Hãy quyết tử để dân tộc quyết sinh
Sau Đệ nhị Thế chiến, Hoa Kỳ yêu cầu các quốc gia đồng minh trong khối tư bản phải chấm dứt chủ nghĩa thực dân. Nên nhớ, chẳng phải vì Hoa Kỳ thương yêu những dân tộc bị trị, nhưng vì có mục đích nhằm vô hiệu hóa chiêu bài giải phóng các dân tộc thuộc địa do Stalin chủ xướng.
Anh Quốc thức thời, biết sự đòi hỏi của Hoa Kỳ là sách lược chính đáng, nên họ huấn luyện những nhà hành chính (administrator) bản xứ để có khả năng quản trị đất nước nhằm chuẩn bị trao trả độc lập cho các thuộc địa; chứ không dùng bạo lực để trấn áp những cuộc nổi dậy đòi tự do. Nhờ đó mà Mahatma Gandhi thành công trong cuộc đấu tranh bất bạo động và được phong Thánh. Tất cả những thuộc địa của Anh không có quốc gia nào bị rơi vào tay cộng sản và đều chấp nhận nằm trong Khối Thịnh vượng chung (Commonwealth) để cùng phát triển kinh tế và dần dần xây dựng dân chủ.
Trái lại, thực dân Pháp vừa kiêu ngạo vừa ngu xuẩn, nhất quyết bám lấy thuộc địa, thi hành chính sách cai trị tàn bạo nên đã tổn hao nhân lực và tài sản, từ chiến trường Đông Dương đến Bắc Phi, để rồi cuối cùng bị đánh bại mà phải cuốn gói ra đi một cách nhục nhã. Giá như thực dân Pháp cũng khôn ngoan như thực dân Anh thì nhà cách mạng Phan Chu Trinh của ta cũng đã được thế giới phong Thánh như Mahatma Gandhi; nước Pháp không bị mất mặt và nhân dân Việt Nam thoát khỏi tai họa cộng sản. Nhân dân Việt Nam không còn cách chọn lựa nào khác, ngoài bạo lực, để giành độc lập.
“Quyết tử để dân tộc quyết sinh” là câu khẩu hiệu trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp. Hầu hết thanh niên ái quốc thời bấy giờ đã bị kích động bởi cái khẩu hiệu ấy mà hăng hái lao thân vào chỗ chết một cách dũng cảm để cho dân tộc sinh tồn và chẳng cần biết chủ nghĩa cộng sản sẽ mang lại cho đất nước hậu quả như thế nào. Nỗi khát khao độc lập quá lớn đến độ trở nên mù quáng, lý trí suy xét không còn. Vì vậy, sau khi Nhật đầu hàng do hai quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki, viên Đại sứ Nhật đề nghị Thủ tướng Trần Trọng Kim để họ giúp tiêu diệt toàn bộ bọn cộng sản Đông Dương, nhưng cụ Kim từ chối và nói rằng đây là chuyện nội bộ Việt Nam, anh em trong nhà có thể giải quyết với nhau!
Hồ Chí Minh – một cán bộ tình báo tay sai cộng sản quốc tế, chỉ phục vụ quyền lợi của Soviet, chứ không phải quyền lợi Việt Nam – đã biết khai thác lòng dân ta bằng chiêu bài quá sức đẹp đẽ: công bằng xã hội, làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu, không còn cảnh người bóc lột người. Do đó, vô số quan chức, lính tráng dù đang phục vụ quân xâm lược cũng thức tỉnh; học sinh, sinh viên dù do Pháp giáo dục cũng hăng hái lên đường tòng chinh; địa chủ, nhà buôn giàu có hăng hái đổ tiền bạc của cải ra để nuôi kháng chiến. Nhờ sự đoàn kết đồng tâm, quyết chí diệt giặc ấy mà đồng bào ta có sức mạnh dời non lấp biển, khiến cho vũ khí của giặc dù tối tân cách mấy cũng không thể nào chống cự lại! Lòng yêu nước đã giúp dân tộc Việt Nam chiến thắng kẻ thù; chứ không phải chủ nghĩa cộng sản vô địch như bộ máy tuyên truyền của chúng rêu rao!
Thế nhưng sự chiến thắng thực dân đã không mang lại cho nhân dân “độc lập, tự do, hạnh phúc” như mong ước, vì những hứa hẹn của cộng sản đều là bịp bợm, dối trá, lưu manh. Tình trạng suy thoái về mọi mặt (đạo đức, giáo dục, văn hóa, y tế, thực phẩm, môi trường) trên đất nước ta hôm nay tồi tệ hơn bất cứ quốc gia nào trên hành tinh. Bọn cầm quyền từ trung ương đến địa phương làng xã ở vùng sâu vùng xa đều là một lũ sâu dân mọt nước tìm đủ mọi phương cách hút máu người dân vô tội. Chúng hà hiếp, đánh đập, bỏ tù bất cứ ai chống lại những hành vi bạo ngược, cướp bóc, tham nhũng của chúng. Ngay cả những ai bày tỏ lòng yêu nước một cách ôn hòa cũng không được chúng buông tha! Nói theo ngôn ngữ thời đại tin học thì bộ nhớ (memory) của một siêu vi tính (supercomputer) cũng không thể chứa hết tội ác của cộng sản đối với nhân dân Việt Nam ta.
Bộ máy cai trị do Hồ Chí Minh và tập đoàn băng đảng đã đẻ ra những quái thai, những phiên bản y hệt nguyên gốc: đạo đức giả, độc ác, lưu manh, gian trá, không có khả năng biết xấu hổ, hèn hạ giống như “Cha Già” của chúng. Nếu ví chúng là loài cầm thú, tức là ta xúc phạm thú vật. Chúng đích thực là một đống dòi lúc nhúc trong đống phân, chỉ biết ăn bẩn.
Độc giả trách người viết phát biểu như vậy là quá đáng, là khiếm nhã ư? Xin thưa, không ạ! Nếu là cầm thú thì con người có thể dạy chúng làm xiếc được, tức là chúng biết nhìn để bắt chước, biết nghe để hiểu. Người viết chưa từng thấy nhà ảo thuật nào có khả năng dùng con dòi làm xiếc! Cho nên từ thời nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường đọc một bài tham luận chính trị về đường lối xây dựng chế độ sau khi chiến dịch “cải cách ruộng đất” quá đỗi man rợ thất bại, khiến Tổng Bí thư Trường Chinh mất chức, cho đến những kiến nghị đầy tâm huyết của những cộng sản lão thành phản tỉnh, những nhà trí thức có viễn kiến, những đơn khiếu nại tha thiết của dân oan mất đất mất nhà chẳng được bọn cầm quyền lắng nghe để sửa chữa, để giải quyết. Ngay cả một trong những cha đẻ ra chúng là Võ Nguyên Giáp van xin chúng ngừng dự án khai thác Boxit ở Tây Nguyên, vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng của Tổ Quốc, mà nào được chúng nghe theo? Nguyễn Tấn Dũng trả lời “Cha Già” của nó bằng mấy chữ khá mất dạy: “Đảng đã quyết định rồi!” Bởi vì Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm văn Đồng ký thỏa ước nhìn nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Tầu Cộng thì cái đám hậu duệ cũng phải làm theo như “Cha Già” của chúng. Giản dị vậy thôi! Có gì là khó hiểu?
Do đó, người viết đề nghị những ai còn lo lắng đến tiền đồ của Tổ Quốc, của Giống Nòi thì xin hãy chấm dứt viết kiến nghị, thư ngỏ cho lũ dòi, dù trịnh trọng, lễ phép, tha thiết đến đâu đều bị chúng ném vào sọt rác. Nếu quý vị còn tiếp tục viết kiến nghị, thư ngỏ như bao năm nay đã làm tức là quý vị tiếp tục diễn cái trò hề giễu dở rất lố bịch. Bọn cầm quyền không có khả năng biết xấu hổ thì người chống lại chúng phải có lòng tự trọng tối thiểu. Đừng lấy sự lên tiếng vô vọng đó làm tự mãn để ru ngủ lương tâm là mình đã đóng góp cho tương lai xứ sở.
Nước mất vào tay Thực dân Pháp, vua quan triều đình nhà Nguyễn dám nổi lên chống. Vua như Hàm Nghi, Duy Tân. Quan như Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết. Nay nước đang mất dần vào tay Tầu Cộng, vua quan trong triều đình Đỏ ra sức tiêu diệt từ trong trứng nước bất cứ ai dám hé răng bày tỏ lòng yêu nước. Những thanh niên nam nữ can trường, bất khuất đều bị bỏ tù, tra tấn để chỉ còn lại một tầng lớp trẻ sa đọa, ăn chơi, vô cảm thì còn gì là rường cột nước nhà? Có thời nào trong lịch sử nước ta lại có một đám cầm quyền khốn kiếp như thế không?
Cái đọa này do ai gây ra? Chắc chắn phải là trách nhiệm của những quý vị mệnh danh “lão thành cách mạng” đã ra sức xây dựng cỗ máy cai trị tàn bạo và những trí thức chữ nghĩa đầy mình đã nhắm mắt chạy theo chủ nghĩa chuyên chính vô sản. Người ta bảo nhân dân nào, chính quyền nấy là tội nghiệp cho nhân dân. Phải nói trí thức nào, chính quyền nấy mới đúng!
Bài viết vừa rồi, nhân dịp cụ Tôn thất Tần qua đời, tôi có thuật lại mẩu đối thoại giữa anh tôi (người sinh viên trường Thanh Niên Tiền Tuyến nổi loạn trước việc Hồ Chí Minh ký hiệp ước ngày 6 tháng 3 năm 1946 thỏa thuận cho thực dân Pháp trở lại Đông Dương, bị cộng sản kết án tử hình) với Phan Mỹ (em trai của luật sự Phan Anh, Bộ trưởng Thanh Niên trong chính phủ Trần Trọng Kim). Anh tôi lúc bấy giờ mới 21, học lực chỉ có chứng chỉ Toán học Đại cương, đã nhìn thấy sự sai lầm của Hồ Chí Minh chọn thế đứng về phe cộng sản, thay vì chọn con đường trung lập. Bởi vì đứng vào phe nào cũng sẽ bị lâm vào cảnh “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”! Trong khi đó, giáo sư Tạ Quang Bửu nổi tiếng thông minh uyên bác đủ các bộ môn Toán, Vật lý, Triết học và nói được nhiều thứ tiếng ngoại quốc như Pháp, Anh, Đức, Nga lại đi theo cộng sản, làm tới chức Thứ trưởng Quốc Phòng, dưới quyền trực tiếp của Võ Nguyên Giáp!
Tôi đã từng kể bản thân tôi chỉ là đứa bé mới 12 tuổi, chứng kiến mấy tên du kích cộng sản chém đầu ông phu xe kéo và một cậu bé trạc tuổi tôi bị tên cộng sản dộng một tảng đá vào đầu phọt óc chết tươi về cái tội mang hai cây bút nguyên tử màu xanh đỏ trên túi áo trắng (dấu hiệu cờ tam tài của thực dân Pháp) là tôi đã biết ghê tởm cộng sản. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, học lực bậc trung học, còn rất trẻ cũng đã nhìn thấy tai họa cộng sản. Trong khi đó những bậc thầy như Trần văn Giàu, Cù Huy Cận, Nguyễn Công Hoan … lại phục vụ cộng sản hết mình! Thử hỏi làm sao nước nhà tránh được thảm họa cộng sản?
Miền Nam bị xâm chiếm cũng chính vì những hạng trí thức thân Cộng. Gần một triệu đồng bào Miền Bắc phải bỏ nhà cửa chạy vào Nam tìm đất dung thân không thể mở mắt bọn chúng! Linh mục, thầy chùa đội lốt kéo theo đám học sinh, sinh viên bồng bột, nhẹ dạ liên tục gây bất ổn chính trị khiến cho công cuộc chiến đấu cho chính nghĩa tự do của quân dân Miền Nam trở nên phi nghĩa. Hoa Kỳ bỏ Miền Nam không phải vì phản bội lời cam kết, mà vì những trí thức, những lãnh đạo tôn giáo, chính trị, quân sự không nhìn thấy tai họa cộng sản để đoàn kết nhau tiêu diệt cộng sản. Bọn hoạt động trong phong trào hòa bình là bọn điếm thân Cộng giả nhân giả nghĩa, vì chúng chỉ kêu gọi bên tự vệ phải buông súng! Do đó, Mỹ bỏ ta, ví như chẳng có nhà hảo tâm nào đi giúp đỡ cho thứ người nghiện cờ bạc, ma túy. Chẳng có đạo quân tinh nhuệ nào có thể thắng địch ngoài tiền tuyến, trong khi bọn phản động phá nát hậu phương!
Tôi chỉ là một sĩ quan cấp Tá, không được đóng vai trò quyết định vận mạng đất nước, tuy không hề tìm cách né tránh bất cứ phi vụ nào, nhưng suốt 38 trời lưu vong thất thổ, cũng nhận thấy mình có tội. Cái tội đã không triệt để tiêu diệt cộng sản! “Cách mạng lão thành”, trí thức thân Cộng lại càng có tội lớn hơn, vì làm cho người dân chất phác, nghèo khổ bị hứng trọn thảm họa do cộng sản gây nên. Do đó, tôi khẩn thiết đề nghị:
Thay vì viết kiến nghị, thư ngỏ, xin quý vị “lão thành cách mạng”, những trí thức thân Cộng phản tỉnh hãy dũng cảm nhận lãnh trách nhiệm bằng cách liên kết nhau qua phương tiện thông tin Internet để thảo một bản hiệu triệu thật đanh thép, nhờ các trang mạng toàn cầu phổ biến rộng rãi để kêu gọi quốc dân đồng loạt đứng lên tiêu diệt những con dòi bán nước hại dân. Chắc chắn quý vị sẽ đặt câu hỏi: “Toàn dân không ai có một tấc sắt trong tay, ngoài trừ bọn Công An và Quân Đội, thì lấy phương tiện gì để tiêu diệt cộng sản”?
Xin thưa: Sau cái ngày gọi là “giải phóng” tháng 4 năm 1975, chiếc mặt nạ cộng sản đã rơi xuống. Ngay cả cái cột đèn biết đi cũng bỏ nước ra đi. Đồng bào ta, trong đó có cả những đảng viên cộng sản, đã bất chấp bão táp, phong ba, hải tặc, thà chết chứ nhất định không ở với cộng sản. Hơn nửa triệu đồng bào đã chết ngoài biển khơi. Chính thảm trạng thuyền nhân đã thức tỉnh lương tâm nhân loại. Những nhân vật thân Cộng, phản chiến nổi tiếng như Jean Paul Sartre, Bertrand Roussell, Joan Baez và nhiều nhà trí thức khắp thế giới trước kia chống chiến tranh, đã ký một tuyên cáo chung lên án sự tàn ác dã man cộng sản. Không phải cường điệu, tôi thiết nghĩ biến cố thuyền nhân Việt Nam đã góp phần vào sự quyết tâm của Đức Giáo Hoàng John Paul II, Tổng thống Reagan, Thủ tướng Thatcher hiệp lực nhau giật sập khối cộng sản Đông Âu và Soviet. Thuyền nhân Việt Nam là ngòi nổ làm cho đế quốc Đỏ tan rã!
Vừa rồi, ngày 11 tháng 11 năm 2013, Hội đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu cho phép Việt Nam trở thành hội viên, mặc dầu trước đó Ân Xá Quốc Tế, hội Nhân Quyền Quốc tế, hội Nhà Báo Không Biên Giới đã gửi thư cảnh báo bọn cầm quyền Việt Nam không xứng đáng làm hội viên. Một bọn cầm quyền tệ hại hơn cả quân cướp, cai trị dân giống như thổ phỉ mà lại được trở thành hội viên của một định chế thế giới về quyền Con Người! Xin quý vị hãy tự hỏi lòng mình đi! Phải chăng thế giới quay lưng lại với nhân dân ta? Hay là thế giới đang cười vào mặt những nhà “cách mạng lão thành”, những trí thức thân Cộng chỉ dám tranh đấu bằng kiến nghị với thư ngỏ? Phải chăng thế giới muốn thấy nhân dân Việt Nam phải liều chết như thuyền nhân thì họ mới ra tay giúp?
Tôi tin rằng quý vị phổ biến một bản hiệu triệu hẹn ngày N giờ G để xuống đường tập thể, nằm lăn ra, chấp nhận để cho Công An, Quân Đội xả súng bắn, xe tăng cán lên thì đồng bào cả nước (nhất là dân oan) sẽ liều mình chịu chết cùng quý vị. Nhớ là nói và làm phải đi đôi; chứ đừng bắt chước Lê Hiếu Đằng kêu gọi bỏ đảng tập thể mà bản thân thì vẫn cứ ở lỳ trong đảng.
Máu phải đổ, thịt phải nát, xương phải tan thì may ra mới có thể cứu vảng nổi con tàu Việt Nam đang đắm. Dân Làm Báo nêu khẩu hiệu “mỗi người dân là một chiến sĩ thông tin”, tôi vẫn thấy chưa đủ để làm cho những con dòi cầm quyền quan tâm. Tôi xin đề nghị khẩu hiệu mới: “Mỗi người dân là một Đoàn văn Vươn, một Đặng Ngọc Viết”! Phải quyết tử để dân tộc quyết sinh! Không còn phương sách nào khác!
Bọn thực dân Pháp đã đẩy dân Việt Nam ta vào con đường bạo lực. Bọn cầm quyền cộng sản cũng giống như thực dân Pháp. Chúng nhất quyết tiến lên xã hội chủ nghĩa mà chúng chẳng biết một trăm năm sau có hoàn thiện được hay không. Chúng chặn hết mọi nẻo đường tiến tới dân chủ, chúng bắt nhân dân ta phải thần phục triều đình Đỏ ở Bắc Kinh. Vậy chỉ còn một phương cách độc nhất: Bạo lực! Bạo lực! Bạo lực! Hãy dám để cho Việt Cộng tàn sát cái thân xác phàm trần để cứu muôn dân thì linh hồn mới đáng an nghĩ nơi suối vàng!
Phải thí mạng cùi để giành lại Non Sông; nếu không thì chắc chắn chủng tộc Việt cuối cùng của giống Bách Việt sẽ bị diệt vong bởi thực phẩm tẩm độc từ Trung Cộng tuồn sang, bởi môi trường sống bị ô nhiễm do sự phá hoại của một bầy dòi đang cầm quyền.
Tôi, Bằng Phong Đặng văn Âu, viết bài này là tuyên chiến với đảng cướp Cộng sản vì xúi giục bạo lực lật đổ bạo quyền. Đừng tưởng tôi không ý thức vì mình ở hải ngoại mà sinh mạng được bảo đảm an toàn. Bọn cộng sản tàn ác, quỷ quyệt có đủ trăm phương ngàn kế giết tôi như trở bàn tay, không lưu lại giấu vết. Trải qua một cuộc chiến tranh dài, nhiều phen xông pha lửa đạn mà không chết là nhờ ơn che chở của Trời Phật. Nay tôi đã 74 tuổi, chưa chết vì bệnh hoạn, vẫn còn lạc quan yêu đời, chứ không phải chán sống để làm một hành động điên rồ. Tôi tin rằng Trời Phật cho tôi đặc ân sống tới ngày hôm nay là để tôi có sứ mạng cất lên tiếng nói vì công chính; chứ không hèn hạ câm miệng hến như Võ Nguyên Giáp vẫn tự hào vì đã giết hại hàng triệu sinh linh và đẩy con thuyền quốc gia xuống vực thẳm mà không một chút ăn năn.
Tôi quyết sống với lý tưởng của nhà cách mạng tiền bối Phan Bội Châu qua lời dạy:
Sống tủi làm chi đứng chật trời?
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến,
Sống chịu ngu si để chúng cười!
Sống tưởng công danh, không tưởng nước,
Sống lo phú quý chẳng lo đời,
Sống mà như thế đừng nên sống !
Sống tủi làm chi đứng chật trời?
Xin quý vị “lão thành cách mạng”, những lãnh đạo tôn giáo, những trí thức đã và đang phục vụ bọn cầm quyền cộng sản hãy nhận lãnh trách nhiệm của mình, tối thiểu phải có đôi chút sĩ khí của người có học vấn để khỏi ô danh nòi giống rồng tiên. Tôi mong chờ quý vị lên tiếng để phản bác đề nghị của tôi. Xin đừng tỏ ra cái điều cao ngạo, không thèm đếm xỉa đến đề nghị cứu nước của một vô danh tiểu tốt. Vì tôi xem sự im lặng của quý vị là hèn nhát.
Bằng Phong Đặng văn Âu (audang033@gmail.com).
© Đàn Chim Việt
Hoan hô ông Đặng Văn Âu nay đã sáng mắt sàng lòng về Cộng Sản,
không còn ngả theo giải pháp cúa cựu tướng không quân Cao Kỳ như trước.
Nguyễn Thái Học từng tuyên bố hùng hồn:
CỜ ĐỘC LẬP, HOA TỰ DO PHẢI TƯỚI BĂNG MÁU
Việt Nam có những đặc thù riêng, nhất là CS Á châu, trong đó có CSVN.
Chúng thuộc loại “cà cuống chết đến đít còn cay”, nên phải tử chiến với chúng phen này
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, do Hồ Chí Minh soạn thảo, là lời phát động cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm 1946, sau khi những nỗ lực đàm phán hòa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Pháp, vào giữa năm 1946, để công nhận một nước Việt Nam độc lập, không thành công. Lời kêu gọi này được phát ra vào sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946. Đêm hôm trước – ngày 19 tháng 12, khi chiến sự bùng nổ – là ngày Toàn quốc kháng chiến.
Câu nói “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” trong một bức thư của Hồ Chí Minh gửi những người lính của Việt Minh ở Hà Nội những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã được nhắc đến như một biểu tượng cho sự hy sinh vì nền độc lập của đất nước Việt Nam
02/12/2012 at 21:52
quangphan says:
Những tấm gương ái quốc của người xưa :
*** Hoàng Trọng Mậu tên thật là Nguyễn Ðức Công, sinh tại Nghệ An,. Năm 1915 anh cùng khoảng 30 chiến sĩ vượt biên giới, qua cửa Nam Quan, đánh úp đồn Ta Lùng của Pháp. Anh Mậu nghĩ rằng toán lính tập người Nam trong đồn sẽ không chống cự nhưng toán lính này đánh lại dữ dội, Lực lượng tấn công bị thất bại. Anh Mậu trở về Quảng Ðông, bị mật thám Pháp bắt ở Thượng Hải. Anh bị Pháp bắn ở Bạch Mai .
Anh Hoàng Trọng Mậu có câu đối tự phúng:
“Non sông đã chết, ta há lẽ sống thừa, trong mười năm rũa kiếm, mài đao, chí mạnh mong phù hồng tổ quốc
“Lông cánh chưa thành, việc bỗng đâu đã hỏng, dưới chin suối điều binh, luyện tướng, hồn thiêng sẽ giúp thiếu niên quân.”
***Lương Ngọc Quyến : Con của cụ Lương Văn Can- hiệu trưởng Đông Kinh Nghiã Thục -sang Nhật, học trường quân sự Chấn Võ. Nhiều năm bôn ba ở Trung Hoa, tìm cách mộ binh đánh Pháp.
Năm 1915, Lương Ngọc Quyến bị bắt ở Hương Cảng, giải về Hà Nội, giam ở nhiều nơi, rồi đưa lên Thái Nguyên. Darbes công sứ Thái Nguyên- sai dùi bàn chân Lương Ngọc Quyến buộc vào xích sắt. Dù vậy, Quyến vẫn liên lạc với viên đội khố xanh Trịnh Cấn. Đêm 30/8/1917, Trịnh Cấn phá ngục, chiếm đồn, cõng Lương Ngọc Quyến ra để chỉ huy. Nghiã quân làm chủ Thái Nguyên từ 30/8 đến 5/9, lấy cờ năm sao làm quốc kỳ, đặt quốc hiệu là Đại Hùng đế quốc.
Khi quân Pháp tiến đánh, biết thế không giữ nổi, không chịu theo cáng để rút lui, Lương Ngọc Quyến nhờ Trịnh Cấn bắn một phát vào ngực ngày 5/9. Đội Cấn rút quân chống cự với Pháp thêm mấy tháng nữa. Ngày 5/1/1918, bị vây và bị thương ở Pháo Sơn, chung quanh chỉ còn 4 thủ hạ, Trịnh Cấn tự bắn vào bụng.