WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Diện mạo văn hóa, văn học miền Nam trong những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn hóa-văn học [kết]

Tiếp theo phần trước

 

 

Về mặt báo chí

Sự có mặt của các nhà báo, phóng viên, các người làm truyền thông từ miền Bắc di cư vào miền Nam là một thách thức lớn lao đối với cá nhân và sự nghiệp của chính họ.

Điều trước tiên là họ không hoặc chưa có độc giả-. Trong Nam, người ta quen với văn phong của Bà Tùng Long và cách làm báo của bà Bút Trà rồi. Báo Sài Gòn Mới ra mỗi ngày 65.000 ngàn số, rồi còn Tiếng Chuông, 60.000 số, tiếp theo là Tin Điển, Tiếng Dội, Buổi Sáng, Thời Cuộc, Ánh Sáng, Lẽ Sống..

Không có độc giả, báo di cư lúc đầu lèo tèo bán được mười lăm đến 20 ngàn số đã là quý rồi. Đó là hoàn cảnh các báo Ngôn Luận của Hồ Anh, Tự Do của Phạm Việt Tuyền lúc đầu. Nhưng đến khi báo Sống của Chu Tử, tức Chu Văn Bình)- tác giả của các tác phẩm như  YêuGhét-. Ông nổi tiếng với mục Ao Thả Vịt. Và ông cũng là người đưa truyện dài Loan Mắt Nhung của Nguyễn Thụy Long ra trình làng.

Báo Sống của Chu Tử xuất hiện như một thứ nổi loạn thành công ngay từ đầ và đã tự tạo cho mình một phong cách làm báo riêng.- Đó là Phong cách Chu Tử- và nó có một số độc giả phần lớn ở Sài Gòn vượt mọi con số.

Chính Luận của bác sĩ Đăng Văn Sung thì đã chững chạc, uy tín lắm rồi về mặt tin tức và bình luận chính trị mà thường các báo chí khác ở Sài Gòn thường coi nhẹ..

Đây là một khúc quanh khá quan trọng trong làng báo Sài Gòn. Chính Luận tránh đưa những loại tin giật gân và nhảm nhí. Uy tín ấy nay nằm trong các tin tức bình luận chính trị sắc bén thay vì các tin tức nhảm nhí, bịa đặt.

Rồi điều thứ hai dân làm báo Bắc Kỳ chưa tạo được tên tuổi-. Tên tuổi ở miền Bắc thì có thể có- như trường hợp  Tam Lang, Vũ Bằng, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Lê Văn Trương, Thượng Sĩ, Trực Ngôn.

Nhưng tên tuổi ở trong Nam lại là một chuyện khác. Họ phải tự ngoi lên.

Những tên tuổi như Tam Lang, Vũ Bằng, nhất là Lê Văn Trương chẳng mấy chốc lu mờ đi nhường chỗ cho Sức Mấy, Hiếu Chân, Dương Hùng Cường hay Dê Húc Càn, Thần Đăng, Công Tử Hà Đông, Gã Thâm (hai bút hiệu của Hoàng Hải thủy), Thợ đấu Hoàng Anh Tuấn và đặc biệt nhất là Duyên Anh.

Nguyễn Thụy Long- tiêu biểu cho số phận một nhà báo long đong, cơ cực nhất, vào tù ra khám, lúc làm culy ở kho 5 Khánh Hội, lúc làm thợ hồ. Chỉ đến khi Chu Tử ra báo Sống, sau  1963 đã thu nhận ông. Trong hồi ký ông viết: ông run lên vì nhận được số tiền nhuận bút đấu tiên, từ đó đời ông mới khấm khá lên được.

Rồi đến Duyên Anh cũng có lúc ba chìm bảy nổi- nhưng không đến nỗi long đong như Nguyễn Thụy Long-, ông đã gây được sự nghiệp làm báo với nhiều bút hiệu như  Thương Sinh, Nã Cẩu, Bếp Lửa. Nhưng bút hiệu Thương Sinh quen thuộc hơn khi ông ra tờ Con Ong.[1]

Xem Duyên Anh và tôi,  Vũ Trung Hiên, 2000

Nếu Nguyễn Thụy Long may mắn gặp được Chu Tử với bào Sống, thì Duyên Anh cũng may mắn khi về cộng tác với tờ Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm, bút hiệu Thiên Hổ.

Duyên Anh (1935-1997)

Duyên Anh (1935-1997)

Truyện ngắn đầu tay Duyên Anh là Hoa Thiên Lý và Con sáo của em tôi đăng trên tờ Chỉ Đạo của Nguyễn Mạnh Côn đã chinh phục được lứa tuổi nhi đồng bấy giờ cũng như những truyện khác của ông sau này.

Ngoài Nhật Tiến viết về các thiếu nhi bất hạnh còn có Lê Tất Điều. Nhưng Duyên Anh có thể nói là một nhà văn viết dành cho tuổi trẻ. Thế giới của tuổi nhi đồng  trong truyện của Nhật Tiến thường gặp nhiều bất hạnh. Trong khi thế giới trong truyện của Duyên Anh là một thế giới vui tươi, nghịch phá. Thế mới là tuổ trẻ. Vio2 thế, những truyện thiếu nhi  của ông được nhiều thanh thiếu niên tìm đọc. Trội vượt hơn cả là các cuốn Luật hè phố, Thằng Vũ, Bồn Lừa, Thằng Côn vv..

Nhưng Duyên Anh còn nổi tiếng- như một thứ vua không ngai- trong các phóng sự mang tính châm chọc, chửi  bới đủ hạng người trong xã hộii và gây nhiêu thù oán với những bài viết phóng sự như Tiền Mẽo, Sến Việt, Đầm Giao Chĩ.. Ông chế ra nhiều chữ, chửi ai thì người đó chỉ có chết. Tỉ dụ chửi tác giả Cậu Chó, ký tên Trần Đức Lai của ông Tô Văn. Tô Văn tên thật là Bùi Bá Nhân, Thương Sinh đổi ra là Bùi bất Nhân..

Khen ai cũng hết lòng khi gọi  Phạm Kim Vinh, tức Trương Tử Phòng, bình luận gia của báo Chính Luận là quân tử. Cũng đúng chừ không phải là sai. Những Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Diệm thì đều có trong mắt của Duyên Anh. Ông trân trọng cả hai. Điề đó cũng đúng cả.

Khi ông làm phòng viên cho tờ Xây Dựng đi dự phiên tòa xử Đặng Sỹ, ông thấy rõ  việc dàn dựng của Trí Quang trong việc này. Ít báo nào dám lên tiếng. Ông ghi nhận và những ghi nhận của ông trong phiên tòa được giao cho một người viết ký tên Lê Thương Hòa. Lê Thương Hòa là ai? Theo Duyên Anh tiết lộ chính là Trần Kim Tuyến.

Cuộc đời Duyên Anh lúc cuối đời gặp rất nhiều truân chuyên, oan trái từ đi tù cải tạo đến bị đánh oan và gia đình gặp nhiều lủng củng..

Vài dòng ghi nhận vắn tắt về ông như một chứng nhân đặc biệt của nhà báo di cư vào miền Nam.

Trước cuộc di cư, làng báo Sài Gòn bị cộng sản trà trộn, chi phối. Đó là cái khó khăn thứ ba.

Đó cũng là một thử thách thêm nữa cho các nhà làm báo di cư phía Bắc.

Một trong những vết đen của làng báo Nam Kỳ là là có sự thả lỏng cho sự xâm nhập của cộng sản vào trong các tòa doạn.

Quả thực, họ đãng lũng đoạn nhiều tờ báo mà nhiều khi chủ nhiệm chủ bút không biết.

Các tờ báo trong Nam một cách nào đó đã bị chi phối bởi cộng sản qua những nhân vật chủ chốt như Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Linh và Mai Văn Bộ. Ngoài ra hầu như báo nào cũng bị  chi phối xâm nhập như các tờ Dân Chúng, Sài Gòn mới và sau đó là các tờ Tiếng Dội, Trời Nam, Lẽ Sống, Buổi Sángvv..

Điều tai hại là ngay một số số ký giả lão thành có uy tín như Nam Đình, Nguyễn Ang Ca, Trần tấn Quốc cũng ngả theo cộng sản.

Cho nên, ngay khi vừa chấp chánh thì chính quyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đóng cửa ngay lập tức tờ Thần Chung của Nam Đình.

Ngày nay nhìn lại, phải nhìn nhận là các tờ báo này thiếu nhạy bén về chính trị, chú trọng nhiều vào phạm vi thương mại nên phần đông đều có bọn ký giả nằm vùng theo cộng sản  xâm nhập. Triệu Công Minh len lỏi vào báo Tiếng Dội, Trường Xuân Trúc vào báo Dân Chúng, Nam  Thanh, báo Lẽ Sống, Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba, báo Buổi Sáng, Trần Thanh Thế, Văn Mạnh, báo Sài Gòn mới, Nguyễn Văn Hiếu, báo Tiếng Chuông.. Cộng thêm một số ký giả kỳ cựu và nghệ sĩ cải lương cũng theo cộng sản như Các ông Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Nguyễn Tích Dẫn, Nguyễn Huy, Hồ Văn trai, Sơn Tùng, Phong Đạm, Quốc Phượng, Hoài Trinh,  đạo diễn Lê Dân và Mai Thế Đồng, nhà văn Thẩm Thệ Hà, Nguyễn Bảo Hóa. Các cán bộ trí vận như  Nguyễn Văn Chì, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cửu, Cổ Tấn Văn, Bùi Đức Tịnh, Hồ Văn Trai..

Cộng chung, trên dưới  cũng 40-50 chục người.

[2]Đọc Địa Chí Văn Hóa, thành phố Hồ Chí Minh, trang 600-604.

Sự xâm nhập của cộng sản vào làng báo Nam Kỳ là điều khó kiểm soát cho các vị chủ báo như ông Đinh Văn Khai, báo Tiếng Chuông hay bà Bút Trà, bào Sài Gòn mới vv..

Ngay cả những tờ báo sau này do người Bắc di cư làm chủ báo cũng bị cộng sản cài người vào như trường hợp ký giả Thành Hương vào báo Dân Chủ của ông Vũ Ngọc Các, Châu Dương vào báo Ngôn Luận của ông Hồ Anh, Ty Ca vào tờ Sài Gòn Mai của ông Ngô  Quân, Ký Ninh vào tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện, Nam Đình vào tờ Dân Chủ Mới.

Việc kiểm soát càng trở nên khó khăn khi làng báo quy tụ một số lớn các nhà báo thuộc đủ thành phần, đủ nguồn gốc như cựu kháng chiến, kháng chiến về thành, di cư mới vào. Làm thế nào để phân biệt dứt khoát ai là thân cộng, ai chống cộng. Làm thế nào xác định, đánh giá được Văn Bia, Bình Nguyên Lộc, Kiên Giang Hà Huy Hà, Hiếu Đệ, Nguyễn Ang Ca, Sơn Nam? .. hay những tên tuổi như Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Đông Tùng..

Ngay giữa Sài Gòn nhởn nhơ những người ngả theo cộng sản như Sơn Nam, Vũ Hạnh. Họ là bạn bè của những Thanh Lãng, Nhật Tiến, Nguyễn Tường Tam. Bên cạnh họ là những nhà báo chống cộng sản như Từ Chung, Sức Mấy, Chu Tử…

Tất nhiên chính quyền không thể không nghĩ tới tình thế nan giải trên và đã bày tỏ nỗi ưu tư đó bằng cách đưa ra 7 Nghị định về xuất bản và kiểm duyệt báo chí từ ngày 7-7-1954- ngay ngày đầu tiên chấp chính của thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Và chỉ ba tuần sau, chính phủ Ngô Đình Diệm phải đương đầu sự khuấy rối của cộng sản qua Phong Trào Bảo vệ Hòa Bình tổ chức mít tinh ngay tại chợ Bến Thành, ngày 1-8-1954. Kẻ đứng làm bình phong là kỹ sư Lưu Văn Lang mà đằng sau ông ta là những cán bộ cộng sản như Phạm Huy Thông, Nguyễn Thị Châu Sa(về sau đổi tên là Nguyễn Thị Bình), Nguyễn Bảo Hóa tức ký giả Tô Nguyệt Đình và những trí thức như Nguyễn Hữu Thọ, nhà sư Thích Huệ Quảng, dược sĩ Trần Kim Quan, ký giả Nguyễn Thị Lựu, Giám điốc Pháp Hoa ngân hàng Nguyễn Văn Vỹ, tức Michel Vi Van.

Chính quyền phản ứng bằng cách băt giam 28 người cầm đầu Phong trào này. Nhưng cuối cùng do Ủy Hội Quốc tế can thiệp, chỉ có hai người bị đưa ra Bắc.

Trong số những ký giả trên, chính quyền VNCH ra lệnh bắt hàng loạt ký giả của nhiều tờ báo như Trần Ngọc Sơn, Anh Tín, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Diệp Liên Anh, Trần Quốc Thảo.. đã bị đưa đi các trại tù ở Tân Hiệp, Biên Hoàn hoặc đầy ra Côn Đảo.

Có những biện pháp nhẹ hơn như nhóm Chân Trời Mới của bộ ba Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc phải tự ý đình bản đồng thời tuần báo Cải Tạo vốn do một ký giả miền Bắc di cư vào- ký giả Phạm Văn Thụ bị thu hồi giấy phép vì trao cho nhóm Hoàng Trọng Miên( điều hành tòa soạn. Riêng tờ Nhân Loại, nơi tập trung nhiều ký giả cộng sản thuộc hàng ngũ kháng chiến hoặc thiên tả.[3]

Nguyễn Văn Lục, Hai mươi năm miền Nam, 1955-1975, các trang 443-446

Trong một tình trạng bị cộng sản giật dây chi phối, lũng đoạn, vai trò của các phóng viên, nhà báo di cư trở thành một thứ Mặt trận với cộng sản nhằm tranh đấu loại bỏ ảnh hưởng của cộng sản và tranh đấu cho Tự do, dân chủ.

Nhưng chỉ một thời gian ngắn, các nhà báo miền Bắc, với ngòi bút phần lớn sắc bén về chính trị dần dần tạo dựng được tên tuổi, tạo dựng được uy tín nơi các độc giả di cư và ngay cả độc giả gốc miền Nam..

Những tờ báo đi đầu trong giai đoạn này là tờ báo Tự Do với bác sĩ Lý Trung Dung và nhóm sáng lập bị loại ra ngoài như các ông Tam Lang Vũ Đình Chí, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Nguyễn Hoạt để thay thế bằng nhà giáo Phạm Việt Tuyền đứng chủ nhệm.(Sau này, Nguyễn Hoạt cay cú và chỉ trích, nói xấu chế độ đệ nhất cộng hòa cũng như nói xấuTrần Kim Tuyến).

Tờ Tự Do lúc ấy được coi là tiêu biểu nhất cho các văn nhà báo thuộc diện di cư với các cây bút như Tam Lang, Hiếu Chân, Vũ Bình, Bùi Xuân Uyên, Như Phong Mai Nguyệt ( tức Tchya Đái Đức Tuấn), Hà Thượng Nhân.

Tiếp theo là tờ Ngôn Luận

Tiếp theo là các tờ Chính Luận, Dân Đen, rồi Xây Dựng, Hòa Bình, Tiền Tuyến Sống, và tờ Sóng Thần..

Nhiều nhà báo từ ngoài Bắc vào- tùy theo tuổi tác và kinh nghiệm nghề nghiệp- đã được đồng hóa vào sĩ quan quân đội để tiện nắm những chức vụ chỉ huy các cơ quan truyền thông đủ loại. Như trường hợp nhà báo Hà Thượng Nhân được biệt cách mang lon thiếu tá để làm việc.. Đã có rất nhiều những cây bút trở thành những ngòi bút tranh đấu như người lính ngoài mặt trận. Họ là những người  như Hà Thượng Nhân, Dương Hùng Cường hay Dê Húc Càn, Sức Mấy, Hiếu Chân, Minh Võ, Từ Chung, Chu Tử vvVà nhiều ký giả trở thành mục tiêu cho cộng sán ám hại.

Rất tiếc là vào những năm cuối của chế độ đệ nhất cộng hòa phải lo đối phó với các thành phần đối lập nhất là bận tâm trước phong trào Phật giáo Ấn Quang..

Vai trò chống cộng sản bị tạm thời sao lãng. Mối ưu tư của chính quyền về hiểm họa cộng sản chuyển hướng qua sự lo âu về các hoạt động đối lập.

Thay vì chống Cộng nay phải lo chống đối lập, chống những người biểu tình. Phần một số nhà báo cũng bắt đầu quay ra chống chính phủ. Trước chống cộng nay chống chính quyền.

Và không có gì lạ sau 1963, tất cả những thành tích đạt được của các nhà báo chống cộng sản cũng như của chính quyền đã bị xóa hết mọi kết quả thâu được trong suốt 9 năm trước về mức kìm giữ được sự xâm nhập của cộng sản.

Sau 1963 là thời cơ của cộng sản đẩy mọi hoạt động khuynh đảo, khuấy rối thuộc đủ thành phần do cộng sản giật giây.. Nhiều lúc, chính quyền tỏ ra không còn có khả năng kiểm soát nổi trật tự ở ngay Sài Gòn.

Hầu như có một mặt trận ở ngoài trận địa với bom đạn và một thứ mặt trận với hàng rào kẽm gai, lựu đan cay và người biểu tình. Làm sao chúng ta không thua được?

Và mặc dù có một số tờ báo vẫn đứng vững, trụ chân làm thế chống đối bạo quyền cộng sản và bảo vệ miền Nam như các tờ Tin Sáng (do Lý Đại Nguyên đứng tên chủ nhiệm), Chính Luận, Sống, Đuốc Nhà Nam và Xây Dựng…Liệu những con én trên có làm nổi nên một mùa xuân không?

Sự chống đối lên đến cực điểm giữa chính quyền và tờ Sóng Thần, chống tham nhũng, tờ báo có lúc số phát hành theo Uyên Thao lên tới 200.000 số.

Bên cạnh đó chính quyền đệ nhị cộng hòa lại không quan tâm cho đủ đến  một tờ tạp chí Tin Văn,- một tờ do Nguyễn Nguyên- một cán bộ cộng sản được cử vào Nam từ 1954- Tờ báo quy tụ nhiều ký giả nằm vùng như bà Minh Quân, Vũ Hạnh, Kiên Giang, Sơn Nam, Thẩm Thệ Hà, Thanh Việt Sơn, Phan Du, Đông Tùng ( Nguỹn Văn Bồng), Lương Sơn, Hướng Dương tức Rum Bảo Việt hay Sáu Chiến ủy viên đảng ủy văn hóa.. Ngoài ra còn có sự cộng tác của một số khuôn mặt nằm vùng theo MTGPMN như Lữ Phương, Thái Bạch và kéo theo được một số người khác như Nguyễn Hiến Lê, Á Nam Trần Tuần Khải, họa sĩ Tú Duyên, Nguyễn Đức Quỳnh, Trọng Lang, Thạch Chuong tức nhạc sĩ Cung Tiến, vv..

Qua Tin văn, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn đã đánh phá các nhà báo như Chu Tử suốt từ 1966-1971. Riêng Phạm Duy bị Nguyễn Trọng Văn viết hẳn một cuốn sách nhan đề: Phạm Duy đã chết như thế nào ? vào năm 1971, do Văn Mới xuất bản..

Tin Văn đã đạt được một kết quả là vận động, lôi cuốn được 118 văn nhân, nghệ sĩ ký giả.. đồng ký tên vào bản Tuyên Ngôn chống Văn Nghệ đồi trụy để kết án tòan bộ sinh hoạt văn học nghệ thuật  miền Nam..

Sau luật 007 được ban hành thì phần thắng nghiêng hẳn về phía cộng sản.

Hai tờ Điện TínBút Thép, ký giả Lê Hiền, người của cộng cài vào trực tiếp chi phối tờ báo. Còn lại một số tờ khác như Sài Gòn Mới, Dân Luận, Hòa Bình, Độc Lập nặng về phần kinh doanh hơn là chống cộng sản..

Còn lại tờ Đại Dân Tộc, Đông Phương thì người điều khiển tờ báo là một cán bộ cộng sản—ký giả Tô Nguyệt Đình, tức Nguyễn Bảo Hóa- từng bị bắt giam thời đệ nhất cộng hòa.

Nhìn lại cuộc tranh đấu xuống đường của nhật báo Sóng Thần với Ngày Ký giả đi ăn mày vào màn chót của  miền Nam Việt Nam.. Tôi vẫn nghĩ là nó mang giá trị lưỡng tính của một chọn lựa: Hoặc chọn lựa giữa tranh đấu dân chủ, tự do báo chí  hay là chọn lựa tranh đấu chống cộng sản?

Không lạ gì, cộng sản rêu rao về cái ngày đó như một thành tích của chính họ..

Về mặt Văn Học

Trí thức, nhà văn miền Bắc khi chọn di cư vào miền Nam đều có một mẫu số chung: chọn tự do.  Tự do là lẽ sống và là lý do chính yếu để họ rời khỏi miền Bắc. 9 năm liên hệ, đối đầu với cộng sản đủ để họ hiểu thực chất người cộng sản là gì.

Khi bước chân vào miền Nam, các nhà văn, nhà thơ trẻ của miền Bắc đều có một thái độ chính trị rõ rệt, dứt khoát qua các bài viết trên tờ Người Việt( tiền thân của Sáng Tạo) như:

-  Hòa bình và Hội Nghị Geneve

- Phải bảo vệ nền độc lập văn hóa

- Thực chất văn nghệ cộng sản

-  Văn Nghệ và cách mạng

- Chủ nghĩa Mác với văn Ngệ Việt Nam

-  Vấn đề giai cấp xã hội

- Nhân sinh quan của người Việt.

Và nếu họ có viết truyện thì truyện cũng mang vóc dáng chính trị. Hà Nội qua tác giả Trần Trọng Đăng Đàn gọi đó là một đường lối chiến lược của Mỹ Diệm. Chẳng hạn truyện ngắn: Người bệnh giữa mùa xuân của Thanh Tâm Tuyền, Đêm giã từ Hà Nội, Góc đường Tự Do, Đồn Phòng Ngự 21 của Mai Thảo. Hay truyện Gánh Xiếc của Doãn Quốc Sỹ rõ ràng ám chỉ cộng sản..Sau này Tô Hoài có quen biết Doãn Quốc Sỹ tự hỏi Cách mạng có nợ tiền, nợ máu gì với cái gia đình công chức quèn là nghề giấy, thế mà sao Doãn Quốc Sỹ chửi cộng sản hăng thế..[4]

Trích: Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo, Hợp Lưu tháng 8-9, 2010,  Dương Nghiễm Mậu, trang 33

Hay trường hợp Võ Phiến với Người Tù, Mưa đêm cuối nămvv..

Thời gian 1954-1955 là thời kỳ khởi sắc, đầy sinh khí của văn học miền Nam. Cả một thế hệ văn học sau tiền chiến bùng phát. Hầu như tất cả đều sắn tay áo, sẵn sàng lên đường với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ. Hết Sáng Tạo, rồi Bách Khoa, Hiện Đại, Thế kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Khởi Hành, Văn vv..

Họ viết hăng. Viết với tin tưởng. Viết mạnh. Viết với sáng tạo. Viết với tìm tòi. Họ- nhất là Mai Thảo- hầu như được coi như hướng đi của văn nghệ miền Nam lúc bấy giờ. Và điều quan trọng nhất nơi họ. Đó là họ tạo ra một niềm phấn khởi như Mai Thảo từng viết: Đem ngọn lửa Văn hóa vượt vĩ tuyến sáng lên ở đây hôm nay.

Năm 19545 còn ghi lại, chói lói, cái đẹp ấy của mùa mới, cái đẹp ấy của lên đường. Ta từng đi chật đất. Ta từng có lớp lớp. Ta từng đến hàng hàng. Những khởi đầu của từng hoạt động văn học, từng phát động nghệ thuật nói chung của ta tuyệt đúng, tuyệt đẹp.

Sự hứng khởi ấy chắc hẳn lây lan sang các tác giả khác như Vũ Hoàng Chương.  Như Nhất Linh quyết định hạ sơn, chiêu tập lại nhân tài lại làm báo và gây được những ấn tượng mạnh nơi các người thanh niên trẻ như chúng tôi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Chỉ rất tiếc là niềm phấn khởi đó không bao lâu lịm tắt-và dần để lộ ra chỉ là một thứ làm dáng trí thức- một lối chơi chữ kêu rổn rảng mà nội dung không đi đôi với ngôn từ.

Sáng Tạo, thoái thân của tờ Người Việt đình bản trước đó có mặt với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền vào năm 1956 với Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và Trần Thanh Hiệp.

Nhưng ngoài các người viết mới vừa kể trên, Sáng Tạo còn có nhiều nhà văn thuộc thế hệ tiền chiến hoặc ngoài nhóm như: Vũ Hoàng Chương, Lê Văn Siêu, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Duy Diễn, Lê Thương, Lê Cao Phan, nhà thơ Nguyên Sa, Nguyễn Phụng, Lữ Hồ hoặc những người như Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Tạ Tỵ, Vĩnh Lộc, Thanh Nam, Tô Kiều Ngân.

Sau này trong Sáng Tạo, bộ mới năm 1960 có thêm Trần Dạ Từ, Viên Linh, Thảo Trường, Trần Thị Nhã Ca, Thạch Chương, Sao Trên Rừng và Dương Nghiễm Mậu.

Khi ra hải ngoại, vào năm 1958, Nguyên Sa Trần Bích Lan đã thu tóm văn học miền Nam thời kỳ đó vào bốn khối lớn là:

-  Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo

-  Nhóm Đất nước của Nguyễn Văn Trung

- Nhóm Bách Khoa của Võ Phiến

- Nhóm thứ tư, những nhà văn, nhà thơ độc lập như Vũ Hoàng Chương, Du Tử Lê, Đinh Hùng, Trần Dạ Từ..

Tôi nghĩ rằng, nhận xét của Trần Bích Lan có tính cách tán dương nhiều hơn là sự  thật. Sự xếp loại như vậy có phần gượng ép.

Sau Sáng Tạo thì tiếp nối theo một số tạp chí như Hiện Đại do Nguyên Sa chủ trương. Trong tờ Hiện Đại, người ta cũng thấy sự có mặt của bốn tác giả trong bộ biên tập Sáng Tạo là Duy Thanh, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ.  Hiện Đại ra được 9 số thì đình bản.

Tạp chí Thế Kỷ Hai Mươi do Nguyễn khắc Hoạch chủ trương biên tập quy tụ thêm một số giáo sư đại học như Nguyễn Khắc Hoạch, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Nguyễn Đăng Thục và một số cây viết của Sáng Tạo.

Không khí nhộn nhịp, sôi động của một nền văn nghệ mới của cái hôm nay thay thế và đoạn tuyệt với quá khứ xem ra đến đây thì khựng lại.

Mai Thảo một mình một cõi, ngất ngưởng một chiếu trước đây xem ra đã cạn dòng. Một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng vẫn là Mai Thảo của Nguyễn Đình Toàn xem ra lời khen không còn đúng chỗ nữa.. Vẫn viết như thế mặc cho tình thế đổi thay. Cái hào khí Đêm Giã từ Hà Nội  không còn nữa. Mai Thảo năm 1954 không khác gì Mai Thảo thập niên 1960 và nhất là sau 1963..

Tiền tài trợ của Mỹ qua trung gian Trần Kim Tuyến không còn nữa.. Các tờ tập san lần lượt thi nhau rụng, không kèn không trống..

Có một khựng lại trong sinh hoạt văn học. Không có tiền tài trợ, những người như Mai Thảo quay ra viết feulleton, kiếm sống. Chữ nghĩa tụt dốc chỉ còn là cái cần câu cơm.

Nguyễn Mạnh Trinh đã lột tả hết nỗi cô đơn bất hạnh của một nhà văn sáng giá nhất từ miền Bắc di cư vào miền Nam lúc cuối đời qua ngòi bút của nhà văn Tuấn Huy:

Tâm tư cô đơn xót đau ấy có lẽ những người trẻ hơn khi đêm khuya đưa ông về phòng đã chứng kiến. Nhà văn Tuấn Huy, một người hay đưa ông về lúc canh khuya kể lại những giây phút ấy:

Chiếc chìa khóa nhỏ được móc ra từ đáy túi. Giơ lên rung rẩy dưới ánh sáng của ngọn đèn lờ mờ.. cuối cùng mới trúng ổ. Cửa mở. Anh loạng choạng bước vào. Đèn phòng bật sáng. Những kệ sách đầy kín. Những bức tranh, những khung hình thờ ơ, câm lặng. Chợt bàn tay trái của anh xô mạnh đống giấy tờ bừa bộn trên bàn. Anh mất thăng bằng, té bổ ngửa người ngay trên chiếc ghế dựa giữa bàn viết. Tôi hơi hoảng hốt đỡ anh lên. Một thân thể nhẹ hẫng gầy còm, rũ rượi.. Tôi dìu anh đến bên chiếc giường và lo âu hỏi: Anh có sao không Anh? Chỗ ở đầu của anh có việc gì không? Anh gượng gạo kéo lại tay áo rồi trả lời dấm dẳng:Không sao hết.. ngã thế đã ăn nhằm gì.. chết mẹ nó đi được cũng chẳng sao.. Tôi thật tâm ái ngại: Anh lớn tuổi rồi phải cẩn thận. Ở một mình mà lỡ té ngã là nguy hiểm lắm.. Anh vẫn ngang ngược, gạt di: Nguy hiểm cái đếch gì, không sao cả. Bao nhiêu người còn khốn khổ hơn mình nhiều..

Tôi đứng lặng nhìn Anh. Phút giây tôi ứa nước mắt. Chưa bao giờ tôi thương anh cho  bằng phút này. Dù rằng từ trước đến nay, đã hơn một lần, tôi xót xa ái ngại cho anh.[5]

Tạp ghi Văn Nghệ, Nguyễn Mạnh Trinh, trang 28-29

Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 và sự chấm dứt dòng hội nhập của người miền Bắc sau chín năm của Đệ nhất cộng hòa miền Nam

Biến cố Phật giáo đi đến thành công nhờ có ba thành phần sau đây: giới Phật giáo miền Trung do TT Trí Quang cầm đầu. Sự ủng hộ và tiếp tay gián tiếp đằng sau của chính quyền Mỹ qua đại sứ CabotLodge và nhóm sĩ quan cầm đầu với Trần Thiện Khiêm- Dương Văn Minh- Trần Văn Đôn.

Mục tiêu của cuộc đảo chánh là để lật đổ: Một chính thể độc tài và kỳ thị đàn áp Phật giáo.

Câu hỏi đặt ra cho mọi người miền Nam ngày hôm nay là cả hai mục tiêu trên có thực hiện được không và đạt được gì sau cái chết của hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu?

Không mấy ai dám bày tỏ một cách thẳng thắn thành quả về biến cố chính trị 1963.

Hậu quả là sự tan rã, rối loạn về mặt chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội.

Hơn ai hết, các nhà văn, nhà báo uy tín thời đó- do nhạy cảm hơn cả- đã bầy tỏ sự chán chường, thất vọng và mất niềm tin nơi họ bằng nhiều cách thức khác nhau.

Quan trọng nhất là sự mất niềm tin vào chính nghĩa quốc gia trong khả năng đương đầu với cộng sản.

Võ Phiến sau này klhi ra hải ngoại đã bày tỏ tâm trạng chán chường của các nhà văn trong Văn Học miền Nam, tổng quan, vào năm 2000..[6]

[7] Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến,m trang 245 trở đi

Đó là các nhà văn, nhà báo như Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương và những nhà báo trẻ như Phan Nhật Nam và Dương Nghiễm Mậu..

Và đối với các nhà văn miền Bắc di cư nói chung có sự khựng lại, có sự chuyển hướng, có sự tránh né, buông xuôi như một Mai Thảo( Một người từng tuyên bố- một người di cư không có quyền ngán một điều gì)- có người nấp vào Thiền, vào tôn giáo, vào dịch thuật..

Sách Thiền và nhất là sách dịch nở rộ lên đến nỗi  vào thập niên 1970, nó chiếm đến 75% thị  phần sách xuất bản ở miền Nam.

Tâm sự chán chường, buông xuôi ấy tiêu biểu trong một bài phỏng vấn Vũ Hoàng Chương- một Vũ Hoàng trước đây lồng lộng  tin tưởng và hăng say trong tập thơ Hoa Đăng-  và một Vũ Hoàng Chương tuyệt vọng sau này:

Tôi bây giờ chỉ chờ ngày chết thôi. Lắm lúc muốn tự tử. Thơ không viết nữa, giá viết cũng không người đọc. Đoc tâm sự ấy, Nguyễn Mạnh Côn kêu lên: Câu tâm sự thoáng qua nghe mà lạnh gáy. Tôi về rồi, một tuần sau trở lại, yêu cầu anh xác nhận, anh gật đầu.

Cho nên kể từ sau 1963, dòng hội nhập văn hóa, văn học từ phía Bắc chói sáng một thời đã chết dần, chết mòn- chết nhiều kiểu, nhiều cách và chết hẳn vào 1970..

Thay vảo đó, chiến tranh mỗi ngày mỗi gia tăng, sự có mặt đông đảo của người Mỹ và đồng minh đã tạo ra một dòng văn học dấn thân ở miền Nam. Dòng văn học này nặng tính cách chính trị  ảnh hưởng trực tiếp do chiến tranh mỗi ngày một tàn khốc.;

Dòng văn học này không còn phân biệt các nhà văn Nam- Bắc, nhưng nói lên thân phận con người trong chiến tranh. Một mặ nó nói lên sự tàn khốc của chiến tranh và khát vọng một nền hòa bình và chấm dứt chiến tranh.

Nó không hẳn là phản chiến. Và vì thế cần phân biệt ra nhiều loại.

Từ phản chiến có thể mang nghĩa tiêu cực thường để chỉ định những thành phần nghiêng về phía bên kia như trường hởp Trịnh Công Sơn, Ngụy Ngữ, Kinh Dương Vương, Thái Luân, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, Thích Nhất Hạnh..

Hoặc chỉ định họ những người đãn quyết định chọn ngản hẳn về phía bên kia như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín (trước 1975), Thế Nguyên, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Trương Thìn, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Van Ba, Đinh Xuân Dũng, Châu Tâm Luân, dân biểu Lê Tấn Trạng, Lê Văn Nuôi,  dân biểu Nguyễn Hữu Hiệp, dân biểu Nguyễn Văn Binh, db Tư Đồ Minh,Thạch Phen, luật sư Trần Ngọc Liễng, Thích Hiển Pháp, Thích Minh Nguyệt, thầu khoán Nguyễn Văn Hạnh, ni sư Huỳnh Liên, bà Ngô Bá Thành, nữ nghệ sĩ Kim Cương,  Lý Quý Chung, nghị sĩ Hồng Sơn Đông,  Mường Mán.

Loại thứ ba, mượn danh nghĩa phản chiến, nhưng là cộng sản thứ thiệt như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Cao Thị Quế Hương,, Trương Thị Kim Liên, Lê Thành Yến, Hoàng Phủ Ngọc Tường, HPN Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Công Giàu, họa sĩ Ớt, Lm Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần..và Vương Đình Bích..Ngô Kha,  Mường Mán, Trần Vàng Sao, Tiêu Dao Bảo Cự..

- Bên cạnh đó, một số lượng đông đảo các nhà thơ được coi như chống lại chiến tranh, từng là binh sĩ, sĩ quan trong quân độ VNCH. Họ bầy tỏ một tâm trạng của những người lính ngoài mặt trận và làm một thứ văn chương xám, nhìn cuộc chiến với một mầu đen. Hơn ai hết họ là những người tham dự trực tiếp vào cuộc chiến ấy- Họ có thể là nạn nhân của cuộc chiến. Có người đã ngã xuống và bỏ thây ngoài mặt trận, người mang tàn phế. Họ là Doãn Dân, Y Uyênvv.. Trong một tuyển tập thơ dày 854 trang với sự quy tụ của 263 nhà thơ, do nhà văn Trần Hoài Thư biên soạn với lời nhà xuât bản:

Đây là những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương..

Hy vọng tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương miền Nam trong thời chiến tranh để họ có cái nhìn rõ và đứng đắn hơn về một dòng văn chương tình tự, rất là tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản…[8]

Thơ miền Nam trong thời chiến, Tủ sách di sản văn chương Việt Nam, Thư ấn quán xuất bản, 2006.

Xin trích một đoạn thơ tiêu biểu, đậm tình người:

Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con

Cũng đem chiếc áo lành ra mặc

Cũng ăn một bữa cơm cho no

Cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu

Khổ đau lúc này mẹ gói trong mo

(Trích thơ Hồ Minh Dũng)

 

Trời mưa, không lớn lắm

Nhưng đủ ướt đôi đầu!

Tình yêu không đáng lắm

Nhưng đủ làm.. tiêu nhau!..(..0

Em phải nằm xuống trước

Ám ảnh một đời ta!!

(Trích Thơ Khởi Tự Mê cuồng- Nguyễn Tất Nhiên-.

Văn thơ miền Nam là một dòng thơ để lại mà nhiều người nay đã không còn nữa. Trong trường hợp Nguyễn Tất Nhiên đã để lại những dòng thơ tình bất hủ giữa lòng cuộc chiến như Khúc buồn tình, Đám đông, Ma soeurvv…

Có những nhà văn thuộc thế hệ sau di cư, những người trực tiếp trong cuộc chiến có thái độ phẫn uất như Phan Nhật Nam, Dương Nghiễm Mậu. Nhã Ca, Lê Tất Điều..hay những  người khác như Thế Uyên hay Chu Tử, Tha3on Trường, Từ Chung vừa chống cộng sản, vừa bất mãn với chính quyền.

Nhưng có một số thành phần những trí thức, phần lớn gôc gác miền Trung cần được bàn riêng ở đây và thái độ chính trị của họ đã gây nhiều tác hại không ít cho chính quyền VNCH không ít.

Sau 1963, ông Diệm và ông Nhu mặc dầu không không còn nữa.

Họ đã chết. Nhưng chế độ của đệ nhất cộng hòa vẫn còn đó. Người ta nói đến một chế độ Diệm không Diệm.

Người ta mới thực sự mới lật đổ được một cái ghế, nhưng chưa thay đổi được chế độ ấy.

Vì thế, tờ Lập Trường, ngoài Huế do ông Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm, ông Lê Tuyên làm chủ bút và Cao Huy Thuần làm Tổng thư ký, tòa soạn đặt tại 17 B, Lý Thường Kiệt, Huế cho rằng cuộc cách mạng còn dang dở, chưa làm xong, cần tiếp tục.  Có thể nói trắng ra là họ muốn nhổ cỏ thì cần nhổ tận rễ.

Họ muốn tiếp tục con đường cách mạng, nghĩa là quét sạch những tàn tích dơ bẩn của quá khứ. Những rác rưởi dơ bẩn đó, ở Việt Nam, đã cao lên ngút đầu trong 9 năm qua, phi quân đội, không  lực lượng nào có thể quét sạch được…[9]

Trích bài Mở Một nước cờ, tờ lập Trường, thứ bảy 6-6-1964

Và họ đặt vấn đề: Hôm nay, chúng tôi muốn đặt câu hỏi đó ra trước chínhquyền: Nhân dna6 đã trao quyền cho các tướng lãnh để thi hành trọng trách quét sạch quá khứ; trọng trách đó, chính quyền đã làm xong chưa?

Đây là những thành phần tả phái cực đoan, quá khích đến cùng cực. Họ bất mãn, họ đả phá tất cả. Họ chống công giáo qua trung gian các thành phần được gọi là Cần Lao còn sót lại trong chính quyền. Họ chống chiến Tranh, chống một chính phủ quân nhân, chống sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Nghĩa là họ chống tất cả.

Chẳng hạn họ đã đốt thư viện của Mỹ ở Huế. Chửi Mỹ như thể giọng điệu cộng sản đòi Mỹ rút quân, Mỹ Go Home.

Trong thực tế, họ cổ súy một chiến dịch diệt Cần Lao bằng cách ủng hộ chuyện tử hình Phan Quang Đông, rồi sau Phan Quang Đông họ làm áp lực qua ông Trí Quang để đưa Đặng Sỹ ra tòa. Nhưng dưới áp lực của TGM Nguyễn Văn Bình, Đặng Sỹ chỉ bị kết án 20 năm tù..

Ngay tại huế, họ lật đổ vai trò của linh mục Cao Văn Luận trong chức viện trưởng đại học..

Họ làm áp lực  buộc viện trưởng Viện Đại Học Huế phải từ chức và ra đi..Trước tình hình căng thẳng như vậy, một số giáo sư đại học đã xin đổi vào Sài Gòn.

Nhất là họ lập ra một Hội Đồng gọi là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc mà danh xưng  cũng như cách hành động na ná như một tổ chức của Việt Minh, cộng sản. Nhiều viên chức trong chế độ cũ lo sợ bị trả thù.

Ít tháng sau, không biết vì lý do gì  tổ chức và tờ báo này đóng cửa. Nhưng nó cũng là cớ khai mào ra nhiều phong trào thanh niên, sinh viên Phật Tử đoàn ngũ lại và hệ quả của việc này gây tình trạng xáo trộn liên tiếp ba năm liền- Miền Trung gần như một miền dất tự trị dưới sự ủng hộ của quân đội do tướng tướng Nguyễn Chánh thi cầm đầu-. một thứ chính quyền bên trong một chính quyền-  cho đến khi ông Trí Quang bị dẫn độ về Sài Hòn và ông đã tuyệt thực 100 ngày tại Dưỡng Đường Duy Tân của bác sĩ  Tài. Tướng Thi buộc phải rời VN, sang Mỹ chữa bệnh,  phong trào tranh đấu miền Trung mới tạm yên ổn..

Sau 100 ngày tuyệt thực không đạt được kết quả gì, ông Thích Trí Quang theo lời khuyên của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, ông đã rút lui về ở ẩn cho đến 1975, rồi sau này nữa, ông vẫn giữ thái độ tịnh khẩu.

Sau ba năm xáo trộn, các thành viên của nhóm thiên tả cực đoan miền Trung phân tán, ngả rẽ làm ba loại.

- Một loại, nhờ có thế, cách này cách khác, một số tìm đường ra ngoại quốc  du học như trường hợp Thái Kim Lan, Cao Huy Thuần vv.. Với tư cách sinh viên, họ tụ lại và thành lập nhóm sinh viên phản chiến- gọi là thành phần thứ ba- cấu kết với sinh viên nơi họ cư ngụ. Họ tổ chức biểu tình chống chiến tranh- một cách gián tiếp chống Mỹ và chính thể VNCH. Ở trong nước, họ quậy phá một cách, ra ngoại quốc, họ quậy phá một cách khác. Tâm tình của họ, thái độ của họ, đời sống của họ, hoạt động của họ luôn luôn đẩy họ về phía đối lập, chống đối VNCH. Họ hãnh diện về thành tích và việc làm của họ ở trong nước cũng như khi ngoài nước.

- Một số lớn còn lại, tiếp tục ăn học trở thành những sĩ quan, công chức của VNCH. Nhưng họ sống với nhiều hoang mang, trăn trở ở cái tình trạng mà Trịnh Công Sơn gọi là: Tiến thoái lưỡng nan. Một số nhỏ, che dấu cái quá khứ của họ hoặc tham gia chính quyền, hoặc ra tranh cử dân biểu như trường hợp Hoàng Văn Giàu đi theo Bùi Tường Huân. Một số  tham gia chính quyền với tư cách dân biểu với sự đỡ đầu của Phật giáo.  TT. Trí Quang chắc hẳn đã bảo trợ và đỡ đầu cho các dân biểu này.. Với tư cách dân biểu, họ đứng trong danh sách các dân biểu đối lập của nhóm Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức quậy phá một cách công khai và hợp pháp, hỗ trợ cho đám sinh viên cộng sản nằm vùng như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Hoàng Văn Giàu, sau khi đi tù cộng sản, ra hải ngoại- vẫn chưa thấm đòn cộng sản tiếp tục giao lưu móc nối với đám Giao Điểm làm cầu nối cho cộng sản. Họ tham gia chính quyền để tranh đấu hợp pháp, không bị cầm tù. Nếu có thể nói đây là những kẻ nội thù của chính quyền miền Nam.

- Còn một số rất nhỏ, vì lộ diện trong việc tranh đấu, vì sợ bị chính quyền VNCH bắt cầm tù đã chạy trốn hẳn sang bên kia như trường hợp  anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân..Thái Ngọc San, Tiêu Dao Bảo Cự. Sau này, họ cũng vỡ mộng cộng sản nhưng rơi vào tình trạng gái ngồi phải cọc như trường hợp Tiêu Dao Bảo Cự. Riêng Nguyễn Đắc Xuân,  anh ta là người cộng sản hơn cả người cộng sản.

Bắng cách nào ở vị trí nào, ở trong nước hay ở hải ngoại. Đám người cực đoan và quá khích- một số nhõ- miền Trung cũng chống phá VNCH trong suốt hai mươi năm miền Nam và sau này ở Hải Ngoại..

Tôi xin xác nhận, họ không phải là cộng sản thứ thiệt, nhưng việc làm của họ, việc tranh đấu của họ  trở thành thứ nối giáo- kẻ nội thù- cho người cộng sản.

Người ta có cảm tưởng chống phá là lý lẽ đời sống của đời họ. Họ sinh ra để chống phá. Và họ chỉ thực sự lớn lên trong khí thế tranh đấu bạo động.

Nhiều người trong bọn họ chắc chắn không phải  là cộng sản. Nhưng một điều chắc chắn họ cũng không bao giờ là những người con dân của miền Nam.

Nhận định về các thành phần trí thức trong các tờ Hành Trình, Đất Nước..và Trình Bầy

Sau biến cố chính trị 1963, một số trí thức miền Nam- trăn trở trước tình hình đất nước- thấy không thể ngồi yên. Họ thấy cần làm một điều gì, thấy cần lên tiếng và nhất là thấy cần phải bầy tỏ một thái độ nhập cuộc, phải dấn thân không thể ngồi trong tháp ngà của suy tưởng lý thuyết suông.

Trong số trí thức ấy có hai người là các ông Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung chủ trương tờ Hành Trình vào tháng 10- 1964 và sau này tờ Đất Nước.

Do vị thế trí thức của họ với giới sinh viên, họ thu hút được một số trí thức khuynh tả và giới trẻ đi theo họ.

Danh sách những thành phần trí thức viết cho Hành Trình bao gồm một số linh mục như Đỗ Phùng Khoan, tức linh mục Nguyễn Huy Lịch, Võ Hồng Ngự, tức nhà thơ Diễm Châu, Trần Trọng Phủ, tức nhà văn Thế Nguyên.( Thế Nguyên là một người đi theo cộng sản và sau này làm chủ bút tờ Trình Bày). Trương Cẩm Xuyên, tức linh mục Trương Đình Hòe, Hương Khuê, tức linh mục Trương Bá Cần, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, giáo sư Trần Văn Toàn, các nhà Văn như  Thảo Trường, Thái Lãng,  Nguyễn Vũ Văn, Lê Tất Hữu, Thế Uyên, Trịnh Viết Đức, chủ nhà in Nam Sơn- người tài trợ cho việc in ấn.         

Trong lời nói đầu ghi:

- Không thể tìm ra một lối thoát thực sự nếu không dám đụng đến những nguyên nhân sâu xa là nguồn gốc  tình trạng đang rơi vào suy sụp hoàn toàn. Tạp chí Hành Trình ra đời nhằm phê phán đến tận cùng những nguyên n nhân sâu xa đó, để góp phần tìm ra một lối thoát thực sự và hiệu nghiệm ».[10]

Hành Trình, số 1, tháng 10-1964

Tờ báo mặc dầu chỉ ra được hơn mười số, đã có  một tiếng vang cả trong lẫn ngoài nước cũng như dư luận Hoa Kỳ và Ngoài Bắc.

David  Marr, vừa tốt nghiệp đại học sang VN  đã cho dịch những bài báo của Nguyễn Văn Trung và cho đăng trên các báo Mỹ và các cơ quan truyền thông của công giáo Mỹ như các bài: (War, Peace, and Revolution) Hoặc bài Our problems: Ourselves.

Trong số những bài viết phản biện có các bài từ Miền Bắc lên tiếng sớm nhất như bài : Từ Chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại đến Hành Trình, của Phong Hiền, tháng 4 năm 1965 và bài của Tam Thanh, đọc Nhận Định 4 của Nguyễn Văn Trung.

Phía VNCH  có bài nhan đề: Phê bình quan điểm Cách mạng xã hội của hai ông Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh trung, Nguyễn Văn Bảy, Sài Gòn 10-1967. Và bài : Nghĩ về một số trí thức ảo tưởng..  Ánh Việt, đăng trên Chính Luận, 10-1971.

Đặc biệt cho đến sau 1975, còn có những loại trí thức nằm vùng lôi câu truyện 10 năm về trước viết bài nhằm tâng công với cộng sản, Nguyễn Trọng Văn viết bài tham luận nhằm, phê phán Nguyễn Văn Trung nhan đề: Chủ nghĩa xã hội không cộng, tại miền Nam Việt Nam, thời Mỹ- Ngụy- Nội Dung và ảnh hường.

Phần Lữ Phương viết bài : Mấy ý kiến về các xu hướng gọi là Cách Mạng xã hội không cộng sản ở miền Nam trước 1975..[11]

Hồ sơ về tạp chí Hành Trình, Sài Gòn 1964-1965, Nguyễn Văn Trung

Tờ báo sau đó đóng cửa không một lời giải thích.

Tờ Đất Nước

Hành Trình đóng cửa, Đất Nước thay thế. Ban biên tập với Chủ nhiệm là nguyễn Văn Trung,  Chủn trương biên tập : Lý Chánh Trung, Tổng Thư ký tòa soạn lả Thế Nguyên..

Trước hết, tờ báo có sự cộng tác chính yếu của nhà thơ Nguyên Sa- một Nguyên Sa dấn thân, nhập cuộc không làm thơ tình nữa như trong bài thơ : Tắm hay Sân Bắn.. của ông.

Bên cạnh Nguyên Sa có nhiều cây bút khác như Du Tử Lê, Đinh Phụng Tiến, Hồ Minh Dũng, Lê Văn Ngăn, La Nuyễn, Bùi Khải Nguyên, Nguyễn Quốc Thái, Lê Khoa, Nguyễn Tất Nhiên, Luân Hoán, Thế Phong. Nguyễn Tường Giang, Tần Hoài Dạ Vũ, Lưu Kiển Xuân..Phong Sơn, Thái Lãng

Nhưng sự có mặt của Thế Nguyên trong vai trò Tổng Thư ký tòa soạn- một người theo cộng sản- nên đã có kéo theo nhiều nhà thơ nhà văn thân cộng viết cho tờ báo như các ông: Ngụy Ngữ, Lưu Nghi, Thái Ngọc San, Tôn Thấp Lập, Phạm Thế Mỹ, Ngô Kha, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Trần Hữu Lục.

Chắc chắn ông Nguyễn văn Trung và Lý Chánh Trung hoàn toàn không nắm được vấn đề này.. Họ- nhất là Nguyễn Văn Trung- mất chủ động-, mặc cho Thế Nguyên thao túng về bài vở, tác giả cộng tác, quản lý tiền bạc, nhà in phát hành.

Thế cho nên mang tiếng là báo của trí thức thiên tả, nhưng thực sự chủ động là cộng sản giật giây.

Miền Nam mất cái đà làm chủ tình hình báo chí, văn học, văn nghệ dần dần như thế.

Hãy trích lại giọng điệu trong thơ của Phạm Thế Mỹ sặc mùi tuyên truyền, chống Mỹ, chống chiến tranh như bài:

Những ngày sắp tới

Thưa thầy, họ đã dạy con:

Không có bom đạn Mỹ

Việt Nam mất nước từ khuya

Không có viện trợ Hoa Kỳ

Việt Nam sức mấy..

Đất nước linh thiêng ơi,

Sao họ không chỉ dạy chúng làm toán đại số

Dạy chúng ấm no

Có hơn không?

Giữa Hành Trình và Đất Nước, cộng sản như thể đang ở ngoài nhà, nay đã vào đến trong nhà, vào buồng ngủ..của tờ báo.

Nó lộ liễu và công khai quá..Nó không cần đeo mặt nạ. Tôi ngạc nhiên  khi nhìn thấy tên tuổi những Nguyên Sa, Luân Hoán, Du Tử Lê, Nguyễn Tử Quý, Thảo Trường bên cạnh Ngô Kha, Ngụy Ngữ.

Với cung cách lộn sòng như thế này- không phân biệt tà-ngụy.. cùng đứng chung, xếp hàng.

Miền Nam đang trải qua một mùa gió chướng và những cơn thử thách cuối cùng của một dòng lũ triều cường có thể cuốn trôi và phá sạch tất cả..

Tờ Trình Bầy

Tờ Trình Bày xuất hiện vào tháng 08-1970, cũng lại do Thế Nguyên làm chủ bút và chủ nhiệm.(Thế Nguyên sau 1975 không được trọng dụng, chết lãng xẹt, rất sớm vì bị  nhiễm trùng sài uốn ván). Ở giai đoạn chót của miền Nam, Trình Bày ngang nhiên xuất hiện, in ấn đàng hoàng,  bất chấp kiểm duyệt, bất chấp tịch thu báo..Ai tài trợ cho tờ báo? Có thể một phần do nhà in Nam Sơn tài trợ. Nhưng phần còn lại là ai? Còn ai vào đây nữa?

Lần này nó lại được tăng cường thêm những cây viết của người quốc gia chân chính, chính hiệu như Phạm Cao Dương, Trần Tuấn Nhậm, Trùng Dương, Nguyễn Đa, Nguyễn Đồng, Chu Vương Miện,  Hoàng Ngọc Nguyên, Trần Hoài Thư, Trần Đỗ Dũng, Thanh Lãng, Nguyễn Đăng Thường,  Lê Văn Thiện, Trần Huiền Ân, Đoàn Luân, Thuận Giao.

Và làm sao thiếu được Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung. – Những người đứng làm bảng hiệu chính danh và hợp pháp-.

Nhất là nay có thêm sự có mặt của Nguyễn Nguyên-  tay trùm cộng sản- núp bóng trong tờ Tin Văn với Vũ Hạnh, Lữ Phương.

Nào ta đếm thử coi, còn thiếu ai nữa, những nhà văn, nhà thơ của miền Nam xem  ai là người vắng mặt?

Ở trong tình trạng này, thật khó xếp hạng, thật khó biết ai là người quốc gia, ai là người bị cộng sản lợi dụng và ai là người cộng sản thứ thiệt?

Nếu cần tố cáo thì tố cáo ai nhỉ? Ai là người anh em của ta, ai là kẻ thù? Và hôm nay, nhiều người còn sống sờ sờ trong các cơ quan truyền thông, trong các tờ báo ở Mỹ, ở mọi nơi?

Trong số đầu, thơ Nguyên Sa cặp với Ngô Kha. Nguyễn Khắc Ngữ sánh đôi Nguyễn Quốc Thái, rồi lại Nguyên Sa với Ngụy Ngữ. Bài viết của Phạm Cao Dương đi kèm với bài của Trần Tuấn Nhậm.

Ngay trong lời mở đầu với nhan đề: Con đường đi tới..  Người đọc hiểu thế nào cũng được với thứ ngôn ngữ tuyên truyền bi thảm hóa cuộc chiến như sau:

Một phần tư  thế kỷ đã trôi qua trên cuộc cách mạng mùa thu..Tuy vậy, những hy sinh ròng rã suốt 25 năm trời ấy dường như chưa đủ để cho một dân tộc yêu chuộng hoà bình như dân tộc Việt Nam có thể buông súng xuống vui hưởng tự do.

Bây giờ vẫn còn những cụ già tóc bạc bị trói tay, bịt miệng, những em bé bất lực quằn quại trên vũng máu, những thanh niên bị đánh đập dã man, những thiếu nữ bị hãm hại.

Bây giờ vẫn còn những cảnh tra hỏi, bắt bớ ở mỗi nẻo đường, những tiếng hét rùng rợn của những nạn nhân trong những phòng tra tấn,: cả một miền đất nước biến thành một cái chuồng thú vĩ đại. Máu hòa nước mắt. Roi da và thép gai, thép gai trùng trùng, điệp điệp…

Con đường đi tới là con đường giải phóng: giải phóng đất nước và giải phóng con người Việt Nam toàn diện[12]

Những người quốc gia ở đâu, những chiến sĩ VNCH ở đâu để cho tờ báo thóa mạ VNCH..Những tác giả cộng tác với Trình Bày nay còn sống ở Hải ngoại nay họ nghĩ gì?

Tôi viết phần bài này nhân sắp đến dịp 50 năm năm kỷ niệm 50 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa..

Sau 1963, Hồ Chí Minh nói với nhà báo thân cộng Wilfrid Burchett:

Tôi không thể ngờ tụi Mỹ nó ngu như thế.

Nguyễn Hữu Thọ của MTGPMN phát biểu:

Sự lật đổ Diệm là một món quà Trời ban cho chúng ta..

Trách ai và trách cái gì bây giờ?

© Đàn Chim Việt


[1]

[2]

[3]

[4]

[5]

[6]

[7]  Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến,m trang 245 trở đi

[8]

[9]

[12] Trình Bày, Tập I, tháng tám 1970, tranmg đầu

Tags:

107 Phản hồi cho “Diện mạo văn hóa, văn học miền Nam trong những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn hóa-văn học [kết]”

  1. nhạc của tôi says:

    Ngay trong lòng địch, thậm trí ngay trong lòng sài gòn, hang ổ nô dịch phủ bóng đen của chủ nghĩa ngoại bang độc ác. Văn học cách mạng vẫn ra hoa kết trái. Mời các bác sống lại thời hào hùng DẬY MÀ ĐI của đồng bào Sài gòn BẤT CHẤP GIÀY ĐINH VÀ LƯỠI LÊ CỦA NGỤY QUYỀN NHÉ
    Dậy Mà Đi
    Dậy mà đi, dậy mà đi
    Ai chiến thắng không hề chiến bại
    Ai nên khôn không khốn một lần
    Dậy mà đi, dậy mà đi
    Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi

    Đừng tiếc nữa cần chi khóc mãi
    Dậy mà đi sông núi đang chờ
    Dậy mà đi, dậy mà đi
    Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi

    Bao nhiêu năm qua dân ta sống không nhà
    Bao nhiêu năm qua dân ta chết xa nhà
    Dậy mà đi, dậy mà đi
    Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi
    VÀ ĐÂY LÀ LỜI KÊU GỌI ĐẤU TRANH CỦA NHỮNG NGƯỜI CÁCH MẠNG

    Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
    Phèng la kêu, trống giục vang đồng
    Đường quê đỏ rực cờ hồng
    Giáo lê sáng đất, tầm vông nhọn trời
    Quyết một trận, quét đời nô lệ
    Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!

    Hỡi ôi! Việc chửa thành công
    Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
    Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
    Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
    Một vùng trắng bãi tha ma
    Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa
    Có ai biết, ai ngờ trong đó
    Còn chơ vơ một ổ lều con
    Đạn bom qua, hãy sống còn
    Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
    Có ai biết trong tro còn lửa
    Một má già lần lữa không đi
    Ở đây sóng gió bất kỳ
    Má ơi, má ở làm chi một mình ?
    Rừng một dải U Minh tối sớm
    Má lom khom đi lượm củi khô
    Ngày đêm củi chất bên lò
    Ai hay má cất củi khô làm gì?
    Hay má lẫn quên vì tuổi tác
    Hay má liều một thác cho yên ?

    Bỗng đâu một buổi mai lên
    Trên đường quê ấy qua miền nghĩa quân
    Một tán quỷ rần rần rộ rộ
    Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
    Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
    Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
    Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
    Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
    Đồng không, lạnh vắng, im hơi
    Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
    Ách là! Thằng quan ba dừng bước
    Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
    Xa xa, sau lớp nhà xiêu
    Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên…

    Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
    Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
    Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
    Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
    Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
    Tiến dần lên tia khói, vây quanh…

    Má già trong túp lều tranh
    Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
    Một mình má, một nồi to
    Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười…

    Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt ?
    Má già run, trán toát mồ hôi
    Chạy đâu ? Thôi chết, chết rồi!
    Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
    Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
    Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
    Rung rinh bậc cửa tre gầy
    Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!

    Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt
    Như hổ mang chợt bắt được mồi
    Trừng trừng trông ngược trông xuôi
    Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
    Hắn rống hét: “Con bò cái chết!
    Một mình mày ăn hết này sao ?
    Đừng hòng che được mắt tao
    Khai mau, du kích ra vào nơi đâu ?
    Khai mau, tao chém mất đầu!”
    Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
    Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
    Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
    Má già nhắm mắt, rưng rưng
    “Các con ơi! ở trong rừng U Minh
    Má có chết, một mình má chết
    Cho các con trừ hết quân Tây!”
    Thằng kia bỗng giậm gót giày
    Đạp lên đầu má: “Mẹ mày, nói không?”
    Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
    “Các con ơi! Má quyết không khai nào!”
    Sức đâu như ngọn sóng trào
    Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
    Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó!
    Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
    Tao già không sức cầm dao
    Giết bay, có các con tao trăm vùng!
    Con tao, gan dạ anh hùng
    Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!
    Thân tao chết, dạ chẳng sờn!”
    Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
    Một dòng máu đỏ lên trời
    Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
    Nước non muôn quý ngàn yêu
    Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.

    • Tuấn Đảng Viên says:

      Chỉ toàn là sao chép , không tự sức mà còn bị “đập” cho te tua. Thiệt là hết nói nổi mấy ông.

    • Hồ Thẩm Du says:

      Đánh thằng Tây xong, rồi rước thằng Tầu còn nguy hiểm gấp 
      trăm ngàn lần thằng Tây, nó từ từ gặm nhấm, từ năm này qua
      năm khác, từ đất đai đến sông biển.. Miệng thì câm như hến.

    • Sigma says:

      Này con giai , miệng còn hôi sữa !!!
      biết thì thưa thốt không biềt thì dựa cột…

      Hát cho đồng bào tôi
      Dậy mà đi
      Tự nguyện( Nếu là trim… )
      ….
      Hoc sinh ,sinh vien miền nam VN thiếu mệ gì tha hồ lưu trữ hay ca hát gì thì cứ việc…. “Ngụy Quyền” có cấm hồi nào đâu?? , cứ tưởng Saigon như Hanoi..

      “BẤT CHẤP GIÀY ĐINH VÀ LƯỠI LÊ CỦA NGỤY QUYỀN ”
      Mẹ kinh vải…ra ,toàn bố lá….
      (đúng là rân xứ lừa rồi,đã ngu mà còn tỏ ra nguy hiểm)
      Hết rồi không còn lừa đảo được nũa đâu.

    • Sigma says:

      Tuổi thơ “cháu ngoan” chỉ học
      Đánh “Ngụy”, đánh Mỹ, đánh Tây.
      Lớn lên đâu còn gì đánh,
      Cháu ngoan chỉ biết … đánh giày!

      Nước ta giờ là của Đảng,
      Tự Do, dân chết mặc bay,
      Độc Lập, quan ngồi tham nhũng,
      Hạnh Phúc, trẻ lết ăn mày!

      Hoàng Sa thì không còn nữa,
      Nam Quan, Bản giốc đã bay,
      Cao nguyên của Tàu Bô-Xít,
      Cháu ngoan chỉ có gốc cây!

      Mỹ, Tây bây giờ là bạn,
      Còn Tàu là bố, là thầy,
      Nhân dân, có đảng ta trị,
      Chúng cháu xin nhận …đánh giày!
      Theo: Du Hồ

    • TỈNH TÌNH TINH says:

      Đả đảo bè lũ Việt cộng bán nước
      Đả đảo tên đại Việt gian Hồ chí Minh
      Đả đảo bè lũ tay sai Trung quốc Nguyễn phú Trọng
      Đả đảo bè lũ hung thần Nguyễn phú Trọng
      Đả đảo bè lũ tham ô Nguyễn phú Trọng

      Thơ Cộng nô

      Chó đâu điếc óc đinh tai
      Thì ra lũ chó tay sai Tàu phù
      Con thì sủa, con thì tru
      Làm thơ con cóc tối hù trong hang
      Tung hê bác đảng vin quang
      Mac lê vô địt thiên đàng đười ươi
      Thế gian thêm một trò cười
      Thơ văn thổ phỉ, lũ người Cộng nô

      (Trích )

    • quandannambo says:

      sài gòn hà nội kêu trời
      mùa mưa nước cống đen thùi như sông
      hồ ơi
      hồ có biết không
      bốn phương vô sản chổng mông chửi hồ *

    • Tien Ngu says:

      Thấy thương quá.

      Anh cò này coi bộ bị tâm thần hơi nặng…

      Thời buổi này mà nó còn hát tự sướng tỉnh rụi.

  2. Nguyễn Trọng Dân says:

    @ thơ vẹm Nam, thơ vẹm Bắc , thơ vẹm bách hóa tổng hợp, thơ tối thui…

    “Mấy em dốt nát ngu càn
    Mượn văn người khác làm tàng được sao !”

    Cúp Điện

    Đất nước trời ơi cúp điện hoài
    Cúp chiều cúp sáng , cúp lai rai
    Cúp từ Quá Độ sang Đổi Mới
    Cúp khi nước lớn lẫn hạn dài
    Đảng càng sáng suốt đời càng tối
    Điện thì không thấy giá tăng hoài
    Đầu tư muôn tỷ sao điện cúp
    Đảng còn không biết , biết hỏi ai?

  3. Nguyễn Trọng Dân says:

    @thơ vẹm Nam , thơ vẹm Bắc, thơ vẹm bách hóa tổng hợp
    thơ tối thui…

    Mấy em đầu óc dốt càn
    Mượn thơ người khác làm tàng được sao?

    Bài 5

    Tôi đã thấy

    Trên những còn đường nhựa rộng
    Nhiều cụ già cuối mặt ăn xin
    Ơi Tổ quốc sao cứ mãi làm thinh,
    Trước cảnh nghèo độc tài Đảng trị !

    Tôi đã thấy
    Những án tù vô cùng phi lý
    Cho những con người cố giúp nhân dân
    Cho những tấm lòng san sẽ cùng bần
    Bởi vì Đảng chỉ toàn sâu rận

    Tôi đã thấy
    Những tham ô tiền tài bất tận
    Để nước nhà công quỹ ngập nợ nần
    Để an sinh bê bết thiếu quỹ ngân
    Sao Tổ Quốc lắm thằng khốn nạn !

    Tôi đã thấy
    Những dòng sông cạn
    Đã bấy lâu quằn quại với cảnh nghèo
    Dân trí thấp nên non nước eo sèo
    Hởi môi trường ngày càng suy xụp

    Tôi đã thấy
    Những mái lều lụp xụp
    Của dân Oan khiếu kiện mất nhà
    Ôi đất nước , trù phú bao la
    Sao dân tộc điêu linh khốn khổ !

    Tôi đã thấy
    Những con tàu mong manh nho nhỏ
    Vượt Biển Đông bắn bể trôi lềnh bềnh
    Tính từ ngày Quá Độ vang rền
    Bao nhiêu triệu hồn oan không co’ giổ ?

    Tôi đã thấy
    Những mãnh đời khốn khổ
    Bán thân mình làm đĩ khắp Á Châu
    Hởi Cộng sản các ngươi có điếc đâu?
    Mà không thấy lòng dân đang khốn nhục !

    Tôi đã thấy
    Những con tàu bị húc
    Bởi Biển Đông đã thuộc Hán trào
    Bởi Cộng sản cùng chung ngọn cờ đào
    Tình dân tộc bán trao danh phận

    Tôi đã thấy
    Những giáo già bạc phận
    Dạy học trò nối dối đã bấy lâu
    Dạy chính mình hèn hạ để sống lâu
    Nên quạnh quẽ buồn câu lễ nghĩa

    Tôi đã thấy
    Đảng còn nguyên lòng bất nghĩa
    Nắm trọn quyền cướp bóc cứ tự nhiên
    Ôi Đất Nước chịu mãi cảnh gông xiềng
    Đến bao giờ lòng người thức tỉnh?

  4. Nguyễn Trọng Dân says:

    @ Thơ vẹm Nam, thơ vẹm Bắc , thơ vẹm Bách hóa Tổng hợp , Thơ tối thui,….

    “Mấy em dốt nát ngu càn
    Mượn văn người khác làm tàng được sao !”

    Bài 4

    Chị em

    Chị em đăng ký lấy chồng
    Có người Hàn Quốc bằng lòng giá đưa
    Năm trăm đô cũng đủ vừa
    Tới lui dịch vụ Đảng đưa giấy tờ

    Mẹ em nói có chứng tờ
    Hai ngàn đô rưởi chọn giờ ra đi
    Phấn son chút chút thôi thì
    Năm hai mươi tuổi chị đi lấy chồng

    Nghĩa gia đình, nợ non sông
    Mình nghèo thì phải đành lòng xa quê
    Bây giờ đói kém mọi nghề
    Chị đi để giúp nhà quê đở nghèo

    Chị ơi xa xứ chèo queo
    Em mong chị cố chống chèo giỏi giang
    Bây giờ Hàn Quốc huy hoàng
    Chị đi cuộc sống đàn hoàng biết bao

    Ở nhà em cũng tự hào
    Ba buồn nhớ chị lệ trào mổi đêm

    Lâu lâu thơ gởi bên thềm
    Chút tiền chị gởi nổi niềm cách xa
    Bà con cô bác làng ta
    Vẫn cầu cho chị vinh hoa xứ người

    Bây giờ lạm phát gấp mười
    Nhờ tiền của chị mấy người ấm no !

    Đâu ngờ sự thật quá to
    Cắn răng chịu đựng chị lo cho nhà

    Thì ra cái xứ người ta
    Miệng vôi khốn nạn khéo là dối gian
    Chúng mua chi _ một món hàng
    Để rồi trao đổi động vàng động khuya

    Tiền nong nhịn đói gởi về
    Tấm thân tàn tạ nảo nề chị tôi
    Bây giờ sự thật đã rồi
    Bấy lâu khốn khổ chị tôi qua đời

    Bây giờ tin tức nơi nơi
    Hổ nhà xấu nước kêu trời chị ơi

    Nước mình Cách Mạng tơi bời
    Mà sao nghèo đói gấp mười người ta !
    Chị ơi hình chị trong nhà
    Lạnh tanh nhan khói buồn xa buồn gần

    Cha già trong cảnh nợ nần
    Nhìn con cha khóc yếu dần tháng năm
    Bà con lối xóm khóc thầm
    Nguyên làng cùng cảnh dâu tằm xứ xa …

    Nói ra thì quá xót xa
    Nhưng mà nghèo quá biết là sao đây ?

    Bấy lâu Đảng hứa dựng xây
    Dựng xây Đảng hứa còn đây cảnh nghèo .

  5. Huong Nguyen says:

    Ông Nguyễn văn Lực đề cập đến 1 tình trạng tranh tối tranh sáng, quốc gia – cộng sản lẫn lộn ngũ chung, lý tưởng quáng gà…. của 40 năm về trước tại miền Nam… Nhưng thử hỏi nếu chúng ta đối chiếu hiện tượng đó với hoàn cảnh cộng đồng người Việt hải ngoại như tại Mỹ hiện nay thì hiện tượng này vẫn tồn tại, ngay cả với những người đã bỏ cả mạng sống của họ và gia đình họ để trốn chạy cộng sản.

    Những năm đầu tiên đến Mỹ thỉnh thoảng tôi vẫn giật mình thức giấc tưởng mình còn ở Việt-Nam hay có khi nằm mơ thấy mình sao ngu quá, đã trốn chạy chúng nó được rồi mà còn trở về làm gì để không đi lại được nữa… thật đáng kiếp!

    Trong khi ngay cả con cháu của những người lảnh đạo CS gộc tìm đủ mọi cách để thoát ra nước ngoài thì những con cá Hồi tị nạn CS vẫn lội ngược dòng để trở về với quê hương, từ thiện. Bài học lịch sữ vẫn còn mới như thế nhưng người Việt thì như bị bệnh si khờ của người già. Thậm chí từ thiện có khi lại trở thành 1 “cái mode” của nhà giàu. Đối với những người tị nạn CS ngày trước không hiểu họ có còn muốn tiếp tục tị nạn nữa hay không? Nếu không thì tôi nghĩ tại sao chính phủ Mỹ không cấp cho họ 1 vé máy bay, ngay cả hạng First Class, One Way ticket để họ trở về Việt-Nam như là 1 nghĩa cử đẹp cuối cùng bởi vì với người Mỹ họ không còn tư cách tị nạn nữa. Về phưong diện kinh tế, chính pủ Mỹ còn tiết kiệm hàng trăm tỉ dollads để trợ cấp an sinh xã hội và bệnh tật cho những người như thế này lúc về già…

  6. Nguyễn Trọng Dân says:

    @thơ vẹm Nam , thơ vẹm Bắc, thơ vẹm bách hóa tổng hợp
    thơ tối thui…

    Mấy em đầu óc dốt càn
    Mượn thơ người khác làm tàn được sao?

    Bài 3

    Em là công nhân

    Làm mướn bao năm hãng nước ngoài
    Mười hai tiếng đủ chẳng dám sai
    Lương bèo lạm phát đành chịu đói
    Phận hèn chủ đánh chẳng kêu nài
    Lắm bận đình công lòng hy vọng
    Nào ngờ Đảng cấm biết kêu ai
    Người ta liên đới quyền uy lớn
    Mình mà mất việc sẽ đói dài

  7. Nguyễn Trọng Dân says:

    @ thơ vẹm Nam, thơ vẹm Bắc , thơ vẹm bách hóa tổng hợp, thơ tối thui…

    Mấy em đầu óc dốt càn
    Mượn thơ người khác làm tàn được sao?

    Bài Hai

    Chồng em

    Tàu cá chồng em bị húc hoài
    Đã nghèo gặp nạn phải trắng tay
    Trẻ khờ đói quá đành bỏ xứ
    Nợ nần chồng chất chuyện trả vay
    Nước nhà Cách Mạng danh lừng lẩy
    Mà sao biển đảo mất không hay?
    Yêu làng yêu biển chồng em cố
    Nhận lấy hiểm nguy đói đọa đày

  8. Nguyễn Trọng Dân says:

    @ Thơ vẹm Nam, thơ vẹm Bắc , thơ vẹm Bách hóa Tổng hợp , Thơ tối thui,….

    “Mấy em dốt nát ngu càn
    Mượn văn người khác làm tàn được sao !”

    Bài một

    CHỒNG EM

    Chồng em cuốc mướn cho người
    Nhà em cả thảy bốn người miệng ăn
    Đói no trên mãnh đất cằn
    Có khi phải đói nhịn ăn cho chồng

    Bây giờ cái cảnh làm đồng
    Bà con cũng khổ nên chồng em lo
    Có lo thì cũng là lo
    Mình dân tay trắng không bò không trâu

    Đảng viên thì lại quá giàu
    Chồng em bèn tính làm trâu cho người
    Như là mãnh ruộng Ông Mười
    Cần người Giải Tỏa đuổi người khỏi thôn

    Chồng em lòng dạ bồn chồn
    Miếng ăn miếng mặc đói cồn biết sao ?

    Nhưng mà ăn ở trước sau
    Ông Mười giúp đở ai nào lại quên

    Chồng em cuối mặt ơn đền
    Nghĩa tình chồng vợ làm quen nết hèn

    Tháng qua năm tháng bon chen
    Bây giờ chồng vợ chịu hèn để no..
    Xóm làng ghét bỏ nhỏ to
    Chồng em lệ đẫm buồn xo ngó đò

    Chiều chiều không thấy con cò
    Xóm làng thù ghét cái cò rồi sao?

  9. nvtncs says:

    Gửi anh “Dân Quèn”

    Tôi thông cảm với anh trong nhiều điều anh nêu lên, nhưng cũng cần phải nói thêm là anh hơi thiếu công bình trong nhận xét của anh. Đồng ý với anh rằng trong chiến tranh chỉ dân đen là chịu đựng những phần đau khổ nhất.
    Tuy nhiên, có những trí thức ko theo cộng mà cũng ko hợp tác trực tiếp với Mỹ.
    Sau thời đệ nhất CH thì những người trí thức như GS Thúc, Đệ, Hách, Chân, Bông, vv… không làm việc trong guồng máy chính phủ nữa mà chỉ lo dậy học. Quyền hành không ở trong tay họ.
    Cái giới có tội với người dân đen miền Nam là lũ quân phiệt, ngày xưa đi lính cho Tây, làm loạn, rồi bất tài, vây bè cánh, phe đảng, tham nhũng, thiển cận, lủng củng tranh quyền, mà đầu sỏ của chúng nó là Minh, Thiệu.
    Thua là phải, là đúng lý lắm.
    Nam Hàn, chỉ ba năm là Mỹ giữ vững, mà Nam VN, Mỹ bỏ ra 20 năm. không biết bao nhiêu tiền của, xương máu, mà ko gữu được, đủ cho ta thấy chính người miền Nam chúng ta có quá nhiều vấn đề.

  10. tien võ says:

    Tien đã nói

    Tôi kể bạn nghe, vào một ngày năm 1972- chính xác là ngày 25 tháng 3 năm 1972, khi rất đông bà con xã viên hợp tác xã đang ở dưới một cái ao lớn để bắt cá thỉ máy bay Mỹ lao đến. Sau một tiếng bom rến vang thì người ta thấy trên mặt ao xác người nhiều hơn xác cá. Cái ngày đó bây giờ là ngày giỗ chung của cả một làng thuộc xã Khánh Tiên huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình. Cái ao căm hờn đó sau ngày giải phóng Miền nam, đã trải qua nhiều năm mà không ai giám rửa chân hay ném vật dơ xuống đó. Rồi cũng buổi trưa hôm đó khi tan học, chị tôi đang về nhà thì máy bay Mỹ nhào đến. Bạn bè chị tôi chạy vội vào một cái cống nước gần đó và trong số đó có cả cô giáo của chị tôi. Thấy đông người quá chị tôi không vào đó nữa và chỉ vài phút sau đó cống nước tan tành vì bom. Mương nước thì đỏ ngầu máu tươi.
    Năm ấy tôi 16 tuổi.
    Năm 1978 gia đình tôi theo lời kêu gọi của chính phủ đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Tứ giác Long Xuyên. sau vài năm tôi liên lạc được với anh em bà con trên Sài gòn. Về họ hàng tôi gọi ông bằng Ông. Ông di cư vào Nam sau năm 1954. Gặp nhau tay bắt mặt mừng. Ông tôi vui quá, vì bố tôi là trưởng họ. Ông tổ chức đại tiệc mời thân hữu rất đông. trong bữa tiệc, tôi có kể rằng. ngoài Bắc người ta hay lấy tên Ford, Nixon, Thiệu, Giôn (giôn sơn) để đặt tên cho chó. Nghe vậy mọi người phản ứng gay gắt mà chê người Bắc mất lịch sự. Tôi bèn kể lại hai câu chuyện tang thương trên và hỏi trong bối cảnh ấy các bác các chú sẽ làm gì? Tất cả im lặng. Bữa tiệc chín phần bị hỏng.
    Chiến tranh khắc nghiệt rồi cũng qua. Tôi có vợ và các con tôi cũng đã trưởng thành.Đứa là bác sĩ, đứa là kỹ sư. Tôi vẫn kể cho các cháu nghe câu chuyện bom đạn trên nhưng chủ yếu là cho các cháu biết được cái giá trị của cuộc sống bình yên hôm nay để rang mà gữ gìn lấy nó.
    Một nền kinh tế không có lạm phát là nền kinh tế sắp suy thoái. Một môi trường trong lành tuyệt đối o% bụi bặm thì cũng không có tốt hẳn cho phổi. Một xã hội thì phải có tội phạm có giàu có nghèo. Ở Mỹ vẫn có người chết đói, chết rét trên đường phố. Ở mỹ vẫn có các quan chức chính phủ hối lộ – bán ngế nghị viên. ở Mỹ vẫn có các quan chức CIA hiếp dâm dân thường. và tổng thống Ô Ba Ma vẫn bị nghe lén điện thoại. cuộc sống mà. Chân lý là lòng từ bi hỷ xả. Chân lý là thiện ý chứ không phải ngững ngôn từ kich động hận thù. Tất cả những ai mong BẠO LOẠN. ĐỂ XẢY RA CẢNH HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN, NỒI DA NẤU THỊT thì đêu là phi nghĩa. Người dân chúng tôi không nghe theo đâu.

    Trả lời

    • Austin Pham says:

      Nghe ông kể mà bà nhà tôi rớt cả…nước mắm. Đúng, mọi người trong bửa tiệc ấy nên im lặng, im lặng trong nỗi xót xa cho người thân của mình may mắn còn sống mà vẫn…dốt vì bị nhốt rong cái hộp. Trong cuộc chiến thì bom đạn không có mắt nhưng những thằng vô loại GÂY CHIẾN đều đủ…hai con. Nếu tôi là ông thì nhẽ ra lý trí đã buộc tôi phải xác định rõ tôi phải căm thù ai và đặt câu hỏi cho bọn chúng rằng chiến tranh đó được tạo ra cho mục đích gì. Nó đã mang lại gì cho ông, cho những người dân miền bắc lúc đó và cho người miền nam sau này.
      Chúc mừng ông đã có các cháu trở thành bác sĩ và kỷ sư. Thế chúng nó…học lớp mấy hở To NewYork?
      Úi giời, sao lại cứ đưa mặt cho người ta đập thế này. Té ra dân bắc như ông kém xa dân Nhật và Đức cũng phải. Nhờ “Bác” cả đấy!

    • noileo says:

      Trích: “Tôi kể bạn nghe, vào một ngày năm 1972- chính xác là ngày 25 tháng 3 năm 1972, khi rất đông bà con xã viên hợp tác xã đang ở dưới một cái ao lớn để bắt cá thỉ máy bay Mỹ lao đến.”

      Nếu đó là câu chuyện có thật, nếu chưa ngu lắm, hãy biết lên án bọn cộng sản VNDCCH, bọn cộng sản Võ Nguyên Giáp & Lê Duẩn tàn ác đã mang súng phòng không, giàn phóng hỏa tiễn SAM đến đặt gần bên cái ao nuôi cá của hợp tác xã, hãy hiểu rằng đó mới là những tên sát nhân, thủ phạm gây nên những cái chết nói trên,

      TRích: “Tất cả những ai mong BẠO LOẠN. ĐỂ XẢY RA CẢNH HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN, NỒI DA NẤU THỊT thì đêu là phi nghĩa.” (tien, Tien Vo)

      Đúng vậy, bọn cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cộng sản Hồ chí Minh, cộng sản Võ Nguyên Giáp, cộng sản Lê Duẩn là bọn phi nghĩa.

      Bọn cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh & Võ Nguyên Giáp những tên tội đồ phản quốc, can tội đón giặc tàu vào Việt nam, làm bung xung cho giặc tàu bành trướng chủ thuyết Mác lê tội ác vào VN, cắt xẻ đất nước VN dâng cho giặc tàu, gây cuộc chiến tranh Hồ chí Minh tội ác, cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, cuộc chiến tranh 20 năm người Việt ta giết người Việt mình,

      hàng triệu thanh niên tử tế người Việt miền bắc đã bị bọn cộng sản Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa , bọn cộng sản Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cưỡng bức, luòng gạt, cầm súng đạn tàu cộng, xâm nhập vào VNCH, lùng sục thảm sát hàng triệu người Việt miền nam, cũng tử tế không kém, phục vụ cho quyền lợi cộng sản, phục vụ cho tham vọng quyền lực bệnh hoạn của cộng sản, bành trướng chủ thuyết Mác Lê tội ác vào miền nam, áp đặt chế độ cộng sản VNDCCH độc tài tàn ác đê tiện, vong bản ngoại lai tay sai giặc tàu lên người miền nam, đốt sách của người miền nam, tước đoạt quyền tư hữu của người miền nam, chà đạp lên quyền sông của người miền nam…

      gây nên thảm cảnh ngày nay cho VN, tụt hậu về mọi phương diện, bên bờ vực nội thuộc Tàu cộng, lãnh thổ càng ngày càng bị thu hẹp, bị cộng sản VN theo truyền thống Hồ chí Minh bán nước cứu đảng, cắt xẻ dâng cho Tàu cộng.

    • Trần Tưởng says:

      Hehehe…. Tiên sư bố mấy thằng “giặc nái ” Mỹ . Tốn bao nhiêu công sức để vượt qua
      hàng vạn mạng phòng không lưới lưả ,hàng trăm tên lửa SAM của bộ đội anh hùng ta, mà lại
      quăng bom vào lỗ cống ,vào cái ao cá của hợp tác xã ,thì có đáng đánh đòn không nhỉ . Thật
      là cái bọn láo toét ,ăn hại,đái nát … Xin lỗi, cho tui chửi bọn giặc lái bố láo này vài câu …

      Năm 72 ,16 t . Tức là năm 1978, 22 tuổi , theo lời kêu gọi của chính phủ đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Tứ giác Long Xuyên. Có vợ,rồi có con ,sau này trưởng thành là … bác sỹ,kỹ sư.
      Sư nhà anh , láo cũng vừa vừa,phải phải thôi , còn phải chừa phần cho thiên hạ láo một
      tí chứ . Ở vùng kinh tế mới ,khoảng từ 5 cho ̣đến 10 km ,mới có một cái trường tiểu học; còn
      trường trung học thì có nơi không có ; lấy đâu mà ăn học đến nơi ,đến chốn, ̣để thành tài làm …
      bác sỹ mí kỹ sư … Phẹt đế có căn .

      Còn vụ lấy tên Ford, Nixon, Thiệu, Giôn (giôn sơn) để đặt tên cho chó. Hehehe … cái này,
      tui phải tôn anh Tien Võ lên hàng phẹt sư phụ . Dân miền nam cóc có để ý tới tình hình chánh trị
      của nước Mỹ ,nên chả biết thằng cha Phọt (Ford) , Giôn ̣(giôn sơn)…. là cha căng chú kiết nào.
      Hơn nưã ,chúng tôi,dân miền nam đế có thần thánh hóa mấy đứa này như Tiênvõ khóc cho
      Lenin, Các Mác …, cho nên lấy tên Ford, Nixon, Thiệu, Giôn (giôn sơn) để đặt cho chó ,mèo,
      heo,chuột … cũng đâu có liên quan gì đến chúng tôi, việc gì mà phải … “bức xúc”.

      Lần sau ,nếu có phét , nhớ xài bộ óc …. hehehehe

Phản hồi