Hà Nội qua thơ của những thi nhân
Hà Nội qua thơ của những thi nhân và trong dân gian nhiều không kể hết: Cũng giống như bóng trăng trong tâm khảm mọi người, đậm tình và giầu hương sắc. Trải qua bao thế hệ, đã trở thành trung tâm tụ hội chính trị, văn hoá xã hội cùng tình cảm ý chí dân tộc.
Cụ Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Thăng Long (1813), xúc động mà hoài cảm về những kỷ niệm xưa:
Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông,
Bạc đầu còn được thấy Thăng Long…
Người đẹp thưở xưa nay bế trẻ,
Bạn chơi thưở nhỏ trở thành ông.
Từ kỷ niệm riêng tới chung với đất nước, lòng cụ bồi hồi:
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô,
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Điện mới xô bồ nhịp trúc tơ.
( Thành Thăng Long )
Còn nữ sỹ Hồ Xuân Hương lại ngợi ca tiên cảnh ở Tây Hồ:
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa…
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ,
Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng,
Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ.
(Chơi Tây Hồ nhớ bạn )
Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) chơi ở thành Cổ Loa, lòng gợi nhớ tới sự tích thời Thục An Dương Vương và bi tình Mỵ Châu – Trọng Thuỷ:
Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
Trải bao gió táp với mưa sa,
Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc,
Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
(Chơi thành Cổ Loa)
Nhà thơ Nguyễn Khuyến dẫu 30 năm xa cách, vắng bóng , mà lòng vẫn khôn nguôi nhớ về hồ Hoàn Kiếm:
Ba chục năm trời cảnh vắng ta,
Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhoà…
Chiếc én tìm về quên lối cũ,
Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ.
(Hồ Hoàn Kiếm)
Vũ Trấn Quốc cùng thời với cụ Cao Bá Quát đã ngợi ca cảnh phường Bích Câu:
Thành Tây có cảnh Bích Câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao,
Đua chen thu cúc xuân đào,
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
(Cảnh Bích Câu)
Nhưng kinh đô Thăng Long trong tâm khảm các nhà thơ thời trước không chỉ được ngợi ca phong cảnh đẹp, mà còn ghi nhiều dấu ấn chống ngoại xâm – Trần Quang Khải (1241-1294) viết trên đường đưa vua về kinh đô:
Bến Chương Dương cướp giáo giặc
Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ.
(Phò tá về kinh)
Lý Thường Kiệt (1019-1105) – Ông từng làm thơ, vừa để huấn dụ vừa khích lệ lòng tự hào dân tộc của ba quân:
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Thời tiền chiến – Hình ảnh Hà Nội cũng rất gắn bó trong nỗi tình thơ của các thi nhân. Họ ghi lại những tâm trạng, những kỷ niệm vui, buồn… trong cuộc đời ở nơi phố phường. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sau bao năm tháng phiêu bạt trở về phố cũ, lòng ông vẫn xốn xang:
Ôi chốn ngày xưa vai sánh vai…
Hồ Gươm sóng lụa bờ tơ liễu…
Thấp thoáng hè qua đài phượng rụng,
Lào rào thu muộn lá xoan rơi.
Nửa kiếp lênh đênh dừng phố cũ,
Tình thơm mộng nhỏ tóc buông vai.
(Phố cũ)
Tản Đà thì mô tả trong đêm ở hồ Tây:
Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi
Đêm thu vằng vặc bóng theo người,
Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước
Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
(Tây Hồ vọng nguyệt)
Trần Huyền Trân thả nỗi niềm về những ngày tháng sống lận đận trong cái túp lều bên hồ Cống Trắng, ở phố Khâm Thiên. Lòng tri kỷ với phố mà vẫn buồn man mác:
Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Chạnh lòng cá nhảy với chim bay,
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
(Mưa đêm lều vó)
Nhà thơ Thế Lữ đứng giữa đêm giao thừa Hà Nội trước năm 1945, than cho kẻ phải sống lang thang bụi đời:
Lê gót mòn trên đá,
Ngẩng đầu trông cơn gió thổi
Lá vàng rơi lác đác
Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành,
Những cây khô đã chết cả mầu xanh…
Hỡi người bạn! Anh định về đâu đó?
(Con người vơ vẩn)
Nhà giáo và cũng là một nhà thơ Vũ Đình Liên lại hoạ cảnh một Ông Đồ thường ngồi bên phố, viết câu đối thuê cho khách:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng,
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu.
(Ông Đồ)
Nguyễn Bính nói về cảnh chia ly của những người trên sân ga:
Những cuộc chia lìa khởi tự đây…
Những chiếc khăn mầu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
(Những bóng người trên sân ga)
Nhưng Hà Nội trước kia không phải chỉ có buồn như thế. Nữ thi sỹ Anh Thơ đã mô tả về nỗi lòng rạo rực về một cảnh đêm Hà Nội:
Căn phòng ta thênh thang hai cửa sổ
Mây trắng đi qua, sông Hồng thả gió,
Mỗi năm mùa hè, tắt điện đón trăng khuya…
(Căn phòng ta)
Thơ ngợi ca về Hà Nội trong hai cuộc kháng chiến cũng rất nhiều. Hồi đánh Pháp, Nguyễn Đình Thi đã không nén nổi xúc động khi đứng giữa Thủ đô đã được giải phóng:
Hà Nội chiều nay mưa tầm tã
Ta lại về đây giữa phố xưa…
Ông reo lên như muốn vỡ tung tim:
Ta đứng khóc giữa trời mưa hắt
Leng keng chuông xe điện đổ hồi
Lòng ta bỗng như dòng suối mát
Ta đã về đây Hà Nội ơi!
(Ngày về)
Những năm đánh Mỹ nhà thơ Nguyễn Mỹ đã viết về cảnh chia ly ở Hà Nội nhưng khác hoàn toàn cảnh sầu thảm xưa kia, bởi vì cuộc chia ly này Hà Nội đã tiễn người đi chiến đấu để giữ nước:
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa…
Và nhà thơ kết luận:
Như chưa hề có cuộc chia ly!
(Cuộc chia ly màu đỏ)
Vũ Quần Phương mô tả về Hà Nội trong những ngày tháng chống chiến tranh phá hoại của Giôn Xơn, để sau 12 ngày đêm lịch sử Hà Nội đã trở thành lương tri và phẩm giá loài người:
Cả Hà Nội rung lên, xe xích chạy rung đường,
Đêm ấy tôi nghe những em bé qua tôi
vẫy bàn tay sơ tán.
Bé lên mười dắt bé lên năm,
Hà Nội toả đi xa những cô giữ trẻ,
Bệnh nhân đi và thầy thuốc đi theo.
Hà Nội nhận vào lòng những cỗ pháo phòng không,
Những cỗ xe tên lửa.
(Tâm sự một căn nhà)
Dù xưa hay nay, chiến tranh và hoà bình, đến thời buổi kinh tế thị trường mở cửa này… Hà Nội quay chóng mặt – Nhưng Thủ đô của chúng ta vẫn mãi là một thành phố trữ tình, như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
Em đưa anh vào trong bóng trăng
Anh đưa em cành liễu thung thăng
Đường Láng thơm bạc hà kinh giới
Xuống đây, đi với anh đêm trăng.
( Đêm trăng đường Láng )
Thanh Thảo viết:
Gia đình mình đã sơ tán chưa em,
Chiều thứ bảy em có về phố nhỏ
Có ngập ngừng trước khi mở cửa,
Lá sấu rơi xúc động bên thềm…
Gốc sấu này mòn dấu em chờ anh.
(Dòng chữ cho em)
Nỗi tình của nhà thơ Tế Hanh thì lại được ông diễn tả đầy thi vị:
Thế là Hà Nội vắng em…
Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây?
(Hà Nội vắng em)
Tôi cũng có nhiều kỷ niệm về Hà Nội. Dù Hà Nội đã có bao thay đổi, nhưng vẫn mãi mãi là những hồi ức như thưở còn thơ, tựa thể một ngoại ô xưa… Hơi hiu hắt mà thơ mộng, có lá sấu rụng, lá me rơi. Tối tối những đôi trai gái dắt nhau ra tình tự bên hồ. Những tiếng xe điện leng keng thưở xa xưa, những chuyến tàu chạy xình xịch vào ga Hàng Cỏ. Người tiễn kẻ đi xa, người đón kẻ trở về:
Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng
Những ngọn đèn ô cửa mùa đông
Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỷ niệm
Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp rùa.
Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự
Của những đôi trai gái bên bờ…
Tà áo trắng em bay một thời thiếu nữ
Theo anh hoài đến tận lúc già nua.
Hà Nội mới mà như là cổ tích
Phía nhà ga đoàn tàu đến rồi đi,
Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi…
Ai trở về… và ai sắp chia ly?
Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội
Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa…
(Nghĩ về Hà Nội – Phạm Ngọc Thái)
Hà Nội mãi mãi sống trong cõi lòng và trái tim tha thiết của tôi!
© Phạm Ngọc Thái
© Đàn Chim Việt
Minh ướp.
Hà-nội trưng bày cái xác khô.
Tự-hào sản-phẩm của Liên Xô.
Hại đời tóc bạc trơ màu mốc.
Loạn thế da mồi trẽn sắc mo.
Hồn ấy ghi danh Lê Văn Mác.
Xác này đóng dấu Vẹm Văn Hồ.
Thầy đồ xứ Nghệ sanh con dử.
Muốn tránh búa rìu, chẵng đặng mô !
Người San Jose
Mả Hồ.
Hà-nội suy tôn cái mả Hồ.
Xây theo kiểu mẩu của Liên Xô.
Dăm hàng cột lệch che xương mốc.
Mấy bức tường nghiêng chứa xác khô.
Vi-khuẩn Mác Lê chèo-queo ngủ.
Độc trùng Tàu Cộng nhỡn-nhơ bò.
Muôn đời lịch-sử không dung thứ.
Cá lủ ngu-si dựng mả Hồ.
Người San Jose
Hang ổ.
Hà-nội là hang ổ giặc Tàu.
Nghênh-ngang mặt ngựa với đầu trâu.
Lá cờ lục-tộc bay trong phố.
Nước mất dễ-dàng, thật quá đau.
Người San Jose
Dù sinh ra và lớn lên ở trong Nam, Hà Nội vẫn làm cho tôi rung động khi đặt chân đến vào những ngày mùa đông năm 2004. Cái rét nhè nhẹ của Hà Nội bỗng dưng trở nên thanh thoát khi nhìn vị nữ tu trẻ tuổi trong chiếc áo già lam, khoác bên ngoài chiếc áo măng tô đen, ôi sao thánh thiện. Một câu hỏi tự dưng hiện ra trong đầu, bao nhiêu xây dựng xã Hội Chủ Nghĩa sao vẫn có những con người đẹp đẽ, thoát tục như thế tìm về với chủ nghĩa duy tâm?
Hà Nội làm tim tôi rung động khi đi quanh bờ Hồ, để nhớ đến những câu chuyện của mẹ kể thời tuổi trẻ cùng với cha, và kết quả của cuộc tình đẹp đẽ thơ mộng ấy là người anh trai mang tên Kiếm Hồ ra đời .
Hà Nội làm trái tim rung động khi đi bộ những khúc đường ngắn của Hà Nội 36 phố phường, lòng chàng có để một tơ vương với lời thơ nhẹ nhàng, nên thơ và đơn giản của Nguyễn Bính.
Và một Hà Nội với ngôi chùa Một Cột bé nhỏ, ký ức của một triều đại oai hùng chống giặc tầu ngày nào, nhưng vua quan thời xưa không màng danh lợi, không cung điện nguy nga, mà trở về tu thiền với những ngôi chùa bé nhỏ, đơn sơ….
Hà Nội hôm nay vẫn ghi dấu ấn của người con đất Việt xa xứ.
Thăng Long ngàn năm tuổi.
Lịch-sử vinh-quang giống Lạc Hồng.
Ngàn năm lưu dấu đất Thăng Long.
Hồn thiêng Liệt-tổ yên dân nước.
Khí-phách Tiền-nhân vững núi sông.
Bại tẫu co đầu quân Thanh,Hán.
Chạy dài rút cổ rợ Nguyên,Mông.
Tiếc rằng Viêt-cộng làm ô-uế.
Đem xác phô bày nhục Tổ-tông.
Người San Jose
Ngày Một tháng Mười.
Thăng Long ngày Một tháng Mười.
Dân Nam ũ-dột, Tàu cười hô-hô.
Thì ra tư-tưởng họ Hồ.
Chĩ là đỗ xí, bưng bô cho Tàu.
Ngày này đồng-chí họ Mao.
Lấy làm quốc-khánh lẽ nào lại quên.
Hỡi ơi ! Cái đảng ươn-hèn !
Dưới cờ ngủ tộc đã quen lạy mừng.
Tiền-nhân nước mắt rưng-rưng.
Ngàn năm truyền-thống bỗng dưng thuộc Tàu.
Thăng Long gió thảm,mưa sầu.
Mừng ngày quốc-khánh nước Tàu đỏ hoe.
Một Nông ba Nguyển có nghe.
Ngươi San Jose