WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Cuối tháng 3/75 tuyến đầu thất thủ [1]

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (trái)

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (trái)

Tình hình chung

Sau tháng 1/1973 VC vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định Paris, cuộc chiến vẫn tiếp diễn nhưng VNCH còn đủ mạnh, khoảng cuối 1973 Hạ viện Mỹ bắt đầu cắt giảm viện trợ 50% mỗi năm 1974, 1975 khiến miền Nam ngày càng suy yếu, CS ngày càng mạnh hơn . Ông Nguyễn đức Phương dựa theo M.Maclear (Vietnam: The ten Thousand Day war) cho biết vào ngày mất Ban Mê Thuột 13/3/1975 Hạ viện Mỹ bác bỏ 300 triệu viện trợ bổ túc cho VNCH do TT Ford đệ trình. Đại sứ Martin cũng thông báo cho TT Thiệu biết quân viện cho năm tới (1976) sẽ không được chuẩn chi (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 732). Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu mất tinh thần để rồi đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.

Nói trắng ra Hạ Viện  Mỹ đã cạn tầu ráo máng buộc miền nam VN phải đầu hàng CS. Trong khi tại chính trường nước Mỹ vấn đề VN không được ai quan tâm tới, chỉ còn  TT Ford và người phụ tá Kissinger cố gắng một cách tuyệt vọng để xin chút phương tiện cho VNCH. Vào lúc này đảng Dân Chủ nắm đại đa số Quốc hội Mỹ (67% Hạ viện và 60% Thượng viện), họ chống chiến tranh VN tích cực, đảng nọ phá đảng kia, bao giờ cũng vậy, ai cũng  đều biết cả. Theo nhận xét của Kissinger (Years of Renewal trang 464) thì TT Ford không tìm được giải pháp nào để thoát ra khỏi sự bế tắc, thảm kịch  không thể nào tránh khỏi.

(… there were no easy, heretofore undiscovered way out of this morass…

The tragedy had become simply inevitable.)

Gerald Ford chẳng khác nào một ông Tổng thống bù nhìn, lại nữa ông đã không do dân bầu, lên thay thế TT Nixon khi mà đảng Cộng Hòa bị mất quá nhiều uy tín qua vụ tai tiếng Watergate.

Tình hình miền nam VN lúc này quá u ám, Hoa Kỳ đã bắt tay được  Trung Cộng tháng 2/1972 và hòa được với Sô Viết tháng 5/1972, thuyết Domino không còn ý nghĩa. Bây giờ là lúc họ quẳng cái miếng xương Đông Dương đi, được Cộng sản quốc tế khuyến khích,  Hà Nội mừng rú vội chạy lại vồ ngay lấy. Năm 2006 trên internet tôi thấy có người hỏi cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn:

“Chúng ta đã biết trước là thua tại sao vẫn đánh để khiến bao nhiêu người chết thảm?”

Một câu hỏi thật khó có câu trả lời…

Tối 29/3/1975 đài phát thanh BBC Luân Đôn cho biết Đà Nẵng đã thất thủ, một trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh, đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân khu I, hung tin ghê gớm ấy đã khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân khu I nơi tập trung những  lực lượng tinh nhuệ và thiện chiến nhất của VNCH, bốn Sư đoàn chính qui chủ lực, bốn Liên đoàn Biệt động quân đã hoàn toàn tan rã sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù nay nhiều bí mật về cuộc lui binh đã được tiết lộ, Bộ Tổng tham mưu VNCH, các vị Tướng lãnh, các giới chức quân sự liên hệ đã bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này, các nhà nghiên cứu quân sử, các nhân chứng, ký giả chiến trường… đã biên soạn, kể lại diễn tiến của mặt trận vùng Hoả tuyến nhưng người ta tưởng như nó vẫn còn nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa bao giờ trong cuộc chiến tranh Quốc -Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to lớn của miền Nam lại có thể thua nhanh đến thế. Cũng có người cho rằng tấn thảm kịch này bắt nguồn từ ảnh hưởng của những yếu tố chính trị hơn là về quân sự.

Các tài liệu, sách báo nói về cuộc lui binh Quân đoàn I của Bộ tổng tham mưu Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Thiếu Tướng Hoàng Lạc, nhà nghiên cứu quân sử Nguyễn Đức Phương, ký giả chiến trường Phạm Huấn và những lời thuật lại của các nhân chứng … nói chung không hoàn toàn giống nhau, có khi còn trái ngược nhau là khác.

Quân khu I là một giải đất dài và hẹp hình cán chảo chạy theo hướng Tây Bắc, Đông Nam, gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng tín, Quảng Ngãi, dân số vào khoảng ba triệu người. So với các Quân khu khác Vùng Một nhỏ hẹp nhất, đây là nơi tiếp giáp với Bắc Việt, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào nên cũng gọi là vùng Hoả tuyến. Từ sau khi ký hiệp định Paris, nửa triệu quân đồng minh đã rút đi, VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường. Lãnh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trấn giữ nên tại đây VNCH chỉ còn kiểm soát được phần đất nằm phía bên phải của giải đất theo chiều dọc tức là phía Đông, còn phía Tây do Cộng thuộc quyền kiểm soát của CSBV. Dần dần VNCH chỉ còn những tỉnh lỵ và thị xã và các quận do sự lấn chiếm theo lối tầm ăn dâu của địch, kể từ sau ngày 19/3/1975, nếu nhìn trên bản đồ quân sự  (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối VNCH trang 166) ta sẽ thấy miền Nam chỉ còn kiểm soát được vào khoảng gần một phần ba (1/3) diện tích Quân khu 1.

Năm 1972 Quân khu I đã là một chiến trường lớn, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt đẫm máu giữa các đại đơn vị của hai miền Nam Bắc .Vì tình hình sôi động đặc biệt của vùng hỏa tuyến ngoài ba Sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn, TT Thiệu còn cho hai Sư đoàn tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến ra đóng tăng cường. Đạn dược tiếp liệu ngày càng thiếu thốn bi đát, theo ông Cao Văn Viên (sách đã dẫn trang 92) từ tháng 7/1974 hoả lực miền Nam giảm hơn 70% và vào tháng 2/1975, đạn tồn kho các loại súng tại kho Trung ương chỉ còn đủ cung ứng khoảng  một tháng (30 ngày).

Miền Nam  không được Mỹ yểm trợ B52; tiếp liệu, đạn dược  đã gần kiệt quệ, tài khóa 1974, 1975 bị cắt giảm 50% mỗi năm (Kissinger, Years of Renewal trang 472). Ngay từ cuối tháng 12/1974 khi BV xử dụng ba sư đoàn tấn công Phước Long, pháo binh VNCH tại đây đã phải đếm từng viên đạn để tiết kiệm hầu còn đủ chiến đấu (Kissinger, Years of Renewal, trang 490)

Trong khi ấy CS quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ dồi dào cho BV. Theo BBCVietnamese.com ngày 10-5-2006, viện trợ quân sự CS quốc tế cho BV giai đoạn 1969-1972 là 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-1975 là 649,246 tấn vũ khí coi như không thay đổi. Từ tháng 12/1974 Nga Sô đã viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp bốn lần hơn trước (Kissinger, Years of Renewal trang 481).

Nhìn sơ các con số và các dữ kiện trên chúng ta cũng đủ biết ai sẽ thắng , ai thua, về điểm này Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn có nói

Xin nhắc lại một lần nữa, nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ của Miền Nam là không có viện trợ (phương tiện chiến tranh)

(Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975, trang 406)

Cuối năm 1974 tình hình chiến sự ở Quân khu I  yên lặng được một thời gian, VNCH đẩy lui cuộc tấn công của BV vào đồng bằng Tây Nam Đà Nẵng, CSBV có lợi thế về địa hình, vì gần hậu cần miền Bắc, họ được bổ sung quân số và tiếp liệu thuận lợi. Từ tháng 6 cho tới cuối năm 1974 các lực lượng Quân đoàn I của VNCH bị tổn thất trong các trận giao tranh không được bổ sung nên quân số thiếu hụt. Quân khu 1 được chia làm hai khu Bắc và Nam, Bắc gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên dưới quyền Bộ Tư lệnh tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy, ba tỉnh còn lại Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi do Tư lệnh Quân đoàn Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trực tiếp chỉ huy.

Bố trí chủ lực quân VNCH như sau:

-Sư đoàn Nhẩy Dù vàTQLC, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ từ Bắc Thừa Thiên lên tới Nam sông Thạch Hãn kéo dài sang phía Tây Quảng Trị.

Lực lượng cơ hữu của Quân khu và các Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ các tỉnh còn lại:

- Sư đoàn 1BB và Liên đoàn 15 Biệt động quân đóng tại Thừa Thiên.

- Sư đoàn 3 BB và Liên đoàn 14 BĐQ đóng tại Đà Nẵng, Quảng Nam.

- Sư đoàn 2 BB và  hai liên đoàn 11, 12 BĐQ bảo vệ Quảng Tín, Quảng  Ngãi.

(Theo Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 751)

Các đơn vị yểm trợ gồm trên 10 tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn phòng không, một lữ đoàn thiết kỵ. Hải quân gồm các giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các duyên đoàn tại Cửa Việt, tại Thuận An, Tư Hiền… Sư đoàn 1 Không quân đóng tại Đà Nẵng. Quân số của Quân đoàn vào khoảng 90,000 chủ lực và 75,000 địa phương quân, nghĩa quân, số gồm cả thành phần không tác chiến. Đây chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế thì thấp hơn không được như vậy vì nhiều lý do.

Lực lượng Cộng sản tại Quân khu I chia hai địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các Tướng Lê Tư Đồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy. Theo tác giả Nguyễn Đức Phương  tại đây Bắc việt có 7 sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 2) và 3 Trung đoàn độc lập tổng cộng vào khoảng 8 sư đoàn (Sách đã dẫn trang 752).

Theo ông Cao Văn Viên, tại đây BV có 5 sư đoàn (341, 325C, 324B, 304, 711), 10 trung đoàn độc lập (52, 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 Trung đoàn đặc công (5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng hơn 8 Sư đoàn. Lực lượng cơ giới yểm trợ gồm 3 Trung đoàn xe tăng, 12 Trung đoàn phòng không, 8 Trung đoàn pháo binh (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 160).

Theo Nguyễn Đức Phương lực lượng địch tổng cộng vào khoảng 71,000 người. Bắc Việt có ưu thế về vũ khí đạn dược hơn VNCH rất nhiều, chủ lực quân coi như gấp hai.

Diễn tiến của mặt trận

Trong khi mở chiến dịch Ban Mê Thuột, CSBV tại Quân khu I cũng xâm nhập đánh phá các nơi để cầm chân quân đội VNCH như tại Quảng Trị, họ chiếm quận Hải Lăng Bắc Thừa Thiên, xâm nhập các xã ven biển Thừa Thiên. Phía Nam đánh các cao điểm của Sư đoàn I, tấn công tuyến sông Bồ nhưng bị đẩy lui bỏ lại 200 xác chết, tại Quảng Tín địch chiếm 2 quận Tiên phước, Hậu Đức ngày 10/3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ…

Ngày 11/3, sau khi CS tấn công chiếm Ban mê Thuột một ngày, Tổng thống Thiệu triệu tập phiên họp tại Dinh Độc Lập, có mặt Thủ Tướng  Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. TT Thiệu cho biết trước tình hình khó khăn do quân viện bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta chỉ có thể giữ được Quân khu III,  Quân  Khu IV và một vài tỉnh duyên hải  QK I và QK II, QK I  chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 129, 130, 131)

Trong lúc tình hình quân sự có vẻ không thuận lợi cho ta thì theo yêu cầu của TT Thiệu, Bộ TTM lệnh cho Tướng Trưởng trả Sư đoàn Nhẩy Dù về Trung ương.

Ngày 13/3 TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng về Sài Gòn họp Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết tình hình khó khăn do cắt giảm quân viện, ông không tin Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công miền Nam nên phải tái phối trí lực lượng, rút quân bỏ những miền cao nguyên rừng núi để giữ những vùng mầu mỡ còn hơn đứng chung chính phủ Liên Hiệp với Cộng Sản.

Ngày 14/3 Tướng Trưởng về Quân đoàn I họp tham mưu, thảo luận kế hoạch  tái phối trí, Nhẩy Dù sẽ rút về Sài Gòn, hôm sau Liên đoàn 14 BĐQ nhận vùng trách nhiệm của Lữ đoàn TQLC 369 tại Quảng Trị để Lữ đoàn này về Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC sẽ chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để bảo vệ Huế.

Ngày 17/3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hãi đã di tản ồ ạt trên quốc lộ Một từ mấy ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối trí.

Ngày 18/3 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng Trưởng biết sẽ không tăng viện Quân khu I vì tình hình Quân khu III nghiêm trọng, Việt Cộng đánh Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long Khánh, Bình Tuy…

Ngày 19/3 Tướng Trưởng được triệu về Sài Gòn họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước nhưng có thêm Phó tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng trình bầy hai kế hoạch lui binh:

Kế hoạch Một:  các đơn vị sẽ theo Quốc lộ Một từ Huế, Chu lai về Đà Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một bị cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.

Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng là điểm phòng thủ chánh, điểm tựa cuối cùng, Tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch và gây tổn thất tối đa cho Việt Cộng, ông Thiệu cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Ông Cao Văn Viên cho rằng kế hoạch của Tướng Trưởng là hợp lý.

“Kế hoạch lui quân của Quân đoàn 1 soạn thảo rất hợp lý và đầy đủ, gồm kế hoạch dự phòng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như Kế Hoạch Hai dự trù và các đơn vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ còn hai hành động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu tình thế bắt buộc. Như vậy vào thời điểm trên, đâu còn cần đến kế hoạch dự phòng nào khác”

(Những Ngày Cuối Của VNCH Trang 163)

Thật ra kế hoạch nghe thì hay nhưng thực hiện được lại không phải dễ, thực tế rất phũ phàng, BV tấn công gấp rút, dân chúng di tản làm náo loạn khiến binh sĩ mất tinh thần. TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng cố gắng giữ được tất cả những phần đất có trong tay sau đó ông bảo Tướng Quang soạn bài hiệu triệu trên đài phát thanh Huế để trấn an dân chúng, quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt thoái mà chỉ là kế hoạch co cụm để giữ đất.

Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, liên đoàn 14 BĐQ  rút về bên này Mỹ chánh lập phòng tuyến mới. Cộng quân bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo Tướng Hoàng Lạc, Giám mục Phạm Ngọc Chi địa phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim Điền khuyên không nên đổ máu vô ích vì các siêu cường đã sắp đặt cả rồi.

Sáng 20/3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. Tình hình mặt trận tương đối còn tốt đẹp, các đơn vị hoàn hảo, tinh thần  cao duy trì được kỷ luật, ai nấy đồng lòng tử thủ, dân chúng di tản nhiều. Tướng Trưởng lạc quan khi thấy Huế phòng thủ tốt. Trưa hôm đó ông Thiệu đọc hiệu triệu dân trên đài phát thanh Huế. Đến chiều khi về tới Đà Nẵng TướngTrưởng nhận được lệnh của dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, ông Thiệu lý luận Quân đoàn I không đủ lính để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng. Tướng Trưởng được quyền tùy cơ ứng biến.

Quân khu I ngày một nguy ngập, Cộng quân đã bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng kìm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới Quảng Ngãi đánh lên, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng, từ Quảng Nam Quảng Ngãi kéo lên. Ngày 21/3 địch tấn công Phú Lộc, áp lực mạnh trên Quốc lộ Một, dân tản cư đông như kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư đoàn I VNCH có pháo binh và không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công của BV nhưng họ có ưu thế về lực lượng nên Sư đoàn 1 cầm cự đến trưa ngày 22 thì thất thủ, Trung đoàn 1 BB (SĐ1) và Liên đoàn 15 Biệt động quân bị đẩy lui, một khúc đường Quốc lộ Một bị cô lập, Trung đoàn I bị thiệt hại nặng, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến phòng thủ Huế.

Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23/3 Việt Cộng pháo kích Huế rời rạc không gây thiệt hại gì nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng náo động như hỗn loạn. Tại phía Nam Vùng Một tình hình nguy ngập khi  quận Hậu Đức, Tiên Phước thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, Sư đoàn 2 và Liên đoàn 12 BĐQ chặn được áp lực địch tấn công về Tam Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn dập của Cộng quân Tướng Trưởng ra lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng Quảng Ngãi, những tiền đồn xa tiếp tế cũng được di tản, Tướng Trưởng cho gom các lực lượng rời rạc lại để bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối cùng. Sự chỉnh đốn của Tướng Trưởng đem lại chút bình yên gượng gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín trong 2 ngày.

Sáng ngày 24/3 tại phía Nam Quân khu 1, BV tấn công mạnh tại Quảng Tín, Sư đoàn 711, Trung đoàn 52 BV và xe tăng đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa thì Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 VNCH từ Quảng Nam được lệnh tiến về Quảng Tín để giúp Địa phương quân  chạy từ Tam Kỳ về. Tam kỳ mất, dân ùn ùn chạy về Đà Nẵng. Tại Quảng Ngãi Cộng quân tấn công dữ dội, đặc công và địa phương quân Việt Cộng tại Quảng Ngãi tấn công phi trường, các cơ sở hành chánh quân sự Quảng Ngãi. Đường Quốc lộ Một từ Quảng Ngãi tới Chu lai bị cắt đứt, đường ra biển bị cô lập, chỉ trong một ngày tình hình Quân khu 1 rối loạn đến mức không còn kiểm soát được nữa. Quân đoàn chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngãi mở đường máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài đơn vị về được.

Ngày 25/3 tất cả các đơn vị Quân đoàn I tụ lại 3 phòng tuyến chính: Chu Lai phía nam, Đà Nẵng ở giữa và Huế phía Bắc, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về các phòng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản chưa bao giờ trong đời chinh chiến họ thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong tình thế khó khăn Tướng Trưởng lại nhận thêm một lệnh nữa từ dinh Độc Lập, TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng dùng ba Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3 để phòng thủ Đà Nẵng, Sư đoàn TQLC đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng cho Sư đoàn I và các đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho Sư đoàn 2,  Chi khu Quảng Ngãi và thân nhân của họ rút ra Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương vận hạm đón Sư đoàn 2 tại Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc vận chuyển thành công hơn mặc dù có hỗn loạn nhưng một nửa quân số của Sư đoàn 2  đã lên tầu đưa về Bình Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25/3.

Các lực lượng Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Hải quân và công binh sẽ bắc cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân.  Sáng ngày 26/3 biển sóng to làm đình trệ cuộc vận chuyển, cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ chưa hoàn tất. Đến trưa thủy triều dâng cao không thể vượt biển được trong khi ấy Cộng  quân đuổi theo nã pháo vào cửa Tư Hiền và các địa điểm tập trung gây nhiều thiệt hại, hỗn loạn diễn ra không còn quân kỷ, Sư đoàn I tan rã tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ rã ngũ đi tìm thân nhân.

Trong khi đó thì Lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận hạm.

Sư đoàn 325 CS chuyển vào Quảng Nam phối hợp với sư đoàn 304 CS  tấn công Đà Nẵng, Sư đoàn 2 CS cũng tiến về thành phố. Quân đội VNCH lập phòng tuyến phòng thủ bảo vệ Đà Nẵng, phía Tây 2 lữ đoàn TQLC, phía Nam Sư đoàn 3 và ĐPQ Quảng Nam. Ngày 27/3/1975 các cuộc phòng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn, Cộng quân dồn nỗ lực bao vây thành phố. Từ bắc Đà Nẵng hai Sư đoàn 324B và 325C CSBV cùng với Trung đoàn xe tăng và hai Trung đoàn pháo tiến dọc theo thung lũng Voi bao vây thành phố. Phía Nam Sư đoàn 711, 304 BV tiến chiếm Đại Lộc và Dục Đức, Đà Nẵng đã nằm trong tầm pháo của quân thù. Tại thành phố lớn thứ hai của miền nam này Quân đoàn I chỉ còn có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đã bị rã ngũ trên đường triệt thoái, một phần đã được tầu chở ra khơi, lực lượng không đủ để đương đầu với áp lực quá đông của BV, lại nữa thành phồ với hằng triệu người tỵ nạn đã trở nên hỗn loạn không thể  nào kiểm soát được.

Sáng ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng họp khẩn cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không còn đủ quân tác chiến để thực hiện kế hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung vào các đơn vị tác chiến nhưng không đủ để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây ra. Trưa 28/3  Phòng 2 thuộc Bộ TTM cho Quân đoàn I biết Cộng quân có thể tấn công trong đêm, Sư đoàn I Không quân được lệnh di tản về Phù Cát, Phan Rang, Quân đoàn I ban lệnh ứng chiến tại các tuyến phòng thủ. Hai giờ trưa các xã ấp quanh Đà Nẵng đã lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân, nghĩa quân tan rã, binh sĩ rã ngũ rời đơn vị.

CSBV pháo phi trường, căn cứ Hải quân khi trời vừa tối rất dữ dội và chính xác nhờ những toán đặc công, tiền pháo viên chỉ điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng vội báo cáo về Bộ Tổng tham mưu và gọi cho Tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Tướng Thiệu không ra lệnh rõ ràng chỉ hỏi vu vơ nếu di tản thì có thể được bao nhiêu. Pháo kích của BV khiến cho liên lạc giữa Sài Gòn và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ huy để hẹn địa điểm rút quân tại  chân đèo Hải Vân , núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.

Rạng sáng ngày 29/3/1975 sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tầu đã có mặt ở điểm hẹn, thủy triều thấp tầu không vào bờ được, binh sĩ phải lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi BV phát hiện bèn pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây nhiều thiệt hại, đoàn tầu di tản được khoảng 6,000 TQLC, 3,000 lính Sư đoàn 3 và nhiều đơn vị khác.

Đà Nẵng được coi như thất thủ ngày 29/3/1975. Có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng. Năm 1976 Tướng Trưởng trả lời một cuộc phỏng vấn cho biết khoảng 6,000 TQLC, non nửa lực lượng của Sư đoàn và 4,000 quân thuộc các binh chủng khác đã được tầu bè cứu thoát. Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh Sư đoàn 3 cho biết trong số 12,000 người của Sư đoàn 3 chỉ có 5,000 đến được điểm tập trung và sau cùng chỉ có 1,000 người lên được tầu. Tổng cộng có 70,000 người dân được cứu thoát và 16 ngàn lính, 4 Sư đoàn kể cả TQLC bị thiệt hại nặng nề không thể gọi là đơn vị chiến đấu được nữa. Tất cả quân trang quân dụng, vũ khí, xe tăng đại bác… của Quân khu I coi như mất hết.

Quân khu I thất thủ một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh chận hậu, đánh trì hoãn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn được coi tồi tệ hơn so với Quân đoàn II, hỗn loạn gấp bội phần, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn cuộc triệt thoái tại Tây nguyên nhiều.

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

67 Phản hồi cho “Cuối tháng 3/75 tuyến đầu thất thủ [1]”

  1. NV Al Hoàng thăm Giáo xứ Cồn Dầu says:

    Sáng thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013, sau khi thămTGM Châu Ngọc Tri, đoàn dân cử Houston đã đến giáo xứ Cồn Dầu và được gặp vị linh mục chánh xứ là cha Vũ Dần để hỏi thăm ngọn ngành về vụ tranh chấp đất đai Cồn Dần mà người ở hải ngoại rất quan tâm

  2. Ao Anh Maucoua says:

    “Tại Vn k có tự do tôn giáo” vậy tại sao nhà thờ, chùa, cơ sở thờ tự mọc lên như nấm, đất tôn giáo không bị thu thuế, nhà thờ TCG tọa lạc ở những vị trí đẹp nhất ở các đô thị. Và nhiều nhà thờ, chùa được công nhận, xếp hạng là di tích văn hóa, lịch sử.

    • Nguyen Trong Dan says:

      @ Ao Anh Maucoua

      Ba sạo hoài….

      Nhà thờ mọc lên như nấm HẦU HẾT là được xây trước khi CÔNG SẢN NẮM QUYỀN LỰC tại miền Bắc & trước khi năm 1975 tại miền Nam

      Có rất nhiều Chùa chiền, miếu đình đã bị tịch thu từ năm 1978….

      Đây là vấn đề rất hay… Sẽ bàn tiếp nếu có dịp…với nhiều bằng chứng rất cụ thể…

      Kính bày

  3. tàu cá QNg 96382 says:

    Tàu cháy nhưng quyết không để cháy cờ Tổ quốc

    Đó là khẳng định của ngư dân tàu cá QNg 96382 khi kể lại những phút giây sau khi bị tàu tuần tra Trung Quốc bắn cháy nóc cabin tại quần đảo Hoàng Sa.

    Sáng 24/3, sau hai ngày neo tạm tại đảo Lý Sơn, tàu cá QNg 96382 cập cảng Sa Kỳ (xã Bình Châu, Bình Sơn, Quảng Ngãi) để sửa chữa hư hại, sau khi bị tàu Trung Quốc bắn cháy nham nhở. Đồng thời, tìm cách bán 76 con hải sâm còn lại trên tàu với hy vọng vớt vát chút vốn liếng.

    Cuốn cờ vào ngực

    Anh Bùi Văn Phải, chủ tàu cá QNg 96382, và thuyền trưởng Phạm Quang Thạnh cháy đen sau chuyến đi biển. Anh Thạnh kể: Khoảng 8h15 sáng 20/3, khi đang lặn bắt hải sâm ở tọa độ 16o34 N – 112037 E thuộc Hoàng Sa, tàu QNg 96382 gặp tàu ngư chính Trung Quốc mang số hiệu 786.

    Thấy tàu Trung Quốc tăng tốc hướng về phía mình, anh Thạnh cho tàu chạy. Khoảng 30 phút sau, tàu này áp sát được tàu QNg 96382. Anh Thạnh gọi 7 anh em thuyền viên ra trước mũi tàu ngồi. Ngồi trong cabin chỉ còn anh Thạnh và anh Phải điều khiển tàu.

    “Chúng tôi ngồi trước mũi tàu để tàu Trung Quốc thấy rõ mình không có hành động chống trả, không có vũ khí. Khi tàu áp sát khoảng 20m thì tàu Trung Quốc nổ liền 4 – 5 phát súng vào cabin, ca bin bốc cháy dữ dội”, anh Phải kể.

    Khi lửa bốc cao thiêu cháy cabin, anh em thuyền viên ai nấy đều hoảng sợ, nhưng anh Thạnh vẫn hết sức bình tĩnh, hô hào anh em múc nước biển dập lửa. Anh Thạnh và anh Phải liều mình lên cabin xối nước vào đám cháy, dù biết bên trong có 4 bình gas có thể phát nổ bất cứ lúc nào.

    “Phải dập tắt lửa trước, nếu 4 bình gas phát nổ thì anh em chết hết”, anh Phải nói. Lá cờ Tổ quốc ở nóc cabin, lửa bén gần tới nơi, anh Phải liều mình lao vào vừa dập tắt lửa vừa cuộn nhanh lá cờ không để lửa cháy. Đám cháy dập tắt, lá cờ được cắm trở lại trên nóc cabin còn lại bộ khung.

    “Anh em ngư dân chúng tôi mỗi lần ra biển đều tâm niệm rằng, cờ Tổ quốc phải luôn ở nóc tàu để khẳng định chủ quyền biển đảo và đúng với quy định quốc tế. Tàu cháy, nhưng quyết không để cờ cháy”, anh Phải quả quyết.

    • Trần Tưởng says:

      Mai mốt tàu Trung Cộng bắn vào Ba Đình thì sao ? Không lẽ cuốn cái xác thối kia vào
      ngực ,rồi chạy !!!

      Hồi trước ,nghe các anh VC nhà ta đánh giặc nái Mỹ hay lắm mà , bắn rơi hàng trăm 
      chiếc B-52 tối tân của đế quốc Mỹ . Bây giờ, chỉ có mấy chiếc tàu hải giám quèn của Trung
      Cộng ,mà phải chịu bó tay ! Thế lày nà thế lào  ??!!!

  4. nvtncs says:

    Tại Sao Miền Nam Thua?

    Trong một gia đình, khi kẻ cướp đập cửa vào nhà mà vợ chồng, con cái trong nhà tiếp tục cãi nhau, rồi người trong nhà lại lăm le mở cửa cho kẻ cướp vào thì số phận gia đình này ra sao?

    TT Abraham Lincoln nhận xét:
    A house divided against itself cannot stand.
    Một nhà, trong đó có sự chia rẽ, không thể đứng vững.

    Câu này trí thức miền Nam và lũ quân phiệt, hoặc chưa đọc, hoặc chưa hiểu, nhận xét đó hoàn toàn đúng khi nói đến miền Nam trước 1975, và vẫn đúng với tình hình nước ta ngày nay trước sự đe dọa của Tầu cộng. Dĩ nhiên, CSVN còn đó, thì dân ta chưa thể đoàn kết để chống Tầu.

    Một người thường dân, với một trí thông minh và một trình độ học vấn sơ đẳng, như một bác đạp xích lô miền Nam trước 1975 cũng hiểu biết điều này.

    Thế nhưng tại sao lũ quân phiệt, “tướng” chính trị, “tướng” đảo chính, tướng ngồi lâu lên lon, tướng bàn giấy, lại không biết? Tại sao lũ trí thức đầy bằng Tây cấp, không biết?

    Cũng dễ hiểu thôi: Tại vì quyền hành, tiền bạc, đàn bà làm chúng nó mất hết lý trí, vì chúng quá tầm thường.
    Lũ trí thức thì kiêu căng, học để làm quan, biết một khía cạnh hẹp hòi của sạch vở và rất ít về đời sống thực tế, mà tưởng mình giỏi. Một số trí thức coi những triết gia Tây thiên tả, như thánh sống.
    Quyền hành, danh và tiền làm quá nhiều nhân vật mật thăng bằng, mất trị khôn, mất luân lý; nếu ta đưa tiền, quyền và danh lợi đến với các bác xích lô, họ cũng cư xử như lũ trí thức, quân phiệt thôi.

    Trong tất cả những nhân vật Nam VN chỉ có ông Diệm thật lòng yêu nước hơn yêu mình, trong sạch và không dính líu với đàn bà; đó là những đức tính hiếm và lớn.

    Còn lũ kia, chúng nắm vận mện dân nước trong tay thì lại quá tầm thường.

    Dân thành thị miền Nam, lũ sư, lũ sinh viên, học sinh thì sao?Thành phần này là thành phần ưu tú của miền Nam, nhưng họ cận thị, nóng nẩy, nông cạn, không kiên nhẫn, xuống đường biểu tình. Chúng thiếu bình tĩnh, thiếu sáng suốt và và không nhìn thất tất cả tình hình toàn vẹn của đất nước.

    Lũ sinh viên phải tự đặt những câu hỏi sau đây, trước khi xuống đường:
    - Ở trong Nam ta có quyền biểu tình; ngoài Bắc dân có dám biểu tình như ta không?
    - Ta biểu tình cuối cùng có lợi cho ai?
    - Nếu ta biểu tình thành công, kẻ thay thế chế độ hiện tại, có triển vọng khá hơn không?
    - Giữa NĐDiệm và HCMinh, ai nguy hiểm cho dân tộc, đất nước hơn? Và như vậy ta PHẢI chọn ai, một trong hai người này?
    - Ta có nên triệt để ủng hộ Diệm hiện giờ, và dành hết sức lực dẹp giặc CS Bắc Việt trước đã; sau này, khi Nam Việt vững chắc, ta sẽ lo truyện thay thế Diệm.
    Vì Gĩữa Diệm và HCMinh-CSVN, Diệm dễ thay thế hơn.

    Chiến tranh của CSVN là một chiến tranh toàn vẹn ( total war ): chiến tranh chính trị, tuyên tryền, tình báo, tâm lý, đánh trên khắp thế giới và lấy được thiện cảm của rất nhiều nước, tuy CSVN chỉ là một lũ ăn cướp, nhưng chúng giữ được cái bề ngoài chống đế quốc Mỹ, chiến tranh khủng bố. Trong khi đó VNCH chỉ lo đếm xác chết địch và chỉ quan tâm đến chiến tranh quân sự.

    Miền Nam, sau Diệm, không có một chính phủ nghiêm chỉnh, vững bền, trong sạch, thiều người tài: NVThiệu lo củng cố địa vị, vây cánh, thích làm vua, nước đến chăn mà vẫn ôm khư khư cái ngai vàng, lo việc nước ít, lo việc giữ chức thì nhiều.

    Cuộc rút lui từ BMThuật về miền duyên hải do Thiệu ra lệnh, cho thấy Thiệu không học được bài học của sự thất bại quân Pháp trong trận Cao Bằng-Lạng sơn năm 1950 trên quốc lộ thuộc địa 4, route coloniale 4.

    Tại sao Mỹ dẹp được giặc Tầu cộng, giặc Bắc Hàn trong trọn 3 năm ( 1950-1953 ), mà trái lại, không giữ được miền Nam, sau 20 năm? Lỗi tại Mỹ chăng? Súng ống Mỹ, B52 Mỹ còn tối tân hơn lúc thập niên 1950 trong chiến tranh Tiều Tiên cơ mà.
    Tại vì ở Nam Hàn không có MTGPMN, không có TTQuang, không có TCSơn, không có NVThiệu, không có hội Phật giáo xuống đường. Họ đồng lòng chống CS Bắc Hàn trước đã; lãnh đạo Park Chung Hee của họ còn độc tài hơn Diệm, nhưng họ không xuống đường khi quân Bắc Hàn còn đang tấn công họ.

    Hãy lấy một thí dụ nhỏ về tư cách Thiệu, lúc thua không những không biết tại sao mình thua, đổ lối cho Mỹ, lại còn, trong giờ nghiêm trọng của đất nước, không nhận lỗi mình trước hết, còn nói tiếng Tây! Như thế có xứng đáng là lãnh đạo VN không? ( Je suis responsable mais pas coupable: tôi nhận trách nhiệm nhưng không phải lỗi của tôi ). VNGiáp cũng thế, sính Tây lắm, trã lời phỏng vấn ngoại quốc, nói tiếng Tây thoăn thoắt. Khi ta làm lãnh đạo, ta cứ nói tiếng nước ta, thông dịch viên dịch sai, ta chữa cho thông dịch viên.

    Tôi chỉ là một phó thường dân VN, một nạn nhân cuộc chiến tranh vừa qua, trách móc lũ cầm quyền Nam như Bắc, dốt nát, để cáng, làm khổ dân tộc. Tôi may mắn không chết nhưng gia đình tôi, cũng như hầu hết các gia đình VN, có nhiều người đã chết trong cuộc chiến tranh vừa rồi.
    Chúng nó có quyền mà làm sai hỏng, nát bét đất nước ra, thì chúng phải nhận trách nhiệm.

    Tuy tôi vạch những khuyết điểm của miền Nam, nhưng thà rằng ủng hộ Thiệu chống giặc CS Bắc Việt còn hơn một nghìn lần theo thằng CSVN. Tiếc thay Thiệu tồi quá.

  5. Dohuu Vinh says:

    Mồ mã những người lính VNCH vẫn còn đó ,đất đai lãnh hải VN vẫn còn đó thì chứng tỏ nhà nước ta rất là rộng lượng và chuyện bán đất ,bán biển chỉ là ác tâm hèn hạ của kẻ thù .Mong rằng người Vn ở khắp nơi hãy đoàn kết ,đồng lòng thì đất nước ta sẽ cường thịnh dân ta mới giàu mạnh

    • Nghịch Nhĩ Thường says:

      Muốn đất nước ta cường thịnh, dân ta giàu mạnh thì người Vn ở khắp nơi hãy đoàn kết lại để tiêu diệt kẻ hại dân bán nước là CSVN.

      chuyện bán đất ,bán biển chỉ là ác tâm hèn hạ của kẻ thù” hay là tại những kẻ mù lương tâm, mãi chúi đầu vào ‘máng’ lợi ích do VC ban phát cho, nên không biết, không thấy hở ông Dohuu Vinh?

  6. hoang như quynh says:

    Black April-Thang tư Đen”hay còn gọi là Ngày Quốc Hận ,Môt trang sử đau buồn ,một vết nhơ không thể xoá của nguoi Việt,Được đánh dấu bằng việc CS miền Bắc khởi xướng cuộc chiến tranh HUYNH ĐẸ TƯƠNG TÀN sau Hiệp đinh Genever 1954
    So với Triều Tièn có hoàn cảnh tương tự, Cong Sản Bắc Hàn tuy hiếu chiến nhưng từ sau Hiep đinh Bàn Môn Điếm phân chia hai miền, họ đà không khởi đông cuoc chien huynh đệ tuong tành như CS VN đã lảm
    So ra CS Việt Nam ngu hơn STUPID hơn CS Bắc Hàn

  7. Nghị viên HDH says:

    Chiều ngày 23 tháng 3, 2013, theo sự hướng dẫn của UBVNVNONN, đoàn dân cử Houston do nghị viên Hoàng Duy Hùng dẫn đầu đã đến thăm Đền Hùng, thuộc tỉnh Phú Thọ. Tại đây, đoàn đã được Ban giám đốc Bảo tàng Đền Hùng tiếp đón, giới thiệu khu di tích Đền Hùng thật chu đáo. Nghị viên Hoàng Duy Hùng cũng đã trả lời nhiều đoàn báo chí như VTV, Quê Hương, Việt Weekly về cảm nhận ủa chuyến viếng thăm đầu tiên khi đặt chân lên Việt Nam hôm qua, ngày 22 tháng 3, 2013. Nghị viên Hoàng Duy Hùng cho biết, ông rất cảm động khi được về thăm lại đất thiêng Đền Hùng, nơi xuất phát điểm của những người con anh hùng làm rạng danh đất nước. Trả lời báo Việt Weekly, nghị viên Hùng cho biết, những khác biệt về mặt chính kiến, chính trị sẽ dần dà được rút ngắn lại, nếu mọi người con dù ở trong hay ngoài nước hướng về đất Tổ. Đoàn đã được Sở Ngoại Vụ tỉnh Phú Thọ mời cơm sau chuyến tham quan đặc biệt này.
    Etcetera

    • dancali says:

      Mấy tháng trước Ông Nghị này tiếp Ông Nguyễn Thanh Sơn ngay tại Houston đã bị mấy người Việt què đến cổng nhà la hét om sòm, kỳ này khi ông quay lại HK chắc mấy người ăn vạ chuyên nghiệp lại VACOVA đến thăm hỏi, chúng ta lại được xem hài kinh dị miễn phí, chờ xem ha bà con!

  8. Nguyen Trong Dan says:

    NGỤY QUYỀN CỘNG SẢN HÀ NỘI nhận viện trợ của NGOẠI BANG như thế nào?

    A . VIỆN TRỢ TÍNH SƠ SƠ CỦA CỘNG SẢN LIÊN XÔ CHO NGỤY QUYỀN CỘNG SẢN HÀ NỘI để đánh lại Việt Nam Cộng Hòa nhằm Cộng Sản Hóa NHÂN DÂN VIỆT NAM :

    1. 1965-1968,
    Mùa khô 1965-1966 và 1966-1967:
    100 khẩu súng chống tăng,
    500 súng cối các loại,
    400 dàn pháo phản lực và
    45 chiếc máy bay chiến đấu”
    Tính ra, “Liên Xô đã cung cấp 500 triệu rúp trang thiết bị cho lực lượng quân sự Bắc Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu USD)”

    2. 1969-1972,
    Chỉ riêng năm 1969, giá trị hàng viện trợ quân sự lên tới 1,1 tỷ rúp.
    Riêng năm 1966, có 2.600 sĩ quan Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô.

    3. 1973-1975, Liên Xô chuyển sang Việt Nam 65.601 tấn hàng hậu cần và trang bị vũ khí, kỹ thuật. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo cho Cộng sản NgụY QuYền Hà Nội đẩy mạnh các hoạt động quân sự

    4. Liên Xô cũng không ngừng viện trợ kinh tế cho Việt Nam.
    Riêng năm 1965-1966, Liên Xô đã chuyển sang Việt Nam khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 385 triệu rúp
    Trong năm 1968, Liên Xô đã viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam ước tính khoảng 543,3 triệu rúp (tương đương với 608,1 triệu USD)

    Năm 1973, Liên Xô đã xoá cho Việt Nam các khoản nợ cũ từ năm 1973 trở về trước (khoảng 1,3 tỷ rúp). Trong những năm 1974-1975, Liên Xô ĐÃ VIỆN TRỢ MỌI MẶT VỀ KINH TẾ CHO NGỤY QUYỀN CỘNG SẢN HÀ NỘI “YÊN TÂM” CHUẨN BỊ TẤN CÔNG VIỆT NAM CỘNG HÒA
    **************************
    B. NHƯNG NHỮNG VIỆN TRỢ TRÊN TỪ LIÊN XÔ KHÔNG…NHIỀU GHÊ RỢN BẰNG VIỆN TRỢ CỦA TÀU BÀNH TRƯỚNG CHO TẬP ĐOÀN NGỤY QUYỀN CỘNG SẢN LÊ CHIÊU THỐNG Ở HÀ NỘI để đánh lại Việt Nam Cộng Hòa nhằm Cộng Sản Hóa NHÂN DÂN VIỆT NAM :

    Giai đoạn 1955-1960: Trong Tổng số 49,585 tấn :Trung Quốc viện trợ 19,589 tấn.

    Giai đoạn 1961-1964: TrongTổng số 70,295 tấn ( gồm 230 tấn hàng hậu cần, 70,065 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật,) Trung Quốc 22,982 tấn,

    Giai đoạn 1965-1968: Tổng số 517,393 tấn, trong đó Trung Quốc 170,798 tấn ,

    Giai đoạn 1969-1972: Tổng số 1,000,796 tấn gồm 316,130 tấn hàng hậu cần, 684,666 tấn hàng vũ khí, trang bị kỹ thuật , Trung Quốc 761,001 tấn !!!!! ( gấp 7 lần giai đoạn trên)

    Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724,512 tấn gồm 75,267 tấn hàng hậu cần , 649,246 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật, Trung Quốc : 620,354 tấn,

    CHI TIẾT Về chủng loại vũ khí, đạn dược và phương tiện chiến đấu:

    Súng bộ binh : Trung Quốc 2,227,677 khẩu,
    Súng chống xe tăng : Trung Quốc 43,584 khẩu,
    Súng cối các loại : Trung Quốc 24,134 khẩu
    Máy bay chiến đấu Trung Quốc 142 chiec

    NHƯ VẬY

    Trong giai đoạn 1965-1968 VIỆN TRỢ Liên Xô chiếm 44%, Trung Quốc chiếm 33%,
    Trong giai đoạn 1969-1972 Liên Xô chiếm 14%, Trung Quốc 76%,
    Trong giai đoạn 1973-1975 Liên Xô chiếm 9%, Trung Quốc 86%.

    Như thế trong hai giai đọan cuối của cuộc chiến tranh, ĐẠI HÁN TÀU BÀNH TRƯỚNG đóng vai trò chủ chốt trong quân viện cho CHO TẬP ĐOÀN NGỤY QUYỀN CỘNG SẢN Ở HÀ NỘI, khối hàng viện trợ của họ chiếm đa số từ 1969—1975 !!!

    CHẲNG TRÁCH GÌ NGÀY NAY BÁC PHÙNG QUANG THANH TUYÊN BỐ ĐẢNG CSVN & NHAN DÂN VIỆT NAM ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN… TÀU BÀNH TRƯỚNG

    ( không có Qua trong đám…nhân dân do Hán Gian Phùng Quang Thanh tưởng tượng ra đó )

    Việt Nam Cộng Hòa nhận viện trợ của Xứ Tự do Dân chủ như MỸ để chống lại Chủ nghĩa …. CỘNG SẢN SÁT HẠI NHÂN LOẠI…được toàn thế gioi thừa nhận

    CÒN NGỤY QUYỀN CỘNG SẢN HÀ NỘI NHẬN VIỆN TRỢ CỦA TÀU BÀNH TRƯỚNG ĐỂ TOÀN DÂN TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI , ” thờ Mao , thờ Stalin bất diệt…”

    NGỤY QUYỀN CỘNG SẢN HÀ NỘI NHẬN VIỆN TRỢ CỦA TÀU BÀNH TRƯỚNG ĐỂ chống lại NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÔNG CỘNG SẢN !

    HAY HO GÌ MÀ CỨ KÊU GÀO GIẢI PHÓNG !

    ĐÃ LÀ NGƯỜI VIỆT NAM THÌ DỨT KHOÁT KHÔNG LÀ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VỚI BẤT CỨ LÝ DO GÌ !

    Chỉ thoáng vài năm …Cộng vội tàn
    Thắng thua vinh nhục sẽ đổi trang
    TỰ DO DÂN CHỦ CÙNG CÔNG LÝ
    Tươi rói trời Nam giống Việt vàng …

    ( KHÔNG TIN THÌ CỨ MỞ MẮT RA XEM….)

  9. dung saigon says:

    Chi còn it ngày nữa là buoc sang thãng Tư,năm 2013″ tức là đúng 38 năm sau ngày Mien Nam VN bị giai phóng, Tôi nói thế vì gần ngót 40 năm THỐNG NHẤT ĐẤT NUOC CHO BẰNG ĐƯỢC hai miền Nam Bắc VN bằng vủ lực do miền Bắc CS khởi xướng. dân tộc VN đã phải trả giã quá đắt bởi hàng triệu thanh niên hai miền Nam Bắc VN bỏ mạng cùng sự tàn phá huy diệt tàn bạo do chiến tranh mà hậu quả thảm khốc về nhieu mặt cho đến nay vẩn còn dai dẳng không thể kể hết được…
    Củng có hoàn cảnh giọng VN và bị phân chia 2 miền ( Hiệp đinh Bàn Môn Điếm 1954) NamTrieu Tiên theo Tự Do,dưới sự bảo vệ của 28000 quân Mỹ và Bac Trieu Tien theo CS chia đôi theo vì tuyến 38, ( VN chi đôi hai mien theo hiep đinh Genever 1954),
    Do khòng có chien tranh nên Hàn Quốc phát trien kinh tế giau có và hiện tai là quốc gia đứng trong top 10 kinh tế thế gioi, Chiến tranh VN môt bài học đau buồn cho dân Việt là liều” thuốc bổ”qui giá cho Han quoc trong việc quyết tâm bảo vệ đất nnuoc cua minh…

  10. Sự Thật says:

    Quân xâm lăng Trung cộng đã vào đầy nhà, nhưng Việt cộng thì cứ tiếp tục hát lại bài hát tuyên truyền rẻ rúng năm xưa, mặc cho quân Tàu hoành hành 86 triệu dân Việt trong nước!
    Việt cộng, những con chó đói, đến như được làm đầy tớ cho Trung cộng man rợ cũng là vinh dự lớn lao lắm rồi! Nói chuyện sự thật, lẻ phải, dân tộc, giống nòi, tiến bộ xã hội, Tự Do, Dân Chủ, văn minh con người với bọn người như thế này chỉ uổng lời.
    Tờ báo nào cho đăng lời của bọn người như thế trước công luận tờ báo ấy nếu không là của Việt cộng thì cũng là báo chỉ để mua vui bằng những câu chuyện rẻ tiền và người chủ của tờ báo ấy rõ ràng là chưa ý thức được vai trò làm báo và sự góp phần của báo chí trong việc phát triển xã hội, đất nước, mà trong giai đoạn thập phần lâm nguy của VN hiện nay là cần mau chóng cứu nguy cả 86 triệu người VN trong nước ra khỏi bàn tay kinh khiếp của cộng sản Tàu xâm lược.

Leave a Reply to Nguyen Trong Dan