Cuộc chiến ‘cả nước là diễn viên’
Bài viết trước – “Cuộc chiến biệt vô tăm tích” – đã đề cập đến một nét đặc thù của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bài này lại nói đến một nét đặc thù nữa, chỉ người trong cuộc mới có thể nhận rõ, Đây là một nét không thể bỏ qua khi nghiên cứu, tổng kết về cuộc chiến tranh này.
Trước hết là những màn kịch của đảng. Rất điêu luyện, cao tay, tinh vi. Xin kể vài thí dụ.
Năm 1940, phát xít Nhật bắt đầu tiến công xuống phía Nam Châu Á, đe dọa Việt Nam. Đảng CS Đông Dương liền tổ chức ra Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh là tổ chức quần chúng của đảng CS, bao gồm các tổ chức Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Công nhân Cứu quốc…để che giấu kỹ bản chất CS của mình, thực hiện sứ mạng của Đệ Tam Quốc tế CS là nhuốm đỏ ba nước Đông dương thuộc Pháp.
Đây là màn kịch đầu tiên giấu kỹ tung tích CS, đề cao lòng yêu nước dành Độc lập để mở rộng thanh thế của đảng CS dưới chiêu bài chống Pháp đuổi Nhật. Lãnh đạo CS hiểu rất rõ là nếu trưng ra chiêu bài CS thì sẽ thất bại to vì nhân dân VN vẫn còn dị ứng với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, một phong trào tả khuynh nguy hiểm đề cao khẩu hiệu «chống trí-phụ-địa-hào, đào tận gốc, trốc tận rễ». Chính do màn kịch này mà phong trào Việt Minh lên cao, lên nhanh để Đảng CS cướp được chính quyền tháng 8/1945, lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân.
Khi thảo ra bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã hoàn toàn có ý thức dấu kỹ tung tích CS và lập trường CS của mình, chỉ trưng ra tinh thần của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chỉ dẫn ra các tuyên ngôn cách mạng tư sản của Hoa Kỳ và Pháp, giấu kỹ Tuyên ngôn CS mà ông ta luôn coi là kim chỉ Nam cho mọi hành động của mình.
Đây là màn kịch cao thủ thứ 2, khi ông ta đóng kịch với nhà báo Pháp: «Tôi không phải CS, đảng tôi là Việt Nam». Trong 3 bức thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ Truman để mong tranh thủ sự ủng hộ của nước Mỹ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông đóng kịch như không dính dáng gì đến cộng sản. Thế nhưng phía Mỹ đã hiểu rõ Hồ Chí Minh là nhân viên kỳ cựu và trung thành của CS Quốc tế, không thể tin là người quốc gia, đó là nhân vật nguy hiểm cho cộng đồng quốc tế, cần xếp ở bên kia của trận tuyến «chiến lược be bờ chặn đứng chủ nghĩa CS» (Containment- of-Communist Strategy).
Ngày 11/11/1945 khi bị lộ tẩy đich danh là CS rồi , ông Hồ và lãnh đạo đảng CS lại dựng lên màn kịch «tự giải thể đảng CS Đông Dương», sự thật là chỉ rút vào bí mật và còn phát triển đảng CS mạnh hơn trước.
Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Đảng Lao động VN cũng là các màn kịch làm bình phong che giấu bản chất CS. Học thuyết Mác – Lê đề cao Đảng CS, giai cấp vô sản thế giới, tinh thần quốc tế vô sản, trong khi hạ thấp, coi nhẹ và phủ định các khái niệm quốc gia, đồng bào, tổ quốc, xã hội, gia đình, tôn giáo. Cho đến khi toàn thắng rồi họ mới hạ màn kịch, lại công khai tự nhận là Đảng Cộng sản. Mặt trận Tổ quốc bị phơi bày cái mặt nạ bằng mo không còn chút giá trị trước nhân dân, do một ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSVN chăn dắt một cách thô thiển vụng về sau khi kịch đã hạ màn.
Cho đến nay, vào ngày 30/4 lãnh đạo Dảng CS vẫn còn đóng kịch. Họ vẫn viết trên báo chí đây là «Ngày toàn thắng chống đế quốc Mỹ xâm lược», «Ngày kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ cứu nước», «Ngày đánh bại ngụy quân ngụy quyền tay sai Mỹ». Họ không nhầm lẫn đâu. Họ biết rõ Hoa Kỳ không xâm lược. Chính họ là kẻ rắp tâm thôn tính, xâm lược bằng vũ lực, chà đạp «quyền tự quyết của nhân dân miền Nam» do các Hiệp định Geneve và Paris đều long trọng khẳng định, mà chính họ đã ký tên cam kết. Họ phải bịa ra kẻ xâm lược để tự nhận là người chống xâm lược, phủi trách nhiệm, tự nhận là chính nghĩa, trong khi quân đội Mỹ chỉ hành động để bảo vệ thế giới dân chủ, trong đó có VNCH, theo chiến lược «be bờ chặn đứng thảm họa quốc tế cộng sản».
Chính CS Việt Nam mới là một kiểu ngụy quân ngụy quyền do CS Moscow và CS Bắc Kinh nuôi dưỡng thành một tiền đồn của Quốc tế CS, một quân tốt thí. Lẽ ra lúc này họ phải bỏ đi cái trò đóng kịch nhầm vai, lộn vai như thế, nói lên đúng sự thật, khi chính họ đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ 20 năm chẵn và đang cần sự đầu tư và hỗ trợ của Hoa Kỳ và phương Tây.
Do CS chuyên nghề lừa dối và bịp bợm như thế nên cả xã hội VN một thời gian dài cũng nhiễm phải thói đóng kịch một cách trầm trọng và rộng khắp. Đây là một hiện tượng chưa được phát hiện, nêu lên thành hệ thống để nhận rõ thêm bộ mặt xấu xa của chủ nghĩa CS hiện thực. Nhà thơ Chế Lan Viên, người được coi là nhà thơ xuất sắc bậc nhất ở miền Bắc, khi chết đã để lại Di cảo nói rõ rằng ông ta đã lừa dối, đóng kịch ra sao. Trong bài «Trừ Đi» Chế Lan Viên viết: «Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ, Có phải tôi viết đâu, Một nửa cái cần viết vào thơ, Tôi đã giết đi rồi!». Trong bài «Ai? Tôi!» Chế Lan Viên viết: «Mậu Thân, 2000 xuống đồng bằng, Chỉ một đêm còn sống sót có 30, Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó? – Tôi !- người viết những câu thơ cổ võ Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi lúc xung phong… ». Đó là sự kiện ở Bình Định, Tết Mậu Thân đảng tung 2000 quân lính và cán bộ từ căn cứ xuống đồng bằng kêu gọi dân tổng khởi nghĩa và tổng nổi dậy, nhưng thất bại thê thảm, chết gần hết.
Chế Lan Viên viết Di cảo để lại, khi sống ông không dám nói ra. Ông có dũng khí nhận tội ác về mình, thật ra tội ác thuộc về lãnh đạo đảng CS đã coi sinh mạng thanh niên quân lính cán bộ như cỏ rác, ném vào cuộc chiến một cách mù quáng. Cả một lớp văn nghệ sỹ cũng như nhà báo của đảng đều đóng kịch như thế để có kế sinh nhai, về hùa với tội ác mà cứ ngỡ mình là chính nghĩa. Chính tôi cũng đã phải đóng kịch trơ trẽn như thế.
Người dân thường hồi ấy cũng đóng kịch. Tôi xin dẫn chứng sống về 2 bà chị tôi. Bà chị ruột tôi ở Hải Phòng có con trai cả là Hưng, sau khi học xong trung học, cháu 17 tuổi được gọi đi nghĩa vụ quân sự. Ở lớp cháu trước khi hết học kỳ cuối cả lớp hơn 30 nam sinh là đoàn viên Thanh niên CS Hồ Chí Minh đều làm đơn tình nguyện 100% đi nghĩa vụ quân sự. Trong đơn gọi là «tình nguyện» còn nêu rõ sẵn sàng đi đâu khi Tổ quốc cần, ngụ ý là sẵn sàng vào Nam chiến đấu. Thư tình nguyện còn được ghi thêm ý kiến cùng chữ ký của bố hoặc mẹ rất đồng tình với ý tự nguyện của con mình. Bà chị con ông bác ruột tôi cũng có con trai là Hiệp học rất giỏi, chuyên là lớp trưởng. Cháu cũng đến tuổi làm nghĩa vụ quân sự. Cháu cũng được quận đội Hoàn Kiếm tuyển mộ, lớp cháu hầu hết đều tình nguyện nhập ngũ, chỉ trừ các bạn quá nhẹ cân, có cố tật. Hai bà chị tôi đều lo âu, buồn khổ, nhưng tuyệt nhiên không dám lộ ra ngoài.
Với láng giềng, với chính quyền khu phố cứ phải tươi cười đóng kịch trong khi nước mắt tràn ra khi đêm xuống. Các chị dò hỏi tôi có cách nào xin cho các cháu được miễn đi quân dịch để vào học tiếp Đại học, và nhất là làm sao nếu vẫn phải đi lính thì không phải đi Nam, vì câu chuyện «sinh Bắc tử Nam» là một cơn ác mộng khủng khiếp dai dẳng cho các bà mẹ đó. Có thể nói các bạn trẻ 10 đi chỉ chừng 2, 3 phần trở về lành lặn. Vậy mà các bà chị tôi vẫn thản nhiên đóng kịch dự lễ tuyển quân, rồi sau vài tháng lại dự lễ tiễn đưa đoàn quân có con mình lên đường vào Nam, với những vòng hoa vàng đỏ choàng quanh cổ.
Đó là thời kỳ chiến sự miền Nam sôi động 1965-1970. Các bà chị tôi đau khổ biệt tin con mình hằng 3,4 năm trời, có khi được tin láng máng là cháu Hưng vào khu 5, Quảng Nam hay Quảng Ngãi, cháu Hiệp vào Tây Nguyên, Kontum hay Pleiku, để rồi cuối cùng 2 bà đều thót tim nhận giấy báo tử, chậm đến hơn một năm. Cháu Hưng hy sinh ở huyện Đức Phổ còn cháu Hiệp hy sinh ở chiến trường Tây Nguyên, cả hai đều mất xác, không biết chôn ở đâu. Sau này các bà đều đi vào Nam, lặn lội nhiều nơi, dùng cả những người có ngoại cảm đi tìm mộ, nhưng đành chịu. Các tấm bảng tuyên dương Liệt sỹ, tuyên dương Mẹ Liệt sỹ, Gia đình vẻ vang, được vỗ tay chào đón trong các cuộc họp khu phố không hề an ủi được các bà chị tôi. Nỗi xót xa đau buồn khôn nguôi kéo dài hàng chục năm, vẫn không thể biết 2 cháu hy sinh như thế nào, ở đâu, lúc nào, cũng không có một di vật dù nhỏ làm kỷ niệm. Hàng triệu gia đình, hàng triệu bà mẹ đau khổ dằn vặt khôn nguôi.
Có thể nói hàng triệu gia đình có con vào Nam chiến đấu đều bị cưỡng bách một cách tinh vi như thế, đều buộc phải cùng đảng và theo đảng đóng kịch như thế. Các thanh niên đều 100% bị «cưỡng bách tự nguyện» như thế để bị cho vào lò sát sinh, vào bộ máy nghiến thịt khổng lồ mang tên «cuộc kháng chiến thần thánh chống ngoại xâm» phục vụ cho tham vọng quyền lực vô biên của Đảng CS tuân theo lệnh của Quốc tế CS do ông Hồ Chí Minh dắt dẫn suốt 85 năm từ khi thành lập Đảng CS năm 1930.
Cuộc đóng kịch dai dẳng về mọi mặt, cuộc lừa bịp chết người, hủy diệt oan uổng vô vàn sinh mạng trai tráng của dân tộc giữa tuổi thanh xuân cần kết thúc lúc này đã là quá muộn. Tất cả các «từ ngữ» liên quan đến màn kịch hủy diệt con người này cần xem xét và vĩnh viễn từ bỏ để thay vào những «từ ngữ» chính xác. Ai xâm lược, ai là ngụy quân ngụy quyền? Ai cứu nước hay gây tai họa cho nước? Ai chính nghĩa ai phi nghĩa? Toàn thắng cái gì? Giải phóng cái gì? Công lao nỗi gì? Vẻ vang, vĩ đại gì?
Sao tiếng nói riêng của Đảng CS lại vẫn cứ mang cái lốt giả là báo «Nhân Dân», sao Tòa án Nhân dân lại kết tội những người dân yêu nước chống bành trướng, sao Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm lại có quyền cấm nhân dân thủ đô biểu tình bảo vệ cây xanh, sao Công an nhân dân lại ngang nhiên buôn sinh mạng người dân để kiếm cơ man nào là vàng khi bán bãi, bán tàu, thuyền, bán chỗ trên các tàu thuyền ọp ẹp trong thảm kịch «thuyền nhân» 40 năm về trước. Tất cả đã đến lúc phải sáng tỏ rõ ràng, minh bạch.
Cái tội cực lớn của Đảng CS là đã lấy dối trá làm lẽ sống của mình, rồi làm gương dối trá cho toàn xã hội – nhà nhà dối trá, người người dối trá, nhà trường dạy đối trá, học trò học dối trá – phá hoại nếp lương thiện, cương trực, chất phác của xã hội, phá hoại nền đạo đức và văn hóa thuần khiết của dân tộc, đến bao giờ mới hồi phục được.
Đảng CS phải hạ ngay các màn kịch đã kéo dài và nhân dân cũng không còn ai muốn cùng đảng đóng kịch trơ trẽn hay bi thảm ở mọi nơi mọi lúc như xưa nữa.
Blog Bùi Tín (VOA)
Trích: “Trước hết là những màn kịch của đảng. Rất điêu luyện, cao tay, tinh vi…”
Xin góp ý:
“những màn kịch của đảng thuộc loại siêu đẳng; rất gian manh, thủ đoạn, lường gạt, quỷ quyệt, tinh quái và vô nhân tính”.
Cám ơn ông Bùi Tín đã viết bài này. Đây là bài viết rất chính xác và chỉ có những người sống với CS rồi mới hiểu được những cái độc ác, tàn nhẫn, khốn nạn, gian xảo, quỷ quyệt của chế độ CS. Những người ra đi khỏi nước nhưng chưa bao giờ sống với CS sẽ không bao giờ hiểu được CS là gì. Đọc sách chỉ thấy được cái ‘hay’ do họ tự biên, tự diễn mà thôi. Khi sống dưới chế độ CS rồi thì ‘hỡi ơi’. Qúa muộn.
Những phù thủy văn nô:
https://www.danluan.org/tin-tuc/20150505/thai-doan-hieu-su-that-nhat-ky-nguyen-van-thac-va-dang-thuy-tram
Cháu có điều này xin hỏi bác Tín, đối với cs cái gì cũng có cái đuôi nhân dân nhưng chỉ ngân hàng có cái đuôi nhà nước. Cái này không phải đóng kịch, mà là có định hướng rõ ràng phải không bác Tín?
Còn nữa, chuyên chính vô sản là sao? Bố Mẹ HCM vô sản lấy cái gì mà lo cho HCM ăn học, cũng như
mấy vị đồ tể dưới trướng HCM. Cái này không phải đóng kịch mà là láo có định hướng cọng sản quốc tế. Còn nữa, xin cám ơn bác đã viết ra những suy tư của bác, chúc bác sứ khỏe cùng chung sức với đồng bào trong cuộc chiến với cái đảng vô sản có định hướng quốc tế cọng sản này.
ĐÈN CÙ
Bây giờ mọi việc qua rồi
Cả non thế kỷ quả thời ghê chưa
Đúng là gió đánh đò đưa
Đèn Cù Trần Đỉnh rõ thừa dư vang
Nhưng sao còn cứ muộn màng
Việc qua vẫn tiếp chẳng oan chút nào
Nhìn lên mà hỏi trời cao
Chừng nào dân tộc được cháo bấy bây !
TUYẾT NGÀN
(05/5/15)
NÓI VỀ SỰ NGU DỐT THỨ BA CỦA KARL MARX : LÝ THUYẾT BIỆN CHỨNG LỊCH SỬ
Hai bài trước tôi đã nói về sự ngu dốt đầu của Marx : Chủ nghĩa duy vật thuần túy, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Giờ đây xin nói sự ngu dốt thứ ba : chủ thuyết duy vật lịch sử hay sử quan duy vật.
Duy vật lịch sử theo Marx có nghĩa lịch sử thế giới loài người vốn phát triển đi lên từ vật chất. Quy luật đó là quy luật đấu tranh giai cấp. Marx nêu lên 5 hình thái phát triển lần lượt của xã hội con người là : cộng sản nguyên thủy, xã hội nô lệ, xã hội phong kiến quân chủ, xã hội tư sản tư bản chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản khoa học.
Thật ra cái mà Marx gọi là xã hội cộng sản nguyên thủy chỉ là sự ngụy từ. Bởi vì đó chỉ là xã hội hoang dã bước đầu của loài người, chưa có khái niệm tài sản tư hữu, cũng chẳng thể bảo đó là cộng sản nguyên thủy được. Xã hội nguyên thủy, xã hội hoang dã đã bị ông ta bóp méo thành khái niệm xã hội cộng sản nguyên thủy. Đây là thái độ gian dối, ngụy trá về ngữ nghĩa, về ngôn từ của chính Marx.
Cái mà ông ta gọi là xã hội cộng sản khoa học cũng thế. Bởi ông ta tin tưởng mù quáng vào phép biện chứng hay quy luật biện chứng pháp của Hegel, nên nguyên tắc nghịch lý, mâu thuẫn, phủ đình của phủ định mà Hegel tự cho là nguyên lý khoa học, được Marx vơ vào cho lý thuyết của mình để tự mệnh danh cũng là khoa học, do đó giai đoạn cuối của phát triển xã hội theo ông quan niệm cũng được hiểu là khoa học và cho đó là cộng sản khoa học. Như thế nếu lý thuyết của Hegel là phi khoa học, tất nhiên lý thuyết của Marx cũng phi khoa học một lèo, và dĩ nhiên ý nghĩa của cộng sản khoa học cũng chỉ là ý niệm mê tín, ý niệm vu vơ hay chỉ là ý niệm giả tưởng, phịa đặt.
Duy vật lịch sử hay biện chứng lịch sử theo Marx được xây dựng trên nguyên lý mâu thuẫn, nguyên lý phủ định của phủ định. Cả hai ý niệm này thực chất rút ra từ nguồn gốc duy tâm của Hegel, nên về mặt duy vật thuần túy của Marx chúng hoàn toàn vô nghĩa, phi nội dung, quàng xiên vô cớ. Điều này trong hai bài trước đã có nói. Vì vật chất thuần túy thì tự nó không thể tự mâu thuẫn hay tự phủ định theo kiểu định hướng, chủ động hoặc chủ quan được. Các biến dịch trên bề mặt trái đất tạo thành đồi núi là do nguyên lý địa tằng, không thể nói vơ là do mâu thuẫn hay phủ định của phủ định một cách vô lối được.
Ở cấp cao hơn, Marx tuyên bố lịch sử loài người từ trước đến này là lịch sử đấu tranh giai cấp, tức là sự mâu thuẫn giai cấp và sự phủ nhận hay phủ định của phủ định giai cấp mà tạo ra. Đây chính là sự càn gỡ, thơ ngây, nói phứa, ức đoán, quy chụp của Marx. Từ ý nghĩa 5 hình thái xã hội mà Marx nói liều, cũng gom lại thành quan hệ sản xuất tác động vào lực lượng sản xuất là đầu mối của xã hội đi lên phát triển.
Thực chất, các hình thái xã hội đã có nhiều người nói trước ông ta trong thực tế, song họ không gom vào nguyên lý biện chứng trừu tượng, tư biện, toán học suy đoán như Marx mê tín. Bởi vì các hình thái đó không hề rập khuôn trong lịch sử nơi mỗi địa phương hay quốc gia nào cả. Và thực sự lịch sử phát triển nhân loại là trên cơ sở lực lượng cá nhân mà không phải lực lượng giai cấp.
Bởi mỗi cá nhân là chủ thể đơn vị duy nhất của xã hội. Giai cấp chẳng qua là khái quát hóa các tập hợp cá nhân cùng các thuộc tính gần nhau hay giống nhau, Chính trí tuệ cá nhân, sức lao động cá nhân, ý chí cá nhân, ý thức cá nhân, hoàn cảnh cá nhân gộp chung lại thành nên lịch sử mà không phải giai cấp trừu tượng nào cả.
Nói khác đi những sự tình cờ khám phá các nguyên tắc tự nhiên, sự nghiên cứu khoa học kỹ thuật của cá nhân hay nhóm người dần dần tạo nên nền khoa học kỹ thuật của toàn nhân loại, đó là nguồn gốc mọi loại của phát triển kinh tế, không phải đấu tranh giai cấp cho ra đời phát triển xã hội. Nguyên tắc đấu tranh kinh tế của cá nhân vẫn luôn là khía cạnh xã hội tự nhiên, nhưng vơ vào cho đấu tranh giai cấp như quy luật biện chứng là sự man luận, sự mê muội, mê tín của Marx. Mọi người chỉ phát triển khi cùng nhìn về một phía, họp tác nhau, không phải chỉ bang cách gấu ó giành giật chia phần nhau.
Có nghĩa chính lực lượng sản xuất là duy nhất quan trọng cho phát triển kinh tế mà không phải quan hệ kinh tế. Chính cái trước chi phối cái sau mà không phải ngược lại. Marx giống như người mê tín, mê sảng, điên loan, ngụy tín do lậm bả không tiêu hóa nổi nguyên lý biện chứng luận của Hegel. Chính sự trá hình, ngụy tạo về mặt triết học ở đây của ông ta là sự tàn phá nhân loại, khiến ông ta trở thành nguyên nhân các tội lỗi và tội ác liên quan của nhân loại.
Bởi thế nguyên tắc Marx đưa ra sự phủ định liên tiếp các hình thái xã hội tiến đến xã hội cộng sản khoa học cuối cùng cũng chỉ là sự phịa đặt ngu ngốc và võ đoán. Nề kinh tế tư bản chủ nghĩa ra đời là do kết quả của phát triển khoa học ký thuật không phải do đấu tranh giai cấp như Marx huyễn tưởng hay phịa đặt.
Nói chung lại, nguyên lý đấu tranh giai cấp như cái cốt lõi, cái xương sống của duy vật lịch sử mà Marx chủ trương chỉ đầy vẻ áp đặt, huyễn hoặc, không có cơ sở khách quan khoa học nào chắc chắn cụ thể cả. Đây chỉ là sự cường điệu, sự mê tín, sự huyễn tưởng mà Marx thuổng một cách hoàn toàn vô lý vô ý thức cùng sai trái từ quan điểm biện chứng luận của Hegel.
Nói khác đi, học thuyết của Marx không hề là học thuyết kinh tế, xã hội, nhân văn gì đúng nghĩa khoa học khách quan cả, nó chỉ là sự bốc đồng, sự phịa đặt, sự mê tín, sự huyền hoặc, sự ảo tưởng, tính không tưởng về mặt lịch sử và đời sống xã hội. Chỉ tiếc Trần Đức Thảo cũng đã có thời gian dài gần hết cuộc đời mình tâng bốc, ca ngợi và tin chắc vào quan điểm duy vật lịch sử này của Marx. Không những thế nó còn là mục đích và nội dung giảng dạy cho khắp các đại học trong nước kể từ 1945 ở miền Bắc và toàn thể cả nước từ sau năm 1975 cho đến nay. Đó quả là một cú lầm hết sức ngoạn mục và thảm hại cho trí tuệ dân tộc mà chắc sau này lịch sử đất nước sẽ phải muôn đời oán than nuối tiếc.
Võ Hưng Thanh
(05/5/2015)