  cũng 40-50 chục người.

[2]Đọc Địa Chí Văn Hóa, thành phố Hồ Chí Minh, trang 600-604.

Sự xâm nhập của cộng sản vào làng báo Nam Kỳ là điều khó kiểm soát cho các vị chủ báo như ông Đinh Văn Khai, báo Tiếng Chuông hay bà Bút Trà, bào Sài Gòn mới vv..

Ngay cả những tờ báo sau này do người Bắc di cư làm chủ báo cũng bị cộng sản cài người vào như trường hợp ký giả Thành Hương vào báo Dân Chủ của ông Vũ Ngọc Các, Châu Dương vào báo Ngôn Luận của ông Hồ Anh, Ty Ca vào tờ Sài Gòn Mai của ông Ngô  Quân, Ký Ninh vào tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện, Nam Đình vào tờ Dân Chủ Mới.

Việc kiểm soát càng trở nên khó khăn khi làng báo quy tụ một số lớn các nhà báo thuộc đủ thành phần, đủ nguồn gốc như cựu kháng chiến, kháng chiến về thành, di cư mới vào. Làm thế nào để phân biệt dứt khoát ai là thân cộng, ai chống cộng. Làm thế nào xác định, đánh giá được Văn Bia, Bình Nguyên Lộc, Kiên Giang Hà Huy Hà, Hiếu Đệ, Nguyễn Ang Ca, Sơn Nam? .. hay những tên tuổi như Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Đông Tùng..

Ngay giữa Sài Gòn nhởn nhơ những người ngả theo cộng sản như Sơn Nam, Vũ Hạnh. Họ là bạn bè của những Thanh Lãng, Nhật Tiến, Nguyễn Tường Tam. Bên cạnh họ là những nhà báo chống cộng sản như Từ Chung, Sức Mấy, Chu Tử…

Tất nhiên chính quyền không thể không nghĩ tới tình thế nan giải trên và đã bày tỏ nỗi ưu tư đó bằng cách đưa ra 7 Nghị định về xuất bản và kiểm duyệt báo chí từ ngày 7-7-1954- ngay ngày đầu tiên chấp chính của thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Và chỉ ba tuần sau, chính phủ Ngô Đình Diệm phải đương đầu sự khuấy rối của cộng sản qua Phong Trào Bảo vệ Hòa Bình tổ chức mít tinh ngay tại chợ Bến Thành, ngày 1-8-1954. Kẻ đứng làm bình phong là kỹ sư Lưu Văn Lang mà đằng sau ông ta là những cán bộ cộng sản như Phạm Huy Thông, Nguyễn Thị Châu Sa(về sau đổi tên là Nguyễn Thị Bình), Nguyễn Bảo Hóa tức ký giả Tô Nguyệt Đình và những trí thức như Nguyễn Hữu Thọ, nhà sư Thích Huệ Quảng, dược sĩ Trần Kim Quan, ký giả Nguyễn Thị Lựu, Giám điốc Pháp Hoa ngân hàng Nguyễn Văn Vỹ, tức Michel Vi Van.

Chính quyền phản ứng bằng cách băt giam 28 người cầm đầu Phong trào này. Nhưng cuối cùng do Ủy Hội Quốc tế can thiệp, chỉ có hai người bị đưa ra Bắc.

Trong số những ký giả trên, chính quyền VNCH ra lệnh bắt hàng loạt ký giả của nhiều tờ báo như Trần Ngọc Sơn, Anh Tín, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Diệp Liên Anh, Trần Quốc Thảo.. đã bị đưa đi các trại tù ở Tân Hiệp, Biên Hoàn hoặc đầy ra Côn Đảo.

Có những biện pháp nhẹ hơn như nhóm Chân Trời Mới của bộ ba Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc phải tự ý đình bản đồng thời tuần báo Cải Tạo vốn do một ký giả miền Bắc di cư vào- ký giả Phạm Văn Thụ bị thu hồi giấy phép vì trao cho nhóm Hoàng Trọng Miên( điều hành tòa soạn. Riêng tờ Nhân Loại, nơi tập trung nhiều ký giả cộng sản thuộc hàng ngũ kháng chiến hoặc thiên tả.[3]

Nguyễn Văn Lục, Hai mươi năm miền Nam, 1955-1975, các trang 443-446

Trong một tình trạng bị cộng sản giật dây chi phối, lũng đoạn, vai trò của các phóng viên, nhà báo di cư trở thành một thứ Mặt trận với cộng sản nhằm tranh đấu loại bỏ ảnh hưởng của cộng sản và tranh đấu cho Tự do, dân chủ.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn, các nhà báo miền Bắc, với ngòi bút phần lớn sắc bén về chính trị dần dần tạo dựng được tên tuổi, tạo dựng được uy tín nơi các độc giả di cư và ngay cả độc giả gốc miền Nam..

Những tờ báo đi đầu trong giai đoạn này là tờ báo Tự Do với bác sĩ Lý Trung Dung và nhóm sáng lập bị loại ra ngoài như các ông Tam Lang Vũ Đình Chí, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Nguyễn Hoạt để thay thế bằng nhà giáo Phạm Việt Tuyền đứng chủ nhệm.(Sau này, Nguyễn Hoạt cay cú và chỉ trích, nói xấu chế độ đệ nhất cộng hòa cũng như nói xấuTrần Kim Tuyến).

Tờ Tự Do lúc ấy được coi là tiêu biểu nhất cho các văn nhà báo thuộc diện di cư với các cây bút như Tam Lang, Hiếu Chân, Vũ Bình, Bùi Xuân Uyên, Như Phong Mai Nguyệt ( tức Tchya Đái Đức Tuấn), Hà Thượng Nhân.

Tiếp theo là tờ Ngôn Luận

Tiếp theo là các tờ Chính Luận, Dân Đen, rồi Xây Dựng, Hòa Bình, Tiền Tuyến Sống, và tờ Sóng Thần..

Nhiều nhà báo từ ngoài Bắc vào- tùy theo tuổi tác và kinh nghiệm nghề nghiệp- đã được đồng hóa vào sĩ quan quân đội để tiện nắm những chức vụ chỉ huy các cơ quan truyền thông đủ loại. Như trường hợp nhà báo Hà Thượng Nhân được biệt cách mang lon thiếu tá để làm việc.. Đã có rất nhiều những cây bút trở thành những ngòi bút tranh đấu như người lính ngoài mặt trận. Họ là những người  như Hà Thượng Nhân, Dương Hùng Cường hay Dê Húc Càn, Sức Mấy, Hiếu Chân, Minh Võ, Từ Chung, Chu Tử vvVà nhiều ký giả trở thành mục tiêu cho cộng sán ám hại.

Rất tiếc là vào những năm cuối của chế độ đệ nhất cộng hòa phải lo đối phó với các thành phần đối lập nhất là bận tâm trước phong trào Phật giáo Ấn Quang..

Vai trò chống cộng sản bị tạm thời sao lãng. Mối ưu tư của chính quyền về hiểm họa cộng sản chuyển hướng qua sự lo âu về các hoạt động đối lập.

Thay vì chống Cộng nay phải lo chống đối lập, chống những người biểu tình. Phần một số nhà báo cũng bắt đầu quay ra chống chính phủ. Trước chống cộng nay chống chính quyền.

Và không có gì lạ sau 1963, tất cả những thành tích đạt được của các nhà báo chống cộng sản cũng như của chính quyền đã bị xóa hết mọi kết quả thâu được trong suốt 9 năm trước về mức kìm giữ được sự xâm nhập của cộng sản.

Sau 1963 là thời cơ của cộng sản đẩy mọi hoạt động khuynh đảo, khuấy rối thuộc đủ thành phần do cộng sản giật giây.. Nhiều lúc, chính quyền tỏ ra không còn có khả năng kiểm soát nổi trật tự ở ngay Sài Gòn.

Hầu như có một mặt trận ở ngoài trận địa với bom đạn và một thứ mặt trận với hàng rào kẽm gai, lựu đan cay và người biểu tình. Làm sao chúng ta không thua được?

Và mặc dù có một số tờ báo vẫn đứng vững, trụ chân làm thế chống đối bạo quyền cộng sản và bảo vệ miền Nam như các tờ Tin Sáng (do Lý Đại Nguyên đứng tên chủ nhiệm), Chính Luận, Sống, Đuốc Nhà Nam và Xây Dựng…Liệu những con én trên có làm nổi nên một mùa xuân không?

Sự chống đối lên đến cực điểm giữa chính quyền và tờ Sóng Thần, chống tham nhũng, tờ báo có lúc số phát hành theo Uyên Thao lên tới 200.000 số.

Bên cạnh đó chính quyền đệ nhị cộng hòa lại không quan tâm cho đủ đến  một tờ tạp chí Tin Văn,- một tờ do Nguyễn Nguyên- một cán bộ cộng sản được cử vào Nam từ 1954- Tờ báo quy tụ nhiều ký giả nằm vùng như bà Minh Quân, Vũ Hạnh, Kiên Giang, Sơn Nam, Thẩm Thệ Hà, Thanh Việt Sơn, Phan Du, Đông Tùng ( Nguỹn Văn Bồng), Lương Sơn, Hướng Dương tức Rum Bảo Việt hay Sáu Chiến ủy viên đảng ủy văn hóa.. Ngoài ra còn có sự cộng tác của một số khuôn mặt nằm vùng theo MTGPMN như Lữ Phương, Thái Bạch và kéo theo được một số người khác như Nguyễn Hiến Lê, Á Nam Trần Tuần Khải, họa sĩ Tú Duyên, Nguyễn Đức Quỳnh, Trọng Lang, Thạch Chuong tức nhạc sĩ Cung Tiến, vv..

Qua Tin văn, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn đã đánh phá các nhà báo như Chu Tử suốt từ 1966-1971. Riêng Phạm Duy bị Nguyễn Trọng Văn viết hẳn một cuốn sách nhan đề: Phạm Duy đã chết như thế nào ? vào năm 1971, do Văn Mới xuất bản..

Tin Văn đã đạt được một kết quả là vận động, lôi cuốn được 118 văn nhân, nghệ sĩ ký giả.. đồng ký tên vào bản Tuyên Ngôn chống Văn Nghệ đồi trụy để kết án tòan bộ sinh hoạt văn học nghệ thuật  miền Nam..

Sau luật 007 được ban hành thì phần thắng nghiêng hẳn về phía cộng sản.

Hai tờ Điện TínBút Thép, ký giả Lê Hiền, người của cộng cài vào trực tiếp chi phối tờ báo. Còn lại một số tờ khác như Sài Gòn Mới, Dân Luận, Hòa Bình, Độc Lập nặng về phần kinh doanh hơn là chống cộng sản..

Còn lại tờ Đại Dân Tộc, Đông Phương thì người điều khiển tờ báo là một cán bộ cộng sản—ký giả Tô Nguyệt Đình, tức Nguyễn Bảo Hóa- từng bị bắt giam thời đệ nhất cộng hòa.

Nhìn lại cuộc tranh đấu xuống đường của nhật báo Sóng Thần với Ngày Ký giả đi ăn mày vào màn chót của  miền Nam Việt Nam.. Tôi vẫn nghĩ là nó mang giá trị lưỡng tính của một chọn lựa: Hoặc chọn lựa giữa tranh đấu dân chủ, tự do báo chí  hay là chọn lựa tranh đấu chống cộng sản?

Không lạ gì, cộng sản rêu rao về cái ngày đó như một thành tích của chính họ..

Về mặt Văn Học

Trí thức, nhà văn miền Bắc khi chọn di cư vào miền Nam đều có một mẫu số chung: chọn tự do.  Tự do là lẽ sống và là lý do chính yếu để họ rời khỏi miền Bắc. 9 năm liên hệ, đối đầu với cộng sản đủ để họ hiểu thực chất người cộng sản là gì.

Khi bước chân vào miền Nam, các nhà văn, nhà thơ trẻ của miền Bắc đều có một thái độ chính trị rõ rệt, dứt khoát qua các bài viết trên tờ Người Việt( tiền thân của Sáng Tạo) như:

-  Hòa bình và Hội Nghị Geneve

- Phải bảo vệ nền độc lập văn hóa

- Thực chất văn nghệ cộng sản

-  Văn Nghệ và cách mạng

- Chủ nghĩa Mác với văn Ngệ Việt Nam

-  Vấn đề giai cấp xã hội

- Nhân sinh quan của người Việt.

Và nếu họ có viết truyện thì truyện cũng mang vóc dáng chính trị. Hà Nội qua tác giả Trần Trọng Đăng Đàn gọi đó là một đường lối chiến lược của Mỹ Diệm. Chẳng hạn truyện ngắn: Người bệnh giữa mùa xuân của Thanh Tâm Tuyền, Đêm giã từ Hà Nội, Góc đường Tự Do, Đồn Phòng Ngự 21 của Mai Thảo. Hay truyện Gánh Xiếc của Doãn Quốc Sỹ rõ ràng ám chỉ cộng sản..Sau này Tô Hoài có quen biết Doãn Quốc Sỹ tự hỏi Cách mạng có nợ tiền, nợ máu gì với cái gia đình công chức quèn là nghề giấy, thế mà sao Doãn Quốc Sỹ chửi cộng sản hăng thế..[4]

Trích: Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo, Hợp Lưu tháng 8-9, 2010,  Dương Nghiễm Mậu, trang 33

Hay trường hợp Võ Phiến với Người Tù, Mưa đêm cuối nămvv..

Thời gian 1954-1955 là thời kỳ khởi sắc, đầy sinh khí của văn học miền Nam. Cả một thế hệ văn học sau tiền chiến bùng phát. Hầu như tất cả đều sắn tay áo, sẵn sàng lên đường với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ. Hết Sáng Tạo, rồi Bách Khoa, Hiện Đại, Thế kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Khởi Hành, Văn vv..

Họ viết hăng. Viết với tin tưởng. Viết mạnh. Viết với sáng tạo. Viết với tìm tòi. Họ- nhất là Mai Thảo- hầu như được coi như hướng đi của văn nghệ miền Nam lúc bấy giờ. Và điều quan trọng nhất nơi họ. Đó là họ tạo ra một niềm phấn khởi như Mai Thảo từng viết: Đem ngọn lửa Văn hóa vượt vĩ tuyến sáng lên ở đây hôm nay.

Năm 19545 còn ghi lại, chói lói, cái đẹp ấy của mùa mới, cái đẹp ấy của lên đường. Ta từng đi chật đất. Ta từng có lớp lớp. Ta từng đến hàng hàng. Những khởi đầu của từng hoạt động văn học, từng phát động nghệ thuật nói chung của ta tuyệt đúng, tuyệt đẹp.

Sự hứng khởi ấy chắc hẳn lây lan sang các tác giả khác như Vũ Hoàng Chương.  Như Nhất Linh quyết định hạ sơn, chiêu tập lại nhân tài lại làm báo và gây được những ấn tượng mạnh nơi các người thanh niên trẻ như chúng tôi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Chỉ rất tiếc là niềm phấn khởi đó không bao lâu lịm tắt-và dần để lộ ra chỉ là một thứ làm dáng trí thức- một lối chơi chữ kêu rổn rảng mà nội dung không đi đôi với ngôn từ.

Sáng Tạo, thoái thân của tờ Người Việt đình bản trước đó có mặt với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền vào năm 1956 với Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và Trần Thanh Hiệp.

Nhưng ngoài các người viết mới vừa kể trên, Sáng Tạo còn có nhiều nhà văn thuộc thế hệ tiền chiến hoặc ngoài nhóm như: Vũ Hoàng Chương, Lê Văn Siêu, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Duy Diễn, Lê Thương, Lê Cao Phan, nhà thơ Nguyên Sa, Nguyễn Phụng, Lữ Hồ hoặc những người như Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Tạ Tỵ, Vĩnh Lộc, Thanh Nam, Tô Kiều Ngân.

Sau này trong Sáng Tạo, bộ mới năm 1960 có thêm Trần Dạ Từ, Viên Linh, Thảo Trường, Trần Thị Nhã Ca, Thạch Chương, Sao Trên Rừng và Dương Nghiễm Mậu.

Khi ra hải ngoại, vào năm 1958, Nguyên Sa Trần Bích Lan đã thu tóm văn học miền Nam thời kỳ đó vào bốn khối lớn là:

-  Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo

-  Nhóm Đất nước của Nguyễn Văn Trung

- Nhóm Bách Khoa của Võ Phiến

- Nhóm thứ tư, những nhà văn, nhà thơ độc lập như Vũ Hoàng Chương, Du Tử Lê, Đinh Hùng, Trần Dạ Từ..

Tôi nghĩ rằng, nhận xét của Trần Bích Lan có tính cách tán dương nhiều hơn là sự  thật. Sự xếp loại như vậy có phần gượng ép.

Sau Sáng Tạo thì tiếp nối theo một số tạp chí như Hiện Đại do Nguyên Sa chủ trương. Trong tờ Hiện Đại, người ta cũng thấy sự có mặt của bốn tác giả trong bộ biên tập Sáng Tạo là Duy Thanh, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ.  Hiện Đại ra được 9 số thì đình bản.

Tạp chí Thế Kỷ Hai Mươi do Nguyễn khắc Hoạch chủ trương biên tập quy tụ thêm một số giáo sư đại học như Nguyễn Khắc Hoạch, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Nguyễn Đăng Thục và một số cây viết của Sáng Tạo.

Không khí nhộn nhịp, sôi động của một nền văn nghệ mới của cái hôm nay thay thế và đoạn tuyệt với quá khứ xem ra đến đây thì khựng lại.

Mai Thảo một mình một cõi, ngất ngưởng một chiếu trước đây xem ra đã cạn dòng. Một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng vẫn là Mai Thảo của Nguyễn Đình Toàn xem ra lời khen không còn đúng chỗ nữa.. Vẫn viết như thế mặc cho tình thế đổi thay. Cái hào khí Đêm Giã từ Hà Nội  không còn nữa. Mai Thảo năm 1954 không khác gì Mai Thảo thập niên 1960 và nhất là sau 1963..

Tiền tài trợ của Mỹ qua trung gian Trần Kim Tuyến không còn nữa.. Các tờ tập san lần lượt thi nhau rụng, không kèn không trống..

Có một khựng lại trong sinh hoạt văn học. Không có tiền tài trợ, những người như Mai Thảo quay ra viết feulleton, kiếm sống. Chữ nghĩa tụt dốc chỉ còn là cái cần câu cơm.

Nguyễn Mạnh Trinh đã lột tả hết nỗi cô đơn bất hạnh của một nhà văn sáng giá nhất từ miền Bắc di cư vào miền Nam lúc cuối đời qua ngòi bút của nhà văn Tuấn Huy:

Tâm tư cô đơn xót đau ấy có lẽ những người trẻ hơn khi đêm khuya đưa ông về phòng đã chứng kiến. Nhà văn Tuấn Huy, một người hay đưa ông về lúc canh khuya kể lại những giây phút ấy:

Chiếc chìa khóa nhỏ được móc ra từ đáy túi. Giơ lên rung rẩy dưới ánh sáng của ngọn đèn lờ mờ.. cuối cùng mới trúng ổ. Cửa mở. Anh loạng choạng bước vào. Đèn phòng bật sáng. Những kệ sách đầy kín. Những bức tranh, những khung hình thờ ơ, câm lặng. Chợt bàn tay trái của anh xô mạnh đống giấy tờ bừa bộn trên bàn. Anh mất thăng bằng, té bổ ngửa người ngay trên chiếc ghế dựa giữa bàn viết. Tôi hơi hoảng hốt đỡ anh lên. Một thân thể nhẹ hẫng gầy còm, rũ rượi.. Tôi dìu anh đến bên chiếc giường và lo âu hỏi: Anh có sao không Anh? Chỗ ở đầu của anh có việc gì không? Anh gượng gạo kéo lại tay áo rồi trả lời dấm dẳng:Không sao hết.. ngã thế đã ăn nhằm gì.. chết mẹ nó đi được cũng chẳng sao.. Tôi thật tâm ái ngại: Anh lớn tuổi rồi phải cẩn thận. Ở một mình mà lỡ té ngã là nguy hiểm lắm.. Anh vẫn ngang ngược, gạt di: Nguy hiểm cái đếch gì, không sao cả. Bao nhiêu người còn khốn khổ hơn mình nhiều..

Tôi đứng lặng nhìn Anh. Phút giây tôi ứa nước mắt. Chưa bao giờ tôi thương anh cho  bằng phút này. Dù rằng từ trước đến nay, đã hơn một lần, tôi xót xa ái ngại cho anh.[5]

Tạp ghi Văn Nghệ, Nguyễn Mạnh Trinh, trang 28-29

Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 và sự chấm dứt dòng hội nhập của người miền Bắc sau chín năm của Đệ nhất cộng hòa miền Nam

Biến cố Phật giáo đi đến thành công nhờ có ba thành phần sau đây: giới Phật giáo miền Trung do TT Trí Quang cầm đầu. Sự ủng hộ và tiếp tay gián tiếp đằng sau của chính quyền Mỹ qua đại sứ CabotLodge và nhóm sĩ quan cầm đầu với Trần Thiện Khiêm- Dương Văn Minh- Trần Văn Đôn.

Mục tiêu của cuộc đảo chánh là để lật đổ: Một chính thể độc tài và kỳ thị đàn áp Phật giáo.

Câu hỏi đặt ra cho mọi người miền Nam ngày hôm nay là cả hai mục tiêu trên có thực hiện được không và đạt được gì sau cái chết của hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu?

Không mấy ai dám bày tỏ một cách thẳng thắn thành quả về biến cố chính trị 1963.

Hậu quả là sự tan rã, rối loạn về mặt chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội.

Hơn ai hết, các nhà văn, nhà báo uy tín thời đó- do nhạy cảm hơn cả- đã bầy tỏ sự chán chường, thất vọng và mất niềm tin nơi họ bằng nhiều cách thức khác nhau.

Quan trọng nhất là sự mất niềm tin vào chính nghĩa quốc gia trong khả năng đương đầu với cộng sản.

Võ Phiến sau này klhi ra hải ngoại đã bày tỏ tâm trạng chán chường của các nhà văn trong Văn Học miền Nam, tổng quan, vào năm 2000..[6]

[7] Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến,m trang 245 trở đi

Đó là các nhà văn, nhà báo như Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương và những nhà báo trẻ như Phan Nhật Nam và Dương Nghiễm Mậu..

Và đối với các nhà văn miền Bắc di cư nói chung có sự khựng lại, có sự chuyển hướng, có sự tránh né, buông xuôi như một Mai Thảo( Một người từng tuyên bố- một người di cư không có quyền ngán một điều gì)- có người nấp vào Thiền, vào tôn giáo, vào dịch thuật..

Sách Thiền và nhất là sách dịch nở rộ lên đến nỗi  vào thập niên 1970, nó chiếm đến 75% thị  phần sách xuất bản ở miền Nam.

Tâm sự chán chường, buông xuôi ấy tiêu biểu trong một bài phỏng vấn Vũ Hoàng Chương- một Vũ Hoàng trước đây lồng lộng  tin tưởng và hăng say trong tập thơ Hoa Đăng-  và một Vũ Hoàng Chương tuyệt vọng sau này:

Tôi bây giờ chỉ chờ ngày chết thôi. Lắm lúc muốn tự tử. Thơ không viết nữa, giá viết cũng không người đọc. Đoc tâm sự ấy, Nguyễn Mạnh Côn kêu lên: Câu tâm sự thoáng qua nghe mà lạnh gáy. Tôi về rồi, một tuần sau trở lại, yêu cầu anh xác nhận, anh gật đầu.

Cho nên kể từ sau 1963, dòng hội nhập văn hóa, văn học từ phía Bắc chói sáng một thời đã chết dần, chết mòn- chết nhiều kiểu, nhiều cách và chết hẳn vào 1970..

Thay vảo đó, chiến tranh mỗi ngày mỗi gia tăng, sự có mặt đông đảo của người Mỹ và đồng minh đã tạo ra một dòng văn học dấn thân ở miền Nam. Dòng văn học này nặng tính cách chính trị  ảnh hưởng trực tiếp do chiến tranh mỗi ngày một tàn khốc.;

Dòng văn học này không còn phân biệt các nhà văn Nam- Bắc, nhưng nói lên thân phận con người trong chiến tranh. Một mặ nó nói lên sự tàn khốc của chiến tranh và khát vọng một nền hòa bình và chấm dứt chiến tranh.

Nó không hẳn là phản chiến. Và vì thế cần phân biệt ra nhiều loại.

Từ phản chiến có thể mang nghĩa tiêu cực thường để chỉ định những thành phần nghiêng về phía bên kia như trường hởp Trịnh Công Sơn, Ngụy Ngữ, Kinh Dương Vương, Thái Luân, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, Thích Nhất Hạnh..

Hoặc chỉ định họ những người đãn quyết định chọn ngản hẳn về phía bên kia như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín (trước 1975), Thế Nguyên, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Trương Thìn, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Van Ba, Đinh Xuân Dũng, Châu Tâm Luân, dân biểu Lê Tấn Trạng, Lê Văn Nuôi,  dân biểu Nguyễn Hữu Hiệp, dân biểu Nguyễn Văn Binh, db Tư Đồ Minh,Thạch Phen, luật sư Trần Ngọc Liễng, Thích Hiển Pháp, Thích Minh Nguyệt, thầu khoán Nguyễn Văn Hạnh, ni sư Huỳnh Liên, bà Ngô Bá Thành, nữ nghệ sĩ Kim Cương,  Lý Quý Chung, nghị sĩ Hồng Sơn Đông,  Mường Mán.

Loại thứ ba, mượn danh nghĩa phản chiến, nhưng là cộng sản thứ thiệt như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Cao Thị Quế Hương,, Trương Thị Kim Liên, Lê Thành Yến, Hoàng Phủ Ngọc Tường, HPN Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Công Giàu, họa sĩ Ớt, Lm Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần..và Vương Đình Bích..Ngô Kha,  Mường Mán, Trần Vàng Sao, Tiêu Dao Bảo Cự..

- Bên cạnh đó, một số lượng đông đảo các nhà thơ được coi như chống lại chiến tranh, từng là binh sĩ, sĩ quan trong quân độ VNCH. Họ bầy tỏ một tâm trạng của những người lính ngoài mặt trận và làm một thứ văn chương xám, nhìn cuộc chiến với một mầu đen. Hơn ai hết họ là những người tham dự trực tiếp vào cuộc chiến ấy- Họ có thể là nạn nhân của cuộc chiến. Có người đã ngã xuống và bỏ thây ngoài mặt trận, người mang tàn phế. Họ là Doãn Dân, Y Uyênvv.. Trong một tuyển tập thơ dày 854 trang với sự quy tụ của 263 nhà thơ, do nhà văn Trần Hoài Thư biên soạn với lời nhà xuât bản:

Đây là những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương..

Hy vọng tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương miền Nam trong thời chiến tranh để họ có cái nhìn rõ và đứng đắn hơn về một dòng văn chương tình tự, rất là tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản…[8]

Thơ miền Nam trong thời chiến, Tủ sách di sản văn chương Việt Nam, Thư ấn quán xuất bản, 2006.

Xin trích một đoạn thơ tiêu biểu, đậm tình người:

Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con

Cũng đem chiếc áo lành ra mặc

Cũng ăn một bữa cơm cho no

Cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu

Khổ đau lúc này mẹ gói trong mo

(Trích thơ Hồ Minh Dũng)

 

Trời mưa, không lớn lắm

Nhưng đủ ướt đôi đầu!

Tình yêu không đáng lắm

Nhưng đủ làm.. tiêu nhau!..(..0

Em phải nằm xuống trước

Ám ảnh một đời ta!!

(Trích Thơ Khởi Tự Mê cuồng- Nguyễn Tất Nhiên-.

Văn thơ miền Nam là một dòng thơ để lại mà nhiều người nay đã không còn nữa. Trong trường hợp Nguyễn Tất Nhiên đã để lại những dòng thơ tình bất hủ giữa lòng cuộc chiến như Khúc buồn tình, Đám đông, Ma soeurvv…

Có những nhà văn thuộc thế hệ sau di cư, những người trực tiếp trong cuộc chiến có thái độ phẫn uất như Phan Nhật Nam, Dương Nghiễm Mậu. Nhã Ca, Lê Tất Điều..hay những  người khác như Thế Uyên hay Chu Tử, Tha3on Trường, Từ Chung vừa chống cộng sản, vừa bất mãn với chính quyền.

Nhưng có một số thành phần những trí thức, phần lớn gôc gác miền Trung cần được bàn riêng ở đây và thái độ chính trị của họ đã gây nhiều tác hại không ít cho chính quyền VNCH không ít.

Sau 1963, ông Diệm và ông Nhu mặc dầu không không còn nữa.

Họ đã chết. Nhưng chế độ của đệ nhất cộng hòa vẫn còn đó. Người ta nói đến một chế độ Diệm không Diệm.

Người ta mới thực sự mới lật đổ được một cái ghế, nhưng chưa thay đổi được chế độ ấy.

Vì thế, tờ Lập Trường, ngoài Huế do ông Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm, ông Lê Tuyên làm chủ bút và Cao Huy Thuần làm Tổng thư ký, tòa soạn đặt tại 17 B, Lý Thường Kiệt, Huế cho rằng cuộc cách mạng còn dang dở, chưa làm xong, cần tiếp tục.  Có thể nói trắng ra là họ muốn nhổ cỏ thì cần nhổ tận rễ.

Họ muốn tiếp tục con đường cách mạng, nghĩa là quét sạch những tàn tích dơ bẩn của quá khứ. Những rác rưởi dơ bẩn đó, ở Việt Nam, đã cao lên ngút đầu trong 9 năm qua, phi quân đội, không  lực lượng nào có thể quét sạch được…[9]

Trích bài Mở Một nước cờ, tờ lập Trường, thứ bảy 6-6-1964

Và họ đặt vấn đề: Hôm nay, chúng tôi muốn đặt câu hỏi đó ra trước chínhquyền: Nhân dna6 đã trao quyền cho các tướng lãnh để thi hành trọng trách quét sạch quá khứ; trọng trách đó, chính quyền đã làm xong chưa?

Đây là những thành phần tả phái cực đoan, quá khích đến cùng cực. Họ bất mãn, họ đả phá tất cả. Họ chống công giáo qua trung gian các thành phần được gọi là Cần Lao còn sót lại trong chính quyền. Họ chống chiến Tranh, chống một chính phủ quân nhân, chống sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Nghĩa là họ chống tất cả.

Chẳng hạn họ đã đốt thư viện của Mỹ ở Huế. Chửi Mỹ như thể giọng điệu cộng sản đòi Mỹ rút quân, Mỹ Go Home.

Trong thực tế, họ cổ súy một chiến dịch diệt Cần Lao bằng cách ủng hộ chuyện tử hình Phan Quang Đông, rồi sau Phan Quang Đông họ làm áp lực qua ông Trí Quang để đưa Đặng Sỹ ra tòa. Nhưng dưới áp lực của TGM Nguyễn Văn Bình, Đặng Sỹ chỉ bị kết án 20 năm tù..

Ngay tại huế, họ lật đổ vai trò của linh mục Cao Văn Luận trong chức viện trưởng đại học..

Họ làm áp lực  buộc viện trưởng Viện Đại Học Huế phải từ chức và ra đi..Trước tình hình căng thẳng như vậy, một số giáo sư đại học đã xin đổi vào Sài Gòn.

Nhất là họ lập ra một Hội Đồng gọi là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc mà danh xưng  cũng như cách hành động na ná như một tổ chức của Việt Minh, cộng sản. Nhiều viên chức trong chế độ cũ lo sợ bị trả thù.

Ít tháng sau, không biết vì lý do gì  tổ chức và tờ báo này đóng cửa. Nhưng nó cũng là cớ khai mào ra nhiều phong trào thanh niên, sinh viên Phật Tử đoàn ngũ lại và hệ quả của việc này gây tình trạng xáo trộn liên tiếp ba năm liền- Miền Trung gần như một miền dất tự trị dưới sự ủng hộ của quân đội do tướng tướng Nguyễn Chánh thi cầm đầu-. một thứ chính quyền bên trong một chính quyền-  cho đến khi ông Trí Quang bị dẫn độ về Sài Hòn và ông đã tuyệt thực 100 ngày tại Dưỡng Đường Duy Tân của bác sĩ  Tài. Tướng Thi buộc phải rời VN, sang Mỹ chữa bệnh,  phong trào tranh đấu miền Trung mới tạm yên ổn..

Sau 100 ngày tuyệt thực không đạt được kết quả gì, ông Thích Trí Quang theo lời khuyên của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, ông đã rút lui về ở ẩn cho đến 1975, rồi sau này nữa, ông vẫn giữ thái độ tịnh khẩu.

Sau ba năm xáo trộn, các thành viên của nhóm thiên tả cực đoan miền Trung phân tán, ngả rẽ làm ba loại.

- Một loại, nhờ có thế, cách này cách khác, một số tìm đường ra ngoại quốc  du học như trường hợp Thái Kim Lan, Cao Huy Thuần vv.. Với tư cách sinh viên, họ tụ lại và thành lập nhóm sinh viên phản chiến- gọi là thành phần thứ ba- cấu kết với sinh viên nơi họ cư ngụ. Họ tổ chức biểu tình chống chiến tranh- một cách gián tiếp chống Mỹ và chính thể VNCH. Ở trong nước, họ quậy phá một cách, ra ngoại quốc, họ quậy phá một cách khác. Tâm tình của họ, thái độ của họ, đời sống của họ, hoạt động của họ luôn luôn đẩy họ về phía đối lập, chống đối VNCH. Họ hãnh diện về thành tích và việc làm của họ ở trong nước cũng như khi ngoài nước.

- Một số lớn còn lại, tiếp tục ăn học trở thành những sĩ quan, công chức của VNCH. Nhưng họ sống với nhiều hoang mang, trăn trở ở cái tình trạng mà Trịnh Công Sơn gọi là: Tiến thoái lưỡng nan. Một số nhỏ, che dấu cái quá khứ của họ hoặc tham gia chính quyền, hoặc ra tranh cử dân biểu như trường hợp Hoàng Văn Giàu đi theo Bùi Tường Huân. Một số  tham gia chính quyền với tư cách dân biểu với sự đỡ đầu của Phật giáo.  TT. Trí Quang chắc hẳn đã bảo trợ và đỡ đầu cho các dân biểu này.. Với tư cách dân biểu, họ đứng trong danh sách các dân biểu đối lập của nhóm Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức quậy phá một cách công khai và hợp pháp, hỗ trợ cho đám sinh viên cộng sản nằm vùng như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Hoàng Văn Giàu, sau khi đi tù cộng sản, ra hải ngoại- vẫn chưa thấm đòn cộng sản tiếp tục giao lưu móc nối với đám Giao Điểm làm cầu nối cho cộng sản. Họ tham gia chính quyền để tranh đấu hợp pháp, không bị cầm tù. Nếu có thể nói đây là những kẻ nội thù của chính quyền miền Nam.

- Còn một số rất nhỏ, vì lộ diện trong việc tranh đấu, vì sợ bị chính quyền VNCH bắt cầm tù đã chạy trốn hẳn sang bên kia như trường hợp  anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân..Thái Ngọc San, Tiêu Dao Bảo Cự. Sau này, họ cũng vỡ mộng cộng sản nhưng rơi vào tình trạng gái ngồi phải cọc như trường hợp Tiêu Dao Bảo Cự. Riêng Nguyễn Đắc Xuân,  anh ta là người cộng sản hơn cả người cộng sản.

Bắng cách nào ở vị trí nào, ở trong nước hay ở hải ngoại. Đám người cực đoan và quá khích- một số nhõ- miền Trung cũng chống phá VNCH trong suốt hai mươi năm miền Nam và sau này ở Hải Ngoại..

Tôi xin xác nhận, họ không phải là cộng sản thứ thiệt, nhưng việc làm của họ, việc tranh đấu của họ  trở thành thứ nối giáo- kẻ nội thù- cho người cộng sản.

Người ta có cảm tưởng chống phá là lý lẽ đời sống của đời họ. Họ sinh ra để chống phá. Và họ chỉ thực sự lớn lên trong khí thế tranh đấu bạo động.

Nhiều người trong bọn họ chắc chắn không phải  là cộng sản. Nhưng một điều chắc chắn họ cũng không bao giờ là những người con dân của miền Nam.

Nhận định về các thành phần trí thức trong các tờ Hành Trình, Đất Nước..và Trình Bầy

Sau biến cố chính trị 1963, một số trí thức miền Nam- trăn trở trước tình hình đất nước- thấy không thể ngồi yên. Họ thấy cần làm một điều gì, thấy cần lên tiếng và nhất là thấy cần phải bầy tỏ một thái độ nhập cuộc, phải dấn thân không thể ngồi trong tháp ngà của suy tưởng lý thuyết suông.

Trong số trí thức ấy có hai người là các ông Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung chủ trương tờ Hành Trình vào tháng 10- 1964 và sau này tờ Đất Nước.

Do vị thế trí thức của họ với giới sinh viên, họ thu hút được một số trí thức khuynh tả và giới trẻ đi theo họ.

Danh sách những thành phần trí thức viết cho Hành Trình bao gồm một số linh mục như Đỗ Phùng Khoan, tức linh mục Nguyễn Huy Lịch, Võ Hồng Ngự, tức nhà thơ Diễm Châu, Trần Trọng Phủ, tức nhà văn Thế Nguyên.( Thế Nguyên là một người đi theo cộng sản và sau này làm chủ bút tờ Trình Bày). Trương Cẩm Xuyên, tức linh mục Trương Đình Hòe, Hương Khuê, tức linh mục Trương Bá Cần, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, giáo sư Trần Văn Toàn, các nhà Văn như  Thảo Trường, Thái Lãng,  Nguyễn Vũ Văn, Lê Tất Hữu, Thế Uyên, Trịnh Viết Đức, chủ nhà in Nam Sơn- người tài trợ cho việc in ấn.         

Trong lời nói đầu ghi:

- Không thể tìm ra một lối thoát thực sự nếu không dám đụng đến những nguyên nhân sâu xa là nguồn gốc  tình trạng đang rơi vào suy sụp hoàn toàn. Tạp chí Hành Trình ra đời nhằm phê phán đến tận cùng những nguyên n nhân sâu xa đó, để góp phần tìm ra một lối thoát thực sự và hiệu nghiệm ».[10]

Hành Trình, số 1, tháng 10-1964

Tờ báo mặc dầu chỉ ra được hơn mười số, đã có  một tiếng vang cả trong lẫn ngoài nước cũng như dư luận Hoa Kỳ và Ngoài Bắc.

David  Marr, vừa tốt nghiệp đại học sang VN  đã cho dịch những bài báo của Nguyễn Văn Trung và cho đăng trên các báo Mỹ và các cơ quan truyền thông của công giáo Mỹ như các bài: (War, Peace, and Revolution) Hoặc bài Our problems: Ourselves.

Trong số những bài viết phản biện có các bài từ Miền Bắc lên tiếng sớm nhất như bài : Từ Chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại đến Hành Trình, của Phong Hiền, tháng 4 năm 1965 và bài của Tam Thanh, đọc Nhận Định 4 của Nguyễn Văn Trung.

Phía VNCH  có bài nhan đề: Phê bình quan điểm Cách mạng xã hội của hai ông Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh trung, Nguyễn Văn Bảy, Sài Gòn 10-1967. Và bài : Nghĩ về một số trí thức ảo tưởng..  Ánh Việt, đăng trên Chính Luận, 10-1971.

Đặc biệt cho đến sau 1975, còn có những loại trí thức nằm vùng lôi câu truyện 10 năm về trước viết bài nhằm tâng công với cộng sản, Nguyễn Trọng Văn viết bài tham luận nhằm, phê phán Nguyễn Văn Trung nhan đề: Chủ nghĩa xã hội không cộng, tại miền Nam Việt Nam, thời Mỹ- Ngụy- Nội Dung và ảnh hường.

Phần Lữ Phương viết bài : Mấy ý kiến về các xu hướng gọi là Cách Mạng xã hội không cộng sản ở miền Nam trước 1975..[11]

Hồ sơ về tạp chí Hành Trình, Sài Gòn 1964-1965, Nguyễn Văn Trung

Tờ báo sau đó đóng cửa không một lời giải thích.

Tờ Đất Nước

Hành Trình đóng cửa, Đất Nước thay thế. Ban biên tập với Chủ nhiệm là nguyễn Văn Trung,  Chủn trương biên tập : Lý Chánh Trung, Tổng Thư ký tòa soạn lả Thế Nguyên..

Trước hết, tờ báo có sự cộng tác chính yếu của nhà thơ Nguyên Sa- một Nguyên Sa dấn thân, nhập cuộc không làm thơ tình nữa như trong bài thơ : Tắm hay Sân Bắn.. của ông.

Bên cạnh Nguyên Sa có nhiều cây bút khác như Du Tử Lê, Đinh Phụng Tiến, Hồ Minh Dũng, Lê Văn Ngăn, La Nuyễn, Bùi Khải Nguyên, Nguyễn Quốc Thái, Lê Khoa, Nguyễn Tất Nhiên, Luân Hoán, Thế Phong. Nguyễn Tường Giang, Tần Hoài Dạ Vũ, Lưu Kiển Xuân..Phong Sơn, Thái Lãng

Nhưng sự có mặt của Thế Nguyên trong vai trò Tổng Thư ký tòa soạn- một người theo cộng sản- nên đã có kéo theo nhiều nhà thơ nhà văn thân cộng viết cho tờ báo như các ông: Ngụy Ngữ, Lưu Nghi, Thái Ngọc San, Tôn Thấp Lập, Phạm Thế Mỹ, Ngô Kha, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Trần Hữu Lục.

Chắc chắn ông Nguyễn văn Trung và Lý Chánh Trung hoàn toàn không nắm được vấn đề này.. Họ- nhất là Nguyễn Văn Trung- mất chủ động-, mặc cho Thế Nguyên thao túng về bài vở, tác giả cộng tác, quản lý tiền bạc, nhà in phát hành.

Thế cho nên mang tiếng là báo của trí thức thiên tả, nhưng thực sự chủ động là cộng sản giật giây.

Miền Nam mất cái đà làm chủ tình hình báo chí, văn học, văn nghệ dần dần như thế.

Hãy trích lại giọng điệu trong thơ của Phạm Thế Mỹ sặc mùi tuyên truyền, chống Mỹ, chống chiến tranh như bài:

Những ngày sắp tới

Thưa thầy, họ đã dạy con:

Không có bom đạn Mỹ

Việt Nam mất nước từ khuya

Không có viện trợ Hoa Kỳ

Việt Nam sức mấy..

Đất nước linh thiêng ơi,

Sao họ không chỉ dạy chúng làm toán đại số

Dạy chúng ấm no

Có hơn không?

Giữa Hành Trình và Đất Nước, cộng sản như thể đang ở ngoài nhà, nay đã vào đến trong nhà, vào buồng ngủ..của tờ báo.

Nó lộ liễu và công khai quá..Nó không cần đeo mặt nạ. Tôi ngạc nhiên  khi nhìn thấy tên tuổi những Nguyên Sa, Luân Hoán, Du Tử Lê, Nguyễn Tử Quý, Thảo Trường bên cạnh Ngô Kha, Ngụy Ngữ.

Với cung cách lộn sòng như thế này- không phân biệt tà-ngụy.. cùng đứng chung, xếp hàng.

Miền Nam đang trải qua một mùa gió chướng và những cơn thử thách cuối cùng của một dòng lũ triều cường có thể cuốn trôi và phá sạch tất cả..

Tờ Trình Bầy

Tờ Trình Bày xuất hiện vào tháng 08-1970, cũng lại do Thế Nguyên làm chủ bút và chủ nhiệm.(Thế Nguyên sau 1975 không được trọng dụng, chết lãng xẹt, rất sớm vì bị  nhiễm trùng sài uốn ván). Ở giai đoạn chót của miền Nam, Trình Bày ngang nhiên xuất hiện, in ấn đàng hoàng,  bất chấp kiểm duyệt, bất chấp tịch thu báo..Ai tài trợ cho tờ báo? Có thể một phần do nhà in Nam Sơn tài trợ. Nhưng phần còn lại là ai? Còn ai vào đây nữa?

Lần này nó lại được tăng cường thêm những cây viết của người quốc gia chân chính, chính hiệu như Phạm Cao Dương, Trần Tuấn Nhậm, Trùng Dương, Nguyễn Đa, Nguyễn Đồng, Chu Vương Miện,  Hoàng Ngọc Nguyên, Trần Hoài Thư, Trần Đỗ Dũng, Thanh Lãng, Nguyễn Đăng Thường,  Lê Văn Thiện, Trần Huiền Ân, Đoàn Luân, Thuận Giao.

Và làm sao thiếu được Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung. – Những người đứng làm bảng hiệu chính danh và hợp pháp-.

Nhất là nay có thêm sự có mặt của Nguyễn Nguyên-  tay trùm cộng sản- núp bóng trong tờ Tin Văn với Vũ Hạnh, Lữ Phương.

Nào ta đếm thử coi, còn thiếu ai nữa, những nhà văn, nhà thơ của miền Nam xem  ai là người vắng mặt?

Ở trong tình trạng này, thật khó xếp hạng, thật khó biết ai là người quốc gia, ai là người bị cộng sản lợi dụng và ai là người cộng sản thứ thiệt?

Nếu cần tố cáo thì tố cáo ai nhỉ? Ai là người anh em của ta, ai là kẻ thù? Và hôm nay, nhiều người còn sống sờ sờ trong các cơ quan truyền thông, trong các tờ báo ở Mỹ, ở mọi nơi?

Trong số đầu, thơ Nguyên Sa cặp với Ngô Kha. Nguyễn Khắc Ngữ sánh đôi Nguyễn Quốc Thái, rồi lại Nguyên Sa với Ngụy Ngữ. Bài viết của Phạm Cao Dương đi kèm với bài của Trần Tuấn Nhậm.

Ngay trong lời mở đầu với nhan đề: Con đường đi tới..  Người đọc hiểu thế nào cũng được với thứ ngôn ngữ tuyên truyền bi thảm hóa cuộc chiến như sau:

Một phần tư  thế kỷ đã trôi qua trên cuộc cách mạng mùa thu..Tuy vậy, những hy sinh ròng rã suốt 25 năm trời ấy dường như chưa đủ để cho một dân tộc yêu chuộng hoà bình như dân tộc Việt Nam có thể buông súng xuống vui hưởng tự do.

Bây giờ vẫn còn những cụ già tóc bạc bị trói tay, bịt miệng, những em bé bất lực quằn quại trên vũng máu, những thanh niên bị đánh đập dã man, những thiếu nữ bị hãm hại.

Bây giờ vẫn còn những cảnh tra hỏi, bắt bớ ở mỗi nẻo đường, những tiếng hét rùng rợn của những nạn nhân trong những phòng tra tấn,: cả một miền đất nước biến thành một cái chuồng thú vĩ đại. Máu hòa nước mắt. Roi da và thép gai, thép gai trùng trùng, điệp điệp…

Con đường đi tới là con đường giải phóng: giải phóng đất nước và giải phóng con người Việt Nam toàn diện[12]

Những người quốc gia ở đâu, những chiến sĩ VNCH ở đâu để cho tờ báo thóa mạ VNCH..Những tác giả cộng tác với Trình Bày nay còn sống ở Hải ngoại nay họ nghĩ gì?

Tôi viết phần bài này nhân sắp đến dịp 50 năm năm kỷ niệm 50 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa..

Sau 1963, Hồ Chí Minh nói với nhà báo thân cộng Wilfrid Burchett:

Tôi không thể ngờ tụi Mỹ nó ngu như thế.

Nguyễn Hữu Thọ của MTGPMN phát biểu:

Sự lật đổ Diệm là một món quà Trời ban cho chúng ta..

Trách ai và trách cái gì bây giờ?

© Đàn Chim Việt


[1]

[2]

[3]

[4]

[5]

[6]

[7]  Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến,m trang 245 trở đi

[8]

[9]

[12] Trình Bày, Tập I, tháng tám 1970, tranmg đầu

Tags:

107 Phản hồi cho “Diện mạo văn hóa, văn học miền Nam trong những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn hóa-văn học [kết]”

  1. nhạc của tôi says:

    Xem ra các bác đã hụt hơi với bọn em trong cuộc đua đấu thơ, đấu văn, đấu nhạc trong bài viết về người nữ anh hùng THU NGUYỆT. Có lẽ CHỦ NHÀ đã nhận ra điều này nên đã ra tay cứu giúp các bác bằng cách ngưng đăng các phản biện tiếp theo của bọn em. Và CHO BÀI NÀY VÀO DĨ VÃNG. Nhưng mà thôi cũng phải nể chủ nhà một tý. HƠN NỮA, KINH NGHIỆM ĐƯỜNG ĐỜI cho em biết là ĐÁNH CHÓ KHÔNG NÊN DỒN CHÓ VÀO XÁT BỜ DẬU CÁC BÁC Ạ nên em cũng tạm cho qua vụ này. Chứ em nói thật em chắc thắng vụ này vì em toàn lấy sức nhàn mà TIẾP SỨC MỎI CỦA CÁC BÁC. Và em thề là đến đời con đời cháu các bác cũng không đọc hết dược các tác phẩm bất hủ của thơ cac cách mạng. Dòng chảy này là bất tận. Và nếu các bác chơi tiếp em cũng sẵn sàng nghênh tiếp các bác.
    Trước mắt các bác có thể chơi trò sau với em không? Em giới thiệu một tác phẩm thuộc dòng VĂN HỌC CÁCH MẠNG. Các bác lại giới thiệu một tác phẩm thuộc dòng văn học ngụy quân ngụy quyền hoặc nếu không có thì các bác lại cứ vui vẻ vò đầu bứt tóc mà sáng tác để đối lại. còn hay, giở để người đời phán xét. ĐƯỢC KHÔNG CÁC BÁC
    NHẮC bác trọng dân: “trời hậu giang tù và dậy rúc….” Là bài có tên: BÀ MÁ HẬU GIANG CHỨ KHÔNG PHẢI BÀI MẸ SUỐT, BÁC NÊN ĐI RỬA MẶT D8I CHO TỈNH TÁO HƠN. RỬA BẰNG NƯỚC LẠNH ẤY
    Reply
    • Phú Đảng Viên says:
    05/11/2013 at 03:04
    Mấy em bị bác Trọng Dân đâm cho cứng cả họng, ngắc ngoải không nói được gì phải đem nhạc phường khóm ra mà đở….
    Thời buổi này đâu còn ai nghe nhạc phường khóm nữa…
    Toàn là nghe nhạc của VNCH như Duy Khánh , Nhật Trường , Chế Linh,…. không hà
    Tức quá , bèn hăm dọa đòi giết …Tiên Ngu , Trọng Dân
    Chủ nhà sợ cái diễn đàn bấy lâu khổ công gầy dựng thành CÁI BẢI RÁC của Công An mạng đành phải thở dài mà quét mấy em đi…
    Nhạc của Duy Khánh , Nhật Trường nhiều vô số , chủ nhà cho chơi thẳng tay , mấy em đở gì nỗi mấy bác ấy…
    Nhìn là thấy rồi…
    Công An Mạng ky` này thua đau quá…!
    Các bác cứ cãi, em không tranh luận, cũng chẳng đôi co, cứ để bà con ta thưởng thức khách quan nào em lại thách các bác bài nữa nhé:

    Em sẽ kể anh nghe
    Chuyện con thuyền và biển:

    “Từ ngày nào chẳng biết
    Thuyền nghe lời biển khơi
    Cánh hải âu, sóng biếc
    Đưa thuyền đi muôn nơi

    Lòng thuyền nhiều khát vọng
    Và tình biển bao la
    Thuyền đi hoài không mỏi
    Biển vẫn xa… còn xa

    Những đêm trăng hiền từ
    Biển như cô gái nhỏ
    Thầm thì gửi tâm tư
    Quanh mạn thuyền sóng vỗ

    Cũng có khi vô cớ
    Biển ào ạt xô thuyền
    (Vì tình yêu muôn thuở
    Có bao giờ đứng yên?)

    Chỉ có thuyền mới hiểu
    Biển mênh mông nhường nào
    Chỉ có biển mới biết
    Thuyền đi đâu, về đâu

    Những ngày không gặp nhau
    Biển bạc đầu thương nhớ
    Những ngày không gặp nhau
    Lòng thuyền đau – rạn vỡ

    Nếu từ giã thuyền rồi
    Biển chỉ còn sóng gió”

    Nếu phải cách xa anh
    Em chỉ còn bão tố

    4-1963

    • quandannambo says:

      quandannambo says:
      05/11/2013 at 10:55

      cứ
      copy rồi past
      *
      chẳng hề
      động nảo một chút xíu nào
      *
      chỉ
      choán chổ và làm phiền
      *
      đây là
      kiểu làm báo của việt cộng *
      (sức nhàn của việt cộng)
      *
      đánh
      con chó
      “tầm cao thời đại”

      con heo
      “tầm cao trí tuệ”
      *
      thì
      không nên dồn bọn chúng
      vào
      sát vách nhà xí *

  2. thơ của tui says:

    Người đi tìm hình của nước (Chế Lan Viên, Việt Nam)

    Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
    Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
    Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
    Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre

    Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
    Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
    Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
    Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương

    Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
    Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
    Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
    Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn

    Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
    Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
    Lòng ta thành con rối
    Cho cuộc đời giật dây

    Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
    Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
    Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
    Tìm đường đi cho dân tộc theo đi

    Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”
    Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
    Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
    Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi

    Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
    Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
    Thế đi đứng của toàn dân tộc
    Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người

    Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
    Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
    Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
    Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?

    Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
    Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
    Những đất tự do, những trời nô lệ
    Những con đường cách mạng đang tìm đi

    Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
    Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
    Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
    Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa

    Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
    Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
    Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
    Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

    Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
    Nụ cười sẽ ra sao?
    Ơi, độc lập!
    Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
    Khi tự do về chói ở trên đầu

    Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
    Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
    Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
    Sao vàng bay theo liềm búa công nông

    Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
    Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
    Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
    Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin

    Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
    “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
    Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
    Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười

    Bác thấy:
    dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
    Ruộng theo trâu về lại với người cày
    Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
    Không còn người bỏ xác bên đường ray

    Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
    Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
    Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
    Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng

    Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
    Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
    Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
    Những đời thường cũng có bóng hoa che

    Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc…
    Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
    Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
    Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân

    Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
    Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
    Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
    Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai

    ĐÓ NGHE ĐỒN CÁC BÁC CŨNG YÊU TỔNG THỐNG ĐỘC TÀI NHÀ HỌ NGÔ LẮM VẬY CÁC BÁC CÓ BÀI NÀO ĐƯỢC VIẾT TỪ ĐẤY LÒNG NHƯ THẾ NÀY THÌ GIỚI THIỆU GIÙM

    • Nguyễn Trọng Dân says:

      Từ khi ông Diệm qua đời
      Nước non binh lữa tơi bời đau thuơng
      Xác người phơi khắp nẽo đường
      Cộng quân đánh loạn phố phường hãi kinh !

      Diệm ơi một thuở an bình
      Mà ông gầy dựng trên tình Quốc Gia
      Nông điền , đường xá , phố , nhà
      Dựng xây phát triển gần xa khen mời

      Miền Nam sừng sững cơ ngơi

      Trong khi miền Bắc tơi bời đói ngu
      Thiên đường láo , chủ nghĩa mù
      Hè nhau Đấu Tố xác oán thù chất cao

      Quốc Gia chính nghĩa dương cao
      Miền Nam Văn Hóa vẫy chào Văn Minh

      Toàn vùng Đông Á giật mình
      Sài Gòn Hòn Ngọc dáng hình Viễn Đông

      Diệm càng tiến tới thành công

      Cộng Hồ càng tức nổi lòng ghen tuông

      Hồ quen giết chóc điên cuồng
      Dối lừa cưỡng bức hại muôn mạng người
      Lẽ nào lại để khơi khơi
      Miền Nam cường thịnh , người người ngợi ca?

      Thôi thì hèn kế tính ra
      Chỉ còn trừ khữ mới là an tâm

      Có tài láo lếu độc thâm
      Bèn lừa dân Bắc vào Nam giết người
      Hồ còn khiêu khích nơi nơi
      Tấn công, khủng bố chào mời chiến tranh

      Tình Quốc Gia , nghĩa chiếu mành
      Nồi da xáo thịt nở đành đoạn sao?

      Họ Ngô thuơng thuyết trước sau
      Để cho dân tộc máu đào khỏi rơi
      Dại gì chinh chiền nơi nơi
      Mê chi Chủ Nghĩa đời đời khổ đau?

      Cộng Hồ cuồng vọng qua’ cao
      Tiếc chi xương máu đồng bào dân Nam?
      Nếu không binh lữa ầm ầm
      LấY gì thù hận nảy mầm leo thang?

      Thế là kẹt giữa hai đàng
      Một bên cuồng Cộng , một đàng Đồng Minh

      Họ Ngô sau trước phân minh
      Nổi lòng Chính Nghĩa, mối tình Quốc Gia

      Một là dứt khoát không tha
      Thẳng tay trừ Cộng yên nhà yên dân

      Hai là từ chối chẳng cần
      Ngoại bang trợ chiến tránh dân hiểu lầm

      Lòng ông Diệm giữa thăng trầm
      Như trăng tỏa bóng , như trầm tỏa huơng
      Nghìn năm kim cổ soi gương
      DIỆM người Chính Nghĩa , HỒ phường dối gian !

      Chín năm dựng nước Vinh Quang
      Ông Ngô Đinh Diệm sử vàng tạ ơn

      • quandannambo says:

        cứ
        copy rồi past
        *
        chẳng hề
        động nảo một chút xíu nào
        *
        chỉ
        choán chổ và làm phiền
        *
        đây là
        kiểu làm báo của việt cộng *
        (sức nhàn của việt cộng)

    • TỈNH TÌNH TINH says:

      TỈNH TÌNH TINH

      Đả đảo bè lũ Việt cộng bán nước
      Đả đảo tên đại Việt gian Hồ chí Minh
      Đả đảo bè lũ tay sai Trung quốc Nguyễn phú Trọng
      Đả đảo bè lũ hung thần Nguyễn phú Trọng
      Đả đảo bè lũ tham ô Nguyễn phú Trọng

      Hào Khí Uyên Kha

      Uyên, Kha xứng đáng anh hùng
      Phiên tòa ô nhục muôn trùng bay xa
      Hiên ngang đứng giữa phiên tòa
      Trả lời dõng dạt đôi co bạo quyền
      Rằng em yêu nước yêu dân
      Em không yêu đảng cúi dâng giặc Tàu
      Tinh thần độc lập tự do
      Hai em trả giá đắt so án tù
      Nội thù bán nước hại dân
      Tuổi trẻ yêu nước dấn thân diệt thù
      Hồn thiêng sông núi uy linh
      Ơn trên van vái linh thiêng hộ phù
      Uyên Kha thoát cảnh ngục tù
      Nhân quyền dân chủ đền bù hy sinh

      ( Trích)

  3. Vài dòng cảm nghĩ trong ngày: (phản hồi này đã được post trên Facebook hôm qua, 3/11/2013)

    Học giả Nguyễn Hiến Lê bỏ gần cả cuộc đời để tự học và viết văn, khi bàn về Việt ngữ ông viết “..ngôn ngữ là một dụng cụ không hoàn hảo, cho nên điều mình diễn rất ít khi đúng với điều mình muốn diễn. Dù sao, để độc giả hiểu lầm thì lỗi cũng là về mình.”; Đó là lỗi của người viết văn. Người viết văn nói chung (là người viết văn chương, khảo luận, phê bình, lịch sử v.v…) Do đó, hơn ai hết, người viết văn phải có trách nhiệm trước và lớn so với các người khác. Trên hết, là phải thận trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ.
    –Chẳng hạn, khi viết về thành phần Phật giáo tranh đấu Huế trong giai đoạn từ 1963-66, có nickname “nhà văn Thuyvi” gọi là “nhóm quậy nát Huế” –nhưng không giải thích nội dung “quậy nát Huế” là như thế nào? Đã là nhà văn thì phải biết giải thích, phải làm cho rõ nhóm từ mà mình muốn “diễn”, viết khơi khơi vô tội vạ thì còn gì là tư cách của một người viết văn!. Tôi chưa có dịp đọc văn người này, nhưng qua sự kiện này làm cho tôi phân vân không biết đương sự có thực sự là một nhà văn đúng nghĩa?

    –Tương tự, hôm qua tình cờ tôi đọc bài “Diện Mạo Văn Hóa, Văn Học Miền Nam Trong Những Tình Thế Cực Đoan…” của tác giả Nguyễn Văn Lục (NVL) đăng trên danchimviet.info.
    Như đã post vài dòng ý kiến trong lần trước, tôi có nêu yếu tố là trước đây ông NVL có hợp tác với tôi (chủ bút) trên mạng Giaodiem.com, song ngày xưa NVL viết khác –theo tôi, dù ông viết không có gì xuất sắc nhưng lời lẽ ôn tồn, đàng hoàng. Có điểm ông NVL đáng khen. Thí dụ: khi NVL đề cập tới sự tiết lộ chi tiết về cá nhân ông Hoàng Văn Giàu (HVG) trong một cuốn sổ nhật ký do cảnh sát Huế bắt được trong một bài nhận định lịch sử.. NVL đã liên lạc xin ý kiến của HVG cho phép ông được phổ biến… Thế nhưng, trong khoảng vài năm trở lại đây thôi, tinh thần viết lách của NVL đã khác hẳn. Văn chương của NVL mang tính cực đoan trước khi ông nhận xét, phê phán người khác là cực đoan. Điều đáng nói hơn nữa là, NVL đã sử dụng “dụng cụ không hoàn hảo” này bằng tinh thần thiếu trách nhiệm, vụng về vốn không thể có nơi một người viết khảo luận về văn chương, văn học thuần túy hay văn học chính trị…

    Thí dụ một : xen lấn cảm tính bằng một nhóm từ phỉ báng người khác. (điều tối kỵ của một nhà phê bình!)

    Trích : “…Về loại hai là những nhà chính trị phần đông là cánh tả, phần đông theo cộng sản trước 1954 và sau 1954. Họ là những người như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Tố Hữu, Võ Nguyên Giáp rồi đến những đám lau nhau, ruồi muỗi sau này như Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, bác sĩ Trương Thìn, Hoàng Văn Giàu vv..”

    Thí dụ hai : sử dụng một tiền đề không minh bạch, hoặc chưa được lịch sử làm sáng tỏ, để kết luận rất hồ đồ : “Quả là Huế giết Huế” !? Nếu như có người theo ý của ông NVL để gọi một dữ kiện lịch sử (chủ tể và nạn nhân đã được xác minh): biến cố Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc là “Quả là người Bắc kỳ giết người Bắc kỳ”, có thể chấp nhận được không? Hoặc là, khi đề cập tới những nhân vật Cộng sản đệ tứ bị thủ tiêu, ám sát (đa số là những người miền Nam) trong quá khứ, người viết sử có tư cách có thể nào viết xuống một câu kết luận: Quả là Nam kỳ giết Nam kỳ?

    Trích: “..Họ đã truất phế người sáng lập- viện trưởng Cao Văn Luận-cũng như gán ghép những ý đồ xấu cho ông Ngô Đình Diệm. Sau này, tệ hại hơn nữa năm Mậu Thân 1968, những thành phần thiên tả nằm vùng đã giết đi những vị giáo sư ân nhân của đại học Huế. Quả là Huế giết Huế.”

    Thí dụ ba (tương tự như lập luận ở trên) : Hiện nay, phong trào đấu tranh cho dân chủ, tự do tôn giáo, nhân quyền, phong trào dân oan nở rộ… mà đầu tàu đang nằm ở miền Bắc, thì người ta có thể nào nói: Trong gần 40 năm qua, nhờ ơn Bác và Đảng, nên Hà Nội nói riêng và đất Bắc nói chung đã nhà cao cửa lớn, giàu sang phú quý, hưởng thụ tới bến, càng ngày càng có nhiều đại gia, nhiều hoa hậu chân dài, ra đường là gặp tiến sĩ… Vậy, “người ta còn đòi hỏi và muốn gì hơn nữa. Một lần nữa cho thấy Bắc kỳ phản bội Bắc kỳ!!”, nghe có lọt lỗ tai không nhỉ?

    Trích : “..Họ đã quên rằng sau 18 năm Đại học Huế được thành lập đã đào tạo được hàng ngàn cử nhân văn khoa và khoa học, giáo sư trung học, luật sư và bác sĩ. Chỉ riêng 15 khóa đầu của trường Y khoa Huế đã cung cấp cho miền Nam 400 bác sĩ!
    Người ta còn đòi hỏi và muốn gì hơn nữa. Một lần nữa cho thấy Huế phản bội Huế!!”
    Thí dụ bốn: NVL bộc lộ một khuyết điểm về sự cân đối trong vấn đề đọc sách, phối hợp chủ đề nghiên cứu để đọc rộng ra. Thí dụ ở một đoạn văn sau cho thấy tác giả NVL đọc thiếu sót nên không thấu đáo về địa lý nhân văn, phong tục, phong hóa và tâm lý học trong văn hóa địa phương, đời sống và chính trị, dễ sinh ra tinh thần kỳ thị vùng miền, địa phương ấu trĩ vì không nắm vững vấn đề.
    Trích: “..Điều thứ tư, sống trong những điều kiện thiếu thốn và thiệt thòi về mọi mặt, không lạ gì tâm lý người miền Trung nói chung thường có những mặc cảm miền. Mặc cảm miền có thể ở đâu cũng có ít nhiều. Nhưng ở Huế, mặc cảm ấy vừa tự ty, vừa tự tôn ở một tầng cao. Từ đó nó sẽ tạo ra những phản ứng dị ứng hoặc phản ứng thừa. Do mặc cảm miền, có nhiều người tránh nói tiếng địa phương để khỏi lộ dấu tích miền. Tôi có bạn bè người Huế, gặp thì họ nói tiếng Nam, có khi pha giọng Bắc. Nhiều khi quen chưa đủ thân tình tưởng họ là người Bắc. Nhưng khi hai người miền Trung mà găp nhau thì họ đổi ra nói toàn tiếng Huế, giọng Huế.”
    Tóm lại, nội dung trong những bài viết khảo luận về Văn Học Miền Nam… của NVL dài lê thê, luộm thuộm (sau đó được in thành sách!) mà chủ đích của nó được hiển lộ rất rõ : –cố tạo dựng nội dung một nền “Văn học Bắc kỳ Công giáo Di cư” (về lãnh vực này thì quả thực ông NVL không ngang tầm (và còn lâu nữa…) với nhà văn Võ Phiến; biện hộ vụng về và muộn màng cho chế độ ông Diệm ; sau cùng là biện minh cũng đầy sự vụng về, lủng củng cho người anh của ông là Gs. Triết Nguyễn Văn Trung –vốn mang danh là một người “thiên Cộng” với một đống tài liệu sách báo dồi dào (có chủ đề) mà chính quyền hiện thời cho phép anh ông mang ra nước ngoài từ lâu và, NVL đã khai thác một cách “thiếu kỹ năng” các nguồn tài liệu đó vậy!
    Hoavan Nguyen (Nguyễn Văn Hóa)
    03.11.2013

    • quandannambo says:

      “..ngôn ngữ là một “dụng cụ” không hoàn hảo,…”
      *
      ngôn ngử

      “dụng cụ”
      hay
      phương tiện
      *
      ông
      nguyển hiến lê chết rồi
      bây giờ
      tôi chẳng biết hỏi ai *

      • –Chuyện nhỏ: Tôi viết theo trí nhớ, nhưng với thắc mắc của ông, tôi tìm lại nguồn của nó: Nguyễn Hiến Lê, “Tôi tập Viết Tiếng Việt”, phần lời Tựa, trang XII, Văn Nghệ xuất bản 1988. Xin tìm đọc lại. Một khảo luận về ngôn ngữ tiếng Việt công phu, tâm huyết của Nguyễn Hiến Lê.

    • vybui says:

      Tôi bực cái bàn phím cuả tôi lắm lắm, tôi muốn dậy cho chúng một bài học, thì cái bàn phím cứ trì kéo, lải nhải: thôi ông chủ à, thà ông vứt em vào chuồng lợn, thấm đẫm cứt đái còn hơn dùng em để “giao lưu” với đám vô hạnh!

      1) “Nhà văn Thuỵ Vi” đã gọi thành phần Phật Giáo tranh đấu ở Huế trong những năm 63-66 là “đám quậy nát Huế” mà không một lời giải thích… Xin quý độc giả trả lời có cần phải giải thích tại sao không? Cũng thế, khi nói đến bọn Giao Điểm có cần chú thích đây là bè lũ khích động thù hằn tôn giáo, tiếp tay CSVN chia rẽ dân tộc không?

      2)Những tên gốc Huế như Lê Văn Hảo, anh em họ Hoàng Phủ, Nguyễn Đắc Xuân và cả chục thằng nữa trong biến cố tết Mậu thân không trực tiếp cũng gián tiếp giết hại đồng bào Huế thì không gọi là “Huế giết Huế” thì gọi là gì? Oan lắm hả?

      3)Đừng nguỵ biện, trí trá! CCRĐ ở miền Bắc hay nhóm CS đệ tứ ở miền Nam bị nhóm đệ tam thủ tiêu tuy đều là người Việt, hoặc Miền Bắc, hoặc Miền Nam, nhưng yếu tố chính là Cộng Sản, tuy màu da, tiếng nói Việt nhưng tim, óc của đám này đã bị CS điều khiển thì tại sao không chỉ mặt đặt tên chúng là CS, mà phải nói tránh người Bắc hay người Nam? Lý luận kiểu gì thế?

      4)Cố tạo dựng một nền ” Văn Học Bắc Kỳ, Công Giáo Di Cư”- chứng minh xem! Vừa chửi người khác là kỳ thị vùng miền, địa phương thì đã quên béng, không sở lên gáy , vội suả ” Bắc Kỳ, Công Giáo Di Cư”!

      Hoá ra đây là tổ con chuồn chuồn: Lúc trước anh cộng tác với Giao Điểm chúng tôi, anh viết theo lập trường cuả chúng tôi nên chúng tôi khen anh ‘từ tốn, đàng hoàng” dù anh viết chả ra gì. Nay anh đổi giọng, anh phang chúng tôi cú nào ra cú nấy :” Hoàng văn Giàu, sau khi đi tù CS, ra hài ngoại vẫn chưa thấm đòn CS, tiếp tục giao lưu, móc nối với ĐÁM GIAO ĐIỂM LÀM CẦU NỐI CHO CS”, thế thì đương nhiên Giao Điểm chúng tôi như điả phải vôi , phải hộc lên như lợn nọc bị đá vào bìu dái, tha cho anh ư, phải biến anh thành thằng cực đoan, tên phản thùng chứ!

      Nguyễn Văn Lục viết bài này còn nhiều nhầm lẫn, thiếu sót, còn chủ quan – (tính “tội” sau)- nhưng đám Giao Điểm các anh về nhiều lãnh vực, (liêm sỉ chẳng hạn) còn lâu mới… xứng tầm!

      • 1. Vô danh hoặc cố tình ẩn danh như ‘cậu” thì viết sao cũng được, nhưng đã tự xướng danh là ‘nhà văn’, thì viết lách phải nghiêm chỉnh, không bao giờ ‘phán’ với một cụm chữ như vậy. Một nhà văn có tư cách là để giữ cho cái chung của tập thể có danh xưng là nhà văn.
        2. Nhưng tên gốc Huế như ‘cậu đã dẫn, sách báo đề cập nhiều, nhưng họ có tội như thế nào đi nữa thì cũng là một nhóm nhỏ người theo CS hoặc làm tay sai cho CS. Kẻ đứng đầu CS đều xuất thân ở Bắc Kỳ, Bắc kỳ lãnh đạo, điều đó đã chứng minh sau chiến tranh, mọi sử sách chống cộng đều gọi là bọn Bắc kỳ vào Nam ăn cướp. Kết luận với một hàm ý định danh ‘người Huế giết dân Huế’ chính là một câu nói xúc phạm và chia rẽ, gây căm phẫn cho đa số người Huế không CS, chống CS và nạn nhân của CS.
        3. Lý luận ‘kiểu đó’ là lý luận của ông NV Lục… không phải của tôi.
        4.Để làm rõ ý đồ của ông Lục thì phải viết một bài phân tích từng điểm trong phân nhiều các bài báo của ông Lục. Thu gọn câu từ ‘Văn học Bắc kỳ Công giáo di cư’ là một tập thể đa số người di cư là đạo Thiên Chúa giáo -là những người chống Cộng. Nó cũng tương nghĩa như ‘văn học di cư chống Cộng’.

        Cậu không biết rõ về nhóm Giao Điểm, cũng chẳng có tổ chức khỉ gì cả; và trong thực tế: một số lớn người chủ trương, viết lách, tạo dựng phương tiện là những người “Bắc kỳ Công giáo”. Đa số đều dung nặc danh. Một vài người như tôi, hay Trần chung Ngọc… là những người Phật tử, công khai và chịu trách nhiệm các bài viết cá nhân cũng như hành động của mình. Chính vì một nhóm phức tạp như vậy… cho nên mới gặp khủng hoảng bên trong. Tuy nhiên, chúng tôi là những Phật tử.. công khai nêu rõ danh tính để chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước sự thù hận, trước những kiểu hằn học (hoặc kể cả những kẻ cô hồn, sát nhân…) Câu chuyện một nhóm “Công Giáo” chống Công giáo, chống Vatican… vẫn chưa ai biết. Trên tinh than đạo Phật Việt Nam, chúng tôi không có mục đích như họ, và cương quyết không để cho tình than của nhóm Giao Điểm bị lèo lái bởi tình báo, công san Cộng sản Bắc Viết. Cậu chưa biết gì nhiều !!..

        Tôi, nguyễn văn hóa.. công khai tên tuổi và sẽ cung cấp những thông tin cá nhân khác, nêu cần!) để trả lời cho vài ý kiến của cậu, dù chưa biết cậu là ai? -Nhưng câu nói này là để trả lời chung trước dư luận và luật pháp của Hoa Kỳ. -Nhân tiện, tôi sẵn sang vạch mặt một bọn Công giáo tay sai của bọn cộng sản Bắc kỳ đang cố ý phá hoại chính nghĩa của Phật Giáo VN. [Tôi dung danh từ Bắc kỳ, với đúng nghĩa thực của danh từ, và khẳng định không kỳ thị địa phương, vì trong gia đình tôi cũng là một phần tử Bắc kỳ!]

      • vybui says:

        Ông Nguyễn Văn Hoá,

        Tôi viết thêm vài dòng nữa vừa để tạo cơ hội cho ông biện minh hay nói huỵch toẹt là chạy tội, vừa qua đó mà độc giả biết thêm về các ông., “nhóm Giao Điểm”!

        Tôi không cần biết các ông là Phật tử hay Cộng Sản đội lốt CG hay CG “Giu đà”, chỉ biết rằng, các ông có chung một lập trường, một mục đích là khích động thù hằn giữa các tôn giáo, đứng trên quan điểm của tôn giáo này để phỉ báng tôn giáo khác,vô tình(?) hay cố ý thực hiện sách lược chia rẽ dân tộc để CS tiếp tục thống trị.

        Tôi không cần biết nội bộ các ông ra sao, Bắc Kỳ Công Giáo hay Trung Kỳ Phật Giáo Cực Đoan, chỉ biết rằng, với các ông,hễ “nhất hô” thì “vạn ứng” , đồng loạt dùng mọi luận điệu xuyên tạc, nói không thành có để phỉ báng tôn giáo khác với giọng điệu của bọn vô hạnh.

        Các ông , ông và Trần Chung Ngọc xưng mình là phật tử, đang bảo vệ chính nghĩa của Phật Giáo mà TCN viết lách như đã và đang viết thì cái “chính nghĩa” kia làm sao mà tồn tại, “sáng ngời” được? Một phật tử bình thường liệu có chấp nhận cái loại xưng mình “bảo vệ chính nghiã” như TCN hay không? Một cơ quan ngôn luận mang dáng dấp Phật Giáo như Thư Viện Hoa Sen mà tiếp tay truyền bá những bài viết hạ cấp thì chính nghĩa ở mô?

        Ông chỉ chịu trách nhiệm về nhựng bài viết của cá nhân mình, thế ai chịu trách nhiệm cho vai trò một người chủ bút ? Có cần phải nhắc cho ông nhiệm vụ cuả một chủ bút trong một tờ báo, dù là báo trên mạng hay không?

        Các ông không có mục đích như họ, sao các ông đứng, nằm, ngồi… chung với họ?
        Các ông nói các ông không để “bọn Công giáo tay sai cuả bọn Bắc kỳ CS lũng đoạn, tại sao đến bây giờ mới nói, và chỉ trong một phản hồi cá nhân như thế này? Phưong tiện của các ông chỉ dùng để rủa xả, thoá mạ kẻ khác chứ không dùng để tố cáo những “đồng chí” hư đốn cuả các ông ư?

        Mà thôi, Đức Chuá đã chẳng cảnh báo” đừng ném châu ngọc cho những con lợn” đó sao!

  4. Tuyên says:

    Phải xem để biếtí…
    Côn an oai quyền một cõi, người dân phải quỳ gối xin tha mạng!

    http://chimkiwi.blogspot.com/2013/11/chi-la-mot-buc-anh.html#comment-form

    Tên côn đồ áo vàng này mà ở miền nam thì nó phải chết chắc chắn một trăm phần trăm. Cộng sản hành hạ, nhào nắn bà con miền bắc đến nông nổi này sao hở trời?

    Mà sao bà con ta lại để lũ đầu trộm đuôi cướp này làm mình ra nông nổi đến vậy chứ? Thật không hiểu nổi!

    Dân nam tuy thật thà, chất phác, hiền thì có hiền thật, nhưng cộng sản cỡ ngữ này là bay đầu không còn chổ đội nón, tới đâu thì tới. Còn không thì thuốc cua, thuốc chuột cũng chết hết cả nhà chúng nó. Nhiều thứ đồ chơi lắm mà, nhẹ nhất một, hai chai xăng cũng đủ đốt tiêu nhà chúng nó để cảnh cáo. Tiếp tục nữa thì tung hê tất cả. Bọn này xứng đáng rơi đầu.

    Đứng dậy, vùng lên đi bà con ơi. Dân ta xốc tới, dân ta lao tới, lũ lưu manh cộng sản sẽ tháo chạy như bầy chuột. Ta quỳ xuống, chúng sẽ leo lên đầu ta mà ngồi.

    Bà con miền bắc phải lập tức chấm dứt cảnh này, không thể nào để cảnh này tiếp tục. Không thể nào được. Kêu gọi nhau mà chấm dứt cảnh này. Bắt đầu bằng những thằng xếp của chúng nó trước. Tính từ thằng đầu đàn trước, ở đâu cũng được, ngay tại nhà nó càng tốt.

    Phải làm cho chúng nó khiếp vía, từ thằng lớn cho đến đứa tay sai đi rình rập, chui gầm giường, nhòm lỗ khóa nhà của người ta. Phải thẳng tay trừng trị, đừng nương tay gì với chúng nó.

    Dễ quá mà, chỉ tại cách suy nghĩ của dân ta thôi. Thay đổi, thay đổi ngay lập tức cách suy nghĩ của dân ta. Chỉ cần thay đổi cách suy nghĩ của dân ta là lũ chuột bọ cộng sản lưu manh, thổ phỉ này không còn một mống! Chỉ cần dân ta thay đổi cách suy nghi của mình là chế độ này sẽ ra tro bụi ngay thôi.

    Đứng dậy, kêu nhau, gọi nhau, dộng cửa nhà nhau, kêu gọi nhau mà đứng dậy. Phải cùng nhau đứng cả dậy thì mới được làm người. Còn không, cứ để chúng giày đạp mình thì mọi người mãi mãi sống đời nô lệ!

    Hôm nay mới được thất mặt thật của chế độ cộng sản miền bắc đây! Thật hết thuốc chửa cho chế độ rừng rú, bán khai cộng sản!

  5. nhạc của tôi says:

    Xem ra các bác đã hụt hơi với bọn em trong cuộc đua đấu thơ, đấu văn, đấu nhạc trong bài viết về người nữ anh hùng THU NGUYỆT. Có lẽ CHỦ NHÀ đã nhận ra điều này nên đã ra tay cứu giúp các bác bằng cách ngưng đăng các phản biện tiếp theo của bọn em. Và CHO BÀI NÀY VÀO DĨ VÃNG. Nhưng mà thôi cũng phải nể chủ nhà một tý. HƠN NỮA, KINH NGHIỆM ĐƯỜNG ĐỜI cho em biết là ĐÁNH CHÓ KHÔNG NÊN DỒN CHÓ VÀO XÁT BỜ DẬU CÁC BÁC Ạ nên em cũng tạm cho qua vụ này. Chứ em nói thật em chắc thắng vụ này vì em toàn lấy sức nhàn mà TIẾP SỨC MỎI CỦA CÁC BÁC. Và em thề là đến đời con đời cháu các bác cũng không đọc hết dược các tác phẩm bất hủ của thơ cac cách mạng. Dòng chảy này là bất tận. Và nếu các bác chơi tiếp em cũng sẵn sàng nghênh tiếp các bác.
    Trước mắt các bác có thể chơi trò sau với em không? Em giới thiệu một tác phẩm thuộc dòng VĂN HỌC CÁCH MẠNG. Các bác lại giới thiệu một tác phẩm thuộc dòng văn học ngụy quân ngụy quyền hoặc nếu không có thì các bác lại cứ vui vẻ vò đầu bứt tóc mà sáng tác để đối lại. còn hay, giở để người đời phán xét. ĐƯỢC KHÔNG CÁC BÁC
    NHẮC bác trọng dân: “trời hậu giang tù và dậy rúc….” Là bài có tên: BÀ MÁ HẬU GIANG CHỨ KHÔNG PHẢI BÀI MẸ SUỐT, BÁC NÊN ĐI RỬA MẶT D8I CHO TỈNH TÁO HƠN. RỬA BẰNG NƯỚC LẠNH ẤY

    • Phú Đảng Viên says:

      Mấy em bị bác Trọng Dân đâm cho cứng cả họng, ngắc ngoải không nói được gì phải đem nhạc phường khóm ra mà đở….

      Thời buổi này đâu còn ai nghe nhạc phường khóm nữa…

      Toàn là nghe nhạc của VNCH như Duy Khánh , Nhật Trường , Chế Linh,…. không hà

      Tức quá , bèn hăm dọa đòi giết …Tiên Ngu , Trọng Dân

      Chủ nhà sợ cái diễn đàn bấy lâu khổ công gầy dựng thành CÁI BẢI RÁC của Công An mạng đành phải thở dài mà quét mấy em đi…

      Nhạc của Duy Khánh , Nhật Trường nhiều vô số , chủ nhà cho chơi thẳng tay , mấy em đở gì nỗi mấy bác ấy…

      Nhìn là thấy rồi…

      Công An Mạng ky` này thua đau quá…!

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Bộ tính bỏ Đảng hay sao mà bắn ngược chiều gió vậy?

      • Phú Đảng Viên says:

        Bác Dân chỉ là được thể rồi mừng hụt ! Nếu tôi muốn bỏ Đảng thì còn khoe ra làm gì !

        Cứ tối ngày tranh luận đôi co với mấy thằng ngu rồi….lú lẫn theo hay sao?

    • Nguyễn Trọng Dân says:

      Hehehe…

      Mẹ Hậu Giang cởi truồng đấu tranh chống Đảng đòi đất cho nên phải sửa tên bài này thành bài mẹ Suốt , tên mấy mẹ mi`n còn mê chủ nghĩa Cộng Sản đấy. Hiểu Chưa?

  6. Dân quèn says:

    Nói chung lại ông lục viện mọi lý lẽ , mọi chứng cứ để ca đệ nhất Cộng Hoà MN . Đồng thời kêu gọi người VNCH đứng chung vào lập trường , ủng hộ ông .

    Hì hì ..! Ông lục có biết dân đen MN trước 75 nghỉ gì không ? Ông chỉ đề cập đến giới trí thức Văn học thân Cộng , chống Cộng , phản chiến . Nhưng ông quên một thành phần không thích CS đã phục vụ cho giới trí thức có điều kiện múa bút , vung Văn , hò hát trên diễn đàn Văn nghệ báo Chí .

    Ông chỉ nghỉ đến chính thành phần trí thức đã tác động đến sự ra đi của đệ nhất , và sự thất bại của đệ nhị Cộng Hoà với CS .

    Ông nghỉ người Mỹ chẳng biết gì về thành phần không thích CS đã phục vụ cho trí thức các ông . Ngược lại , người Mỹ không chú trọng đến cái trí thức của VN thời bấy giờ , nói rằng họ lợi dụng các ông thì đúng hơn . Nhưng những cơ quan tâm lý của báo Chí Mỹ thì họ đi nắm tin tức và tinh thần của dân quèn không thích CS rất chính xác . Cái thành phần dân quèn đã cung cấp lực lượng lính tráng , Nai lưng cõng các trí thức trên vai cả hai chính thể MN đệ nhất và đến nhị Cộng Hoà .

    Dùng từ ” cõng ” các ông cũng vì các ông không có sự thông cảm , vì chính trị quá yếu kém . Các ông chỉ nghỉ đến cái quyền và cái lợi của các ông . Tự do và dân chủ được các ông nêu ra , nhưng không thực hiện đúng mực , đúng cách . Thế là dân bất phục vì tham nhũng , vì hối lộ , vì không Bình đẳng . Đấy là chưa nói đến áp bức , cửa quyền khi các ông thích .

    Người Mỹ biết được cái tinh thần yêu chuộng Hoà Bình của dân quèn MN , đã bị giới trí thức MN làm cho thụ động , chán nản và chấp nhận Phó thác cho định mệnh . Mỏi mệt vì cuộc chiến làm tiền đồn cho thế giới tự do là tâm lý di Tản cho giai đoạn cuối cùng của 75 . Là tâm lý chung của dân quèn , lính quèn . Sống là ưu tiên , hết chiến tranh CS hay Quốc gia không Cần biết .

    Người MN 20 năm sống theo chế độ tự do , vì ý thức tự do cũng đã sẵn sàng bỏ gánh nặng trí thức mà mình phải ” cõng ” , sau 73 sẵn sàng chấp nhận định mệnh đất nước theo con đường di Tản , đến đâu hay đến đấy . Để rồi 30/4/75 xảy ra , thành phần cán Bộ trí thức thì tù tội than oán , hận thù . Nhưng dân quèn thì cam tâm gánh chịu , tiếp tục di Tản tị nạn khi có điều kiện , không Cần phải oán than nhiều .

    Bây giờ nghe ông lục đổ lỗi cho thành phần thân Cộng , phản chiến . Hì hì …! Ông quên mất cái chính trị , cái quân dân cá nước mà các ông chống Cộng xem nhẹ , đôi lúc các ông còn chế nhạo khinh thường .

    Chính các ông đã không nghỉ đến dân quèn , trí thức chỉ lo tranh giành cho trí thức , ” cõng ” các ông nhiều quá , lâu quá , mà các ông không làm việc cho có trách nhiệm , không hiệu quả , mỏi mệt phải buông thôi .

    Đừng nói đến chuyện CS , nói chuyện phe ta cũng đã thấy thua rồi . Bây giờ ông Lục còn nói chuyện khen , chê , đổ lỗi cho người . Thưa ông , ông có trí nhiều nhưng ông vẫn chưa thức được , ông vẫn còn mải mê trong giấc mộng vàng son của kẻ danh phận trị vì .

  7. lethan says:

    Nhà văn Nguyễn Đình Toàn – Cuối năm 2002 nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội/Hà Nội đã cho xuất bản cuốn “Hai Mươi Nhăm Năm Một Vùng Tiểu Thuyết” ý muốn nói tiểu thuyết ở miền Nam, nội dung đề cập tới tiểu thuyết miền Nam từ 1887 tới Hồ Biểu Chánh rồi nhẩy vọt qua tiểu thuyết từ 1975 đến 2000 đề cao những tác giả cộng sản nhất là các tác giả từ miền Bắc vào. Tất cả văn học miền Nam ( từ 1954-1975 ) không có một dòng.

    Nhà văn Đặng Trần Huân viết: “Với chủ trương rõ ràng của nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam hiện nay như thế, thử hỏi nếu không có những bộ sách như Văn Học Miền Nam của Võ Phiến hay những tạp bút như Sống và Chết ở Sài Gòn thì sau này lấy đâu ra tài liệu về văn học và đời sống của văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà ? Ta phải cám ơn Võ Phiến, cám ơn Hoàng Hải Thủy đã giúp ta tài liệu để còn nhớ không quên những văn nghệ sĩ một thời sáng chói, dù nhớ cách nào đi chăng nữa.”

  8. lethan says:

    Văn hóa nô dịch của bè lũ Việt cộng phản quốc bẩn thỉu đây nè:

    “Trong đêm Giao Thừa, năm Canh Dần, có mấy đài truyền hình ở Việt Nam chiếu cảnh liên hoan, với bài “Việt Nam, Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Ðông…” Bài này sáng tác trong thời kỳ Hồ Chí Minh đang cổ võ về “tình nghĩa” giữa hai đảng cộng sản. Cuối bài, một nam ca sĩ người Tầu và một nữ ca sĩ Việt cùng song ca điệp khúc, “Dân Nam ta ca muôn năm Hồ Chí Minh-Mao Trạch Ðông” giống như một khẩu hiệu để ghi nhớ mãi mãi “.

  9. Nguyễn Trọng Dân says:

    Lai Rai vài bài thơ Trào Phúng của Dân Miền Nam thời Cuồng Điên Cộng Sản

    Thề loại I: Nháy thơ

    ĐÂY THÔN KHỔ NẠN
    (Mong Hàn Tiên Sinh thứ lỗi )

    Sao anh không về Thăm…thôn cũ
    Nhìn nước dòng sông thấy phát ghê
    Ngày xưa bến nước xanh như ngọc
    Bến nước hôm nay..Thiệt Hãi Hùng !

    Gió đâu thổi tới đưa mùi hôi
    Dòng nước ngầu đen, tôm cá trôi
    Nhà ai cận bến…coi như khốn
    Ngóng cổ kêu trơi…đến khô môi

    Ôi Bớ Người Ta ! Bớ làng ta
    Nước sông thúi quá …làm sao ha?
    Ở đâY chức sắc đều..không rãnh
    Nên nước dòng sông… cứ dzậy hoài !

    Ba Cà Móc _ Cần Thơ

    Bài này nháy thơ của Hàn Mặc Tử , bài ” Đây thôn Vĩ Dạ ”
    Nguyên văn :

    Đây thôn Vĩ dạ

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

    Gió theo lối gió, mây đường mây,
    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
    Có chở trăng về kịp tối nay?

    Mơ khách đường xa, khách đường xa.
    Áo em trắng quá nhìn không ra.
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
    Ai biết tình ai có đậm đà!

    Hàng loạt các bài thơ nháy xuất hiện ồ ạt tại miền Nam sau năm 1975 để chế diễu CÁI BA XẠO của thơ tuyền truyền từ Tố Hữu, Chế Lan Viên ,…. Hầu hết các bài thơ nha’i này không dám đề tác giả , & có những đoạn chưởi thề rất nặng dù rất hay nhưng tạm khó trình bày nơi DCV

    Một Ví dụ tương đối nhè nhè tạm trích

    ” Má thét lớn chúng bay đồ cho’
    Cướp đất tao , lại bắt con tao
    Tao già không sức cầm dao
    Giết bây đã có dâu tao trên giường ”

    Nhái từ bài Mẹ Suốt của Tố Hữu.

    Lựa thêm được một bài…BIA & BỤNG cười vui chơi khi uống trà

    BIA & BỤNG
    ( Mong tác giả Thuyền & Biển đại xá…)

    Chỉ có bia mới hiểu ( broken English )
    Bụng mênh mong dường nào
    Chỉ có bụng mới biết
    Bia vào đâu ra đâu…

    Những ngày không gặp nhau
    Bia bọt trào thuơng nhớ
    Những ngày không gặp nhau
    Bụng réo ầm muốn vỡ

    Khi đã gặp bia rồi
    Bụng không còn sống gió
    Khi đã tắm trong bia
    Bụng không còn bão tố
    Nhưng cứ ngụp trong bia
    Đời có ngày khốn khổ

    Lão Hạc (Sóc Trăng)

    Bài này nhại thơ của Xuân QuỲnh “Thuyền & Biển “, vợ Lưu Quang Vũ. Cả hai hình như điều bị tử nạn rất mờ ám

    Nguyên văn

    THUYỀN & BIỂN
    Chỉ có thuyền mới hiểu
    Biển mênh mông dường nào
    Chỉ có Biển mới biết
    Thuyền đi đâu về đâu

    Những ngày không gặp nhau
    Biển bạc đầu thuơng nhớ
    Những ngày không gặp nhau
    Lòng thuyền đau rạn vỡ

    Nếu từ giã thuyền rồi
    Biển chỉ còn sống gió
    NẾU PHẢI XA CÁCH ANH
    EM CHỈ CÒN BẢO TỐ

    Thể loại hai : VÈ

    Bài vè sau đây không biết của ai làm , nhưng lại thấy có nhiều con nít đọc um xùm ở Sài Gòn & Thốt Nốt Cần Thơ … phải lật đật rày chúng vì sợ cha mẹ chúng mang họa , nhưng cố chép sưu tầm lại

    Ông Hồ Chí Minh
    Lên xe nhà binh
    Chạy quanh bùng binh
    Cán nhầm cây đinh
    Nổ một cái bình
    Ông Hồ Chí Minh
    Ông Té xuống xình
    Dân ở Ba Đình
    Quơ lấy cái bình
    ĐẬP ÔNG CÁI BINH!
    Ông chạy vô dinh
    Tướng giống ăn xin
    NÊN BỊ DUẪN KHINH !

    Rõ ràng bài vè tứ tuyệt cu`ng vận rất khó làm, mà lời vè có vẻ như vu vơ , ngu ngơ nhưng lại khích bác chia rẽ nội bộ ở trong đó , rõ ràng là “các thế nực thù nịch ” là tác giả chớ không đâu xa

    Hoặc bài vè sau rất là phổ biến tới cả miền Bắc ,

    “Tiền là tiên là Phật
    Là sức BẬT của lòng người
    Là tiếng CƯỜI của con trẻ
    Là sức KHỎE của ông già
    Là cái ĐÀ của danh vọng
    Là cái LỌNG để che thân
    Là cái CÂN của công lÝ
    TIỀN LÀ HẾT Ý !”

    Không ngờ bài vè này LÀ TUYÊN NGÔN cho một thời kỲ văn Hóa NHÂN TÁNH đang suy xụp mạnh mà ta thấy ngày nay

    Thôi tạm ngưng …

  10. Minh Phương says:

    Tôi đã đọc tất cả các phần của bài viết có nhiều phần này. Qua nội dung phần “kết”, dù không cố ý nhưng tác giả đã thừa nhận sức mạnh của đường lối văn hóa, văn nghệ hết sức đúng đắn của CSVN. Đường lối văn hóa, văn nghệ hết sức đúng đắn ấy của CSVN đã góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp hết sức to lớn của toàn dân tộc để CSVN giành chiến thắng cuối cùng.

    Ngoài vấn đề báo chí và văn học như tác giả đã viết, ở nhiều lĩnh vực học thuật khác CSVN cũng có đường lối hết sức đúng đắn. Đơn cử như lĩnh vực âm nhạc. Giữa cuộc chiến tranh một mất một còn, phần lớn các nhạc phẩm của miền Nam nặng về cái tôi, về tình cảm hết sức ủy mị, ướt át, rên rĩ, sầu não, chia ly, tan vỡ, ru ngủ con người… mà miền Bắc vẫn gọi là nhạc vàng; thì các tác phẩm âm nhạc của CSVN đều tập trung vào mục tiêu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” và “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nội dung các nhạc phẩm của CSVN thời chiến tranh đều tập trung cho mục đích chung là chiến đấu và chiến thắng, nó rất hào hùng, tràn đầy sức sống, nó thúc giục mọi thành phần, mọi tầng lớp xã hội lao động, chiến đấu hết sức mình, thậm chí quên mình để giành toàn thắng. Như vậy, CSVN là “Bên thằng cuộc” thì không có gì lạ.

    • lethan says:

      MP đang hót ở trên diễn đàn DCV mà cứ tưởng nó đang hót ở Thiên Đường Mù Việt nam .

      quang phan says:
      28/02/2013 at 12:4

      Vì đâu có cuộc chiến Việt nam ?

      Tổng bí thư đảng CSVN Lê Duẩn : “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa” .

      Cựu đại tá CSBV Bùi Tín tại San Jose ngày 23/6/2013 phát biểu: Ông ấy (HCM) theo đường lối quốc tế 3 để nhuộm đỏ Đông Dương. Nếu mà ông ấy không theo chủ nghĩa cộng sản thì phương Tây nó không cần cuộc chiến tranh để dẹp chủ nghĩa cộng sản .

      Nhà văn Tô Hải ở Việt nam viết: “Không có ông Hồ, không có cái đảng này thì đâu đến nỗi cả dân tộc tôi bị chiến tranh tàn phá, anh em, họ hàng đâu đến nỗi chia lìa, chém giết lẫn nhau, đâu đến nỗi thua xa những nước cũng thuộc địa như nước tôi đến cả thế kỷ về mọi mặt” .

      Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang – một nhà cách mạng CS lão thành- trong bài “Thắp Chung Nén Nhang Cho Tấm Thảm Kịch Quá Khứ” đã viết:“Ai phải chịu trách nhiệm đối với những con số ghê rợn thế này:1.1 triệu liệt sĩ; 559.200 thương bệnh binh; hơn 300,000 người mất tích “.

      Nhà văn Dương thu Hương viết:” So với tội đem bom đạn và thuốc khai quang của đế quốc Mỹ đổ xuống nước Việt Nam thì tội phá nát sơn hà Việt Nam của Hồ chí Minh còn nặng gấp ngàn lần”.

      Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang ở trong nước phát biểu: “ Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tàn phá đất nước này về mặt kinh tế, và tàn phá cả về mặt văn hóa và tư tưởng…Phải bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và phải rút ra được những nhận định một cách khách quan, thẳng thắng về sự tàn hại của cái ứng dụng sai lầm chủ nghĩa Mác-Lênin “.

      Lê Hồng Hà – nguyên chánh văn phòng Bộ Công an CS trong bức thư chất vấn Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, viết: “Đối với dân tộc Việt nam, học thuyết Mác là học thuyết ngoại nhập…Không giúp lý giải được xã hội Việt nam với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng toàn khác với Tây Âu, rất dể dẫn cách mạng VN đi chệch đường và do đó gây nên tổn thất, gây đổ vỡ, gây kiềm hãm sự phát triển…”

Leave a Reply to TỈNH TÌNH TINH