WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Viết cho ngày 01 tháng 11

Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.

Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.

Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đỡ? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.

Sau khi quân đội Pháp đầu hàng ở  Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xảy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nửa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.

Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào  Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu cơ quan quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.

Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

“… Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với báo chí như sau: “Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả những vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình”.

Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.

Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.

Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”, và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.

Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ” nhưng “nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cử dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẵn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.

Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.

Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo  rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay “dụ dỗ di cư”. Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” (Sic). Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rõ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do; đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.

Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy  rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rõ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.

Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam

Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.

Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.

Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1.200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.

Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2.000 đến 4.200 người di cư tới. Tổng kết là 4.280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là “tàu há mồm”, tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan… giúp được 555.037 người “vô Nam”.  Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.

Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.

Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”.  Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này,  trách sao chúng tôi không phải trả giá.

Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những kẻ phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước… Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rứt trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sống lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.

Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời, đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.

Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ.

© Nguyễn Thu Trâm

© Đàn Chim Việt

163 Phản hồi cho “Viết cho ngày 01 tháng 11”

  1. May Vu says:

    GIÁNG SINH tháng 11 cho Cụ DIỆM ? Điểm qua các báo mạng CG và tờ báo chủ lực Miền Pro HOÀI NGÔ như Ba cay Truc ,Saigon Echo, NVCL v.v đang HỒ HỞ VUI MỪNG giổ cho Cụ ,có lẻ trên 10 năm vận động lấy lại THANH DANH đả mất 63 ,và tiềm tàng trong đệ 2 VNCH kéo lại ,nhưng không thành công vì khối bên LƯƠNG và PG đông đảo ,nhưng ra Hải ngoại số CGVN di tản TN khắp trên Thế giới có lẻ trên 60 % ,cộng thêm THÀNH CỘNG HỘI CHỢ ,MÚA LÂN ,CA NHẠC ,RA SÁCH BÁO v.v Nên quỷ nhà Thờ ,ho Đạo,và quỷ Pro HOÀI NGÔ dồi dào giống như KINH TẾ TRUNG QUỐC thặng dư TẮC OAI ,TẮC QUÁI BIỄN ĐÔNG .
    Có điều trò chơi (GAME) nào cũng lắm công phu ,nhiều khi MÁU và NƯỚC MẮT nửa lây tới các người xung quanh ,HIỀN LÀNH ,VÔ TỘI , Cuộc đời nuốn THÀNH CÔNG việc này ,và củng phải ĐÁNH ĐỔ và việc khác phài HI SINH mới lên được NGÔI ?
    Chiến dịch TUNG RA của Pro H NGÔ đi nhiều kiểu , giống như chiến dịch PHƯỢNG HOÀNG ,ra công Chiêu hồi ,chiêu cu ,chiêu chim ,viết BIẾN SỬ ,khuynh loát , hacker WEB hay Hiếp dâm chử nghỉa .?
    Đôi khi làm ông TỪ củng có lúc làm GIÁM THỊ,MẬT VỤ lãng quảng trong HĐ Mục Vụ săn tìm JUDA ,cá nhân ,gia đình Cứng đầu không đóng góp cho nhà THỜ ,Họ Đạo .
    Hay còn Kiểu 100 trồng NGƯỜI giống bác HỒ ? Muốn tâng Cụ DIỆM lên thì ách phải mang cụ HỒ xuống , Tất nhiên phải vẻ RÂU ,LỌ CÓ VỢ ,BÁN NƯỚC v.v.
    Muốn lấy lại CÔNG CHÍNH 63 là phải BÔI LỌ lại Đám phãn tạc DƯƠNG VĂN MINH ,THÍCH T QUANG ,ẤN QUANG ,PHẬT GIÁO TRANH ĐẤU là SAI LẦM ,làm cho CÔNG SẢN ,CIA ..
    Và thật là hay KIÊN NHẨN đợi vùng 1 NGÔ QUANG TRƯỞNG qua đời BƠM sách LIÊN THÀNH BĐMT lên làm LẢNH CHÚA MIỀN TRUNG vì nhân chứng BỆNH và qua ĐỜI ,và đâu có ai biết ất giáp gì nhiều miền ngoài bằng Pro HOÀI NGÔ và TÚ GÀN ?
    Ở đời cừ chơi VỎ DƯA thì sẻ MẤT VỎ DỪA ,Cho Pro HOÀI NGÔ ,làm giống cách mạng THÁNG TÁM , độc quyền chiếm CỜ VÀNG ,và lấy đài CHIẾN SỈ QUỐC GIA làm đền thờ cho Cụ DIỆM thay thế giổ tổ HÙNG VƯƠNG ?
    Cờ VÀNG 3 sọc, sọc đầu cho BẢO ĐẠI ,sọc giửa cho Cụ DIÊM ,còn sọc cuối cho TT THIỆU ? Nhưng củng có người không thích cho là ba QUE ,nhìn cờ VÀNG mà nhơ BA CỤ (Bảo Đại CụDiêm, N v Thiệu) VỊ QUỐC VONG THÂN ? chì có nhóm Hoài NGÔ hay Nửa nạc nửa Mở đi CHÀO ,NGỢI DANH ,CHIÊM NGƯỞNG ? Nhưng CSVN chỉ tính 10 trồng người HN , không cần đấu cờ bác HỒ vẩn bay tới HOA THỊNH ĐỐN (Washington ) ?

  2. Mr. Boss says:

    Những Người Di Cư :

    1) Đức Mẹ Đồng Trinh đã di cư vào Nam: Các linh mục đã dạy giáo dân ngoài Bắc như vậy, theo kế hoạch quảng cáo tin đồn của chính phủ ông Diệm. Ông Diệm muốn tăng cao dân số ca tô trong miền Nam vì sẽ có lợi thế cho gia đình ông Diệm về sau, vì dân CG là dân phe đảng mù quáng cuồng tín. Kết quả là tuy ngoài Bắc rất nhiều người muốn vào Nam, nhưng thành phần CG mù tín di cư lại đông hơn cả. Họ lục tục ôm tượng Đức Mẹ mà di cư, mẹ di cư trước, con di cư sau. Mẹ thì đồng trinh, con có đồng trinh hay không thì kệ, vẫn cứ ùn ùn mà di cư theo mẹ. Các người dân Bắc đáng thương khác cũng lam lũ cùng đi vào Nam một cách rất tội nghiệp. Trước mắt đã thấy là sẽ bị đám dân catô táp hết mọi phần ăn. Nhưng họ vẫn phải đi.

    2)Chính quyền Ngô Đình Diệm ưu đãi di cư hơn phật tử Đó là kết án của phật tử… Sai. Phật tử không cần biết đến chính sách ưu đãi nào cả. Họ là người trong Nam, không có liên can đến sự kiện di cư để mà đòi ưu đãi về bất cứ phương diện nào từ hàng hóa lẫn chính sách tiếp viện. Vấn đề là mọi người di cư cần được đối xử công bằng. Nhưng ông Diệm đã ăn xén tiền viện trợ của chương trình di tản, dùng cho việc riêng, và dùng để ưu đãi giáo dân Gia tô hơn các người dân Bắc tị nạn khác.

    3)Treo Thánh Giá trên tàu di cư bơi ra tàu được vớt vào Nam Đây là chuyện có thật trong mọi thời kỳ. Trong việc di tản từ Bắc vào Nam, lực lượng tiếp viện đã bị ông Diệm ăn bớt ngân sách nên rất yếu ớt, không đủ người lo toan mọi mặt. Nên họ chỉ có thể kéo một số thuyền vào bãi và phân bố hàng cứu trợ đưa vào khu tạm cư. Thay vì gặp đâu giúp đó thì các tàu có đóng thánh giá ở trên phòng tài công sẽ được ưu tiên. Sau khi hơn 80 chiếc tàu thánh giá ôm Đức Mẹ được đưa vào Cam Ranh, Qui Nhơn, Nha Trang… bỏ lại gần 200 chiếc khác lang thang chờ bãi, boat people N2S đã phải dùng hạ sách là tháo kèo dưới hầm nước đá để đóng thánh giá lên ghe của mình. Họ chỉ muốn cứu mạng các trẻ em đã ngất ngư trong khoang tàu, mà có một số trong đó cũng là người đạo Chúa.

    Đến cuộc di tản năm 75, các tổ chức thiện nguyện đã quyên tiền rầm rộ. Người dân mọi thành phần đã đóng góp tiền của vào mọi tổ chức khác nhau. Nhưng đám nhà thờ lấy tính cách là người xung phong làm việc thiện, đã nhập chung tiền của người ngoài lẫn người đạo Chúa, trích ra một số gọi là để bảo quản nâng cấp nhà thờ, và số còn lại CHỈ DÙNG ĐỂ BẢO TRỢ CHO NHỮNG NGƯỜI THEO ĐẠO mà thôi. Đã có nhiều người ngoài đã theo đạo kiếm gạo, giống như người miền Bắc đã phải đóng thánh giá lên tàu để xin vào bãi. Cũng như khi xưa nhiều người đã theo Pháp cũng giống tình trạng y hệt.

  3. Ngô Đình Tèo says:

    Ơ hay! “NGô TT” theo đạo, theo chúa cơ mà .. mà theo đạo, theo Chúa thì hỏng có dùng bàn thờ hay nhang khói như truyền thống được … mà hình như chỉ treo ảnh hay ra mả đặt hoa thôi mà. Vì các “tồng pào” Công giáo đã quẳng bàn thờ ông bà tổ tiên vào sọt rác rồi để treo thờ Chúa thì sao lại mô phỏng cách thờ phụng kiểu bên Lương thế này. Đã theo Chúa thì phải thờ theo mô-týp của bển đó chứ, thờ kiểu này liện Ngô TT có tiêu hóa đc k?

    Khi các vị đã nguyện 100% linh hồn theo Chúa rồi thì các vị ở VN chỗ nào cũng vậy thôi, với người VN coi như các vị là đồ thừa, đồ quái thai và du thủ du mục, kẻ xa lạ và lạc loài vì linh hồn luôn muốn hiến lên chúa và Vatican, lúc nào cũng muốn lên thiên đàng. Chính các ung nhọt Công giáo như quý vị làm cơ thể đất nước VN hao hốc tiều tụy từ khi pháp vào VN (dân Công giáo là tay sai đắc lực để đàn áp nhân dân và các cuộc Khởi nghĩa) từ đầu TK 19 đến 1975 đấy!

    Các vị lặn đi sang Mỹ/ úc rồi con cháu các vị bị đồng hóa và mất hết ID của VN như vậy là 1 điềm phúc cho toàn VN, vì các vị có coi VN ra gì đâu, trên đầu các vị chỉ có Chúa-Thiên Đàng- Chúa, Thiên đàng … “thà mất nước chứ ko mất Chúa”. Linh hồn của các vị đã bị các lũ Linh mục tách ra được cái xác của con người VN rồi và đã bị cuốn bay theo Chúa rồi … thì chẳng có chỗ nào là quê hương, đất nước của các vị hết. Không phải đất Bắc, Ko phải ở Đồng Nai, ko phải Malay hay Indo hay Mỹ Úc … là chắc là Jeru salem hay Vatican gì đóa. Chính xác là “Thiên đàng”!

  4. Brian Do says:

    Xin Thượng đế ban phước lành cho Người,
    Nhân dân Việt nam biết ơn Ngô Tổng thống

  5. Thắc mắc? says:

    Nghe nói Hồ Chí Minh và Pol-Pot đều có chung 1 ngày sinh chính thức (19-5) là cùng theo ý kiến sắp đặc sẵn của CS Bắc Kinh thời đó. Có đúng không?

    • xoathantuong says:

      Hồ Chí Minh có nhiều ngày sinh khác nhau. Còn ngày 19 tháng 5 được HCM chọn vì có thể nó cùng ngày sinh với Pol Pot.

      “Saloth Sar (19 tháng 5, 1928[1][2] – 15 tháng 4, 1998), được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lãnh đạo đảng cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia … từ 1976 đến 1979, nhưng cầm quyền không chính thức từ giữa năm 1975… Ngày nay chế độ của ông bị hầu hết mọi người cho là nguyên nhân dẫn đến cái chết của khoảng 1,7 triệu người Campuchia (khoảng 26% dân số tại thời điểm đó)[3]. Ông là người Campuchia gốc Hoa.[4][5]“
      Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Pol_Pot

  6. Di Cư-54 says:

    Qua cuộc đảo chánh bất nghĩa bọn tướng tá phản bội bất tài đã đưa chính nghĩa của miền Nam Việt Nam xuống mồ với T.T. Ngô Đình Diệm.

  7. nguoihaingoai says:

    Mới nghe thì thấy James du ra vẻ biết điều có lý lắm nhưng rút cuc thì chỉ thấy những ý kiến lưu manh dài dòng văn tự
    NHN

    • Trường Sơn usa says:

      Đi ngang thấy chuyên bất bình ,Bao Công xử án
      ..Sanh những hạng người này làm chi
      ..Sao không đi xéo trong mắt ta
      Đúng là nuôi cá dồ và cái đầu cũng giống như vậy

  8. Trường Giang HN says:

    Xin post bài viết của ông Nguyễn Đình Hoài Việt lên đây như một nén hương tưởng nhớ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm!

    Đời Nhớ Ơn Chí Sĩ NGÔ ĐÌNH DIỆM

    Đã gần năm thập niên trôi qua , một khỏang thời gian khá lâu , . đối với lịch sử thì chưa đủ để ghi vào sử sách, nhưng so sánh với một đời người bình thưởng tưởng cũng đã quá đủ để cho mọi người có thể nhân chân giá trị đích thực của sự thực qua các biến cố xảy ra tại Miền Nam Việt Nam trong các thập niên 1950 – 1975.

    Những vị cao niên ngoài thập niên , không nhiều thì ít họ chính là những nhân chứng sống hiếm quý. Vì chính những vị cao niên đó cũng đã hơn một lần tai nghe mắt thấy chứng kiến những biến cố xảy tra rất đau lòng đầy máu và nước mắt mà toàn dân Việt Nam phải gánh chịu.

    Chúng tôi chưa dám quy trách nhiệm và đổ lỗi cho bất cứ một ai hay môt tôn giáo, một đoàn thể nào gây xáo trộn tại Miền Nam thời bấy giờ để đem đến hậu quả xóa tên VNCH trên bản đồ thế giới . Nhưng biết rõ một điều chắc chắn là Hoa Kỳ , một cường quốc của Thê giới Tự Do, cùng với khối Cọng Sản quốc tế, mà Việt Cọng là một tên lính xung kích , đã dùng Việt Nam như là bãi chiến trường đo sức thế lực đôi bên, hoặc để thử vũ khí chiến lược.

    Nói đúng hơn là dùng Việt Nam như một con tốt thí để “ mà cả “ mua bán, đổi chác ,thương lượng trên máu xương đồng bào ruột thịt của ta , mà ít người biết được thâm ý của các siêu cường, hoặc có biết chăng nữa thì cũng đành bó tay, câm miệng hến chịu trân .Nếu ai cưỡng chống lại sự sắp đặt của các nước mạnh đàn anh , vì “ lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng “ thì sẽ bị chung số phận đi đong như nhá ái quốc Ngô Đình Diệm đã bị chết tức tưởi dưới bàn tay nhung của đồng minh.

    Như mọi người đều biết, chí sĩ Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc đạo đức,liêm khiết, thật sự yêu nước thương nòi. Sống trong dân và chết vì dân, Đó là một sự thực hiển nhiên đã được rất nhiều sách vở, báo chí thế giới , truyền thông nói đền rất nhiều. Quả thực thế, chí sĩ Ngô Đình Diệm là một vĩ nhân tài đức song toàn của nước VNCH nói riêng và sáng chói cả vùng Đông Nam Á, nói chung .. .

    Quý vị cũng như chúng tôi, chúng ta là những nhân chúng sống của thế kỷ cận đại còn sót lại , nghe biết rất nhiều chuyện bí mật của nền Cọng Hòa trẻ trung xin hãy công tâm nói lên sự thực ,đừng ngại ngần . Xin đừng vì cảm tính hay vì những tư thù cá nhân do một số ít phần tử xấu thuộc cấp hành động sai sót ngoài ý muốn , rồi cứ mãi mãi ôm trong lòng mối hận thù thiên thu đối với vị lãnh tụ khả kính của dân tôc Việt Nam. Chính những người nầy đã vô tình hay hữu ý làm cái loa tuyên truyền thay thế cho Việt Cọng không công để đánh bóng tên tội đồ Hồ Chí Minh buôn dân bán nước.

    Thành thực với lương tâm mà xác quyết rằng: Không riêng gì toàn dân Việt Nam lương thiện, mà cả thế giới Tự Do đều thương tiếc trước sự ra đi đôt ngột của chí sĩ NGÔ ĐìNH DIỆM đã vị quốc vong thân. .

    Hôm nay, nhân nhớ lại ngày đau buồn , ngày manh nha xóa sổ VNCH, ngày “ một tháng mười một “, chúng tôi xin long trọng thắp nén hương lòng tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc cận đại là chí sĩ Ngô Đình Diệm và toàn thể Quân Dân Cán Chính VNCH đã vị Quốc Vong Thân. Tổ Quốc và toàn dân Việt Nam đời đời ghi ơn quý vi anh hùng tử sĩ đã vì nước quên mình.

    Chúng tôi cực lực lên án những tên ma cô Giao Điểm, Việt Cọng và bè lũ Việt Gian Cọng Sản đang âm mưu đánh bóng tên đồ tể Hồ Chí Minh sống lại bằng cách làm lu mờ uy tín và danh dự của chí sĩ Ngô Đình Diệm với những biện luận rẻ tiền vô giá trị không thuyết phục được ai, ngoài trừ đảng viên Cọng Sản.

    Nguyện xin anh linh chí sĩ Ngô Đình Diệm và các vong linh chiến sĩ VNCH cầu bầu cho đất nước VN sớm thoát khỏi ách cai tri của bọn Cọng Sản vô thần và được hưởng một nền Công Lý Hòa Bình thực sự. Đọc tiếp ở đây –> http://www.bacaytruc.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2179:i-nh-n-chi-s-ngo-inh-dim-&catid=34:din-an-c-gi&Itemid=53

  9. Trúc Bạch says:

    Tội ác lớn nhất của Hồ Chí Minh là nhận lệnh Mao Trạch Đông để chia đôi đất nước ; Rồi cùng chính Hồ Chí Minh sau đó lại nhận lệnh Mao tiến hành chiến tranh “thống nhất đất nước” một cách ngu xuẩn, đã làm hàng chục triệu người Việt Nam chết thảm .

    Câu hỏi thứ nhất đặt ra là :

    - Tại sao Mao không dùng vũ lực để giải phóng MaCao, Thượng Hải, Hồng Kong và Đài Loan – lúc đó – cũng đang nằm trong thay của “Đế Quốc” …mà lại ra lệnh cho Hồ Chí Minh tấn công Miền Nam ?

    Câu trả lời rõ ràng là :

    - Mao chỉ muốn dùng nước VN làm bãi chiến trường và máu xương người Việt Nam đổ ra để tiến hành cuộc chiến chống “đế quốc Mỹ”, dù phải có phải hy sinh thì cũng chỉ “hy sinh đến người VN cuối cùng” mà thôi – Mao tuyên bố như vậy .

    Câu hỏi thứ hai được đặt ra là :

    - Nếu Hồ Chí Minh không ngu xuẩn mà vâng lệnh Mao để tấn công miền Nam thì hai miền VN ngày nay sẽ ra sao ?

    - Câu trả lời đã rõ ràng qua thực tế là: Những đất nước bị chia đôi thì nhân dân ở phần đất do CS lãnh đạo luôn luôn cơ cực, bị kềm kẹp và bóc lột dã man, đất nước luôn luôn nghèo nàn.lạc hậu…….Trái lại, những phần đất do những người Quốc Gia lãnh đạo thì đời sống nhân dân sung túc, đất nước phát triển lành mạnh về tất cả mọi mặt : Kinh tế, Xã Hôi, Giáo dục,Đạo Đức .v.v…..Ví dụ như Đông Âu và Tây Âu (nói chung) , Đông Đức và Tây Đức (nói riêng),Nam Hàn và Bắc Hàn; Hoa Lục và Đài Loan .v.v…

    Câu hỏi thứ ba được đặt ra là :

    - Nếu chưa thống nhất thì hai miền VN ngay nay sẽ như thế nào ?

    Câu trả lời là :

    - Miền Nam sẽ như Nam Hàn, Singapore ..Còn miền Bắc chắc chắn không khác với Bắc Hàn, Cuba !

    Câu hỏi thứ tư được đặt ra là :

    - Việt Nam sẽ có thống nhất mà không cần chiến tranh không ?

    - Hoàn toàn khả thì, vì ông Ngô Đình Diệm đã từng chủ trương hai miền không xâm phạm nhau bằng vũ lực để cùng phát triển kinh tế, phần nào phát triển hơn thì chắc chắn sẽ thắng trong cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát.. . Rất tiếc là Hồ Chí Minh đã không thể chấp nhận, vì Mao Trạch Đông không cho phép .

    Tây Đức Tư Bản giầu có đã “giải phóng” Đông Đức Cộng Sản nghèo nàn để thống nhất đất nước mà không cần chiến tranh hay Tổng Tuyển cử là một ví dụ điển hinh; Như thế, một “kịch bản” tương tự chắc chắn sẽ xẩy ra nếu Hồ Chí Minh đừng nướng hơn mười triệu người để “thống nhất đất nước” bằng máu xương, Đau thương và tang tóc .

    Cứ xem đất nước “thống nhất” đã 38 năm, đưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, dân tộc VN vẫn là một dân tộc có thu nhập nằm trong năm nước có thu nhập thấp nhất của khu vực, đất đai biển đảo thì càng ngày càng bị mất thêm vào tay Trung Cộng; tài nguyên hao mòn, phí phạm, Giáo dục lạc hậu, đạo đức suy đồi …Chính là công lao của Hồ Chí Minh .

    Ngày Giỗ Ngô Đình Diệm hàng năm cũng chính là ngày nhân dân VN mang tội của Hồ Chí Minh ra để mà “Ôn Cố, Tri Tân” .

  10. Tuổi Trẻ says:

    James Du

    Gần nửa thế kỷ trôi qua, cuộc chính biến 1-11-1963 là một biến cố lịch sử quan trọng. Chấm dứt chín năm cầm quyền của chế độ độc tài gia đình trị, Đệ nhất Cộng hòa, bằng hai cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu.

    Theo sau là hậu chấn của những cuộc chỉnh lý gây bất ổn chính trị, xáo trộn xã hội kéo dài gần ba năm tại miền Nam lúc bấy giờ. Sau cái chết của hai anh em ông Diệm và Nhu, xã hội miền Nam đầy bất trắc, hỗn loạn, nổi lên nạn tranh giành quyền lực của các tướng lãnh trẻ. Trong số đó, Nguyễn Văn Thiệu là người mưu mô và thủ đoạn hơn cả, bằng tổ chức bầu cử gian lận đẻ ra chế độ độc tài quân phiệt, tham nhũng, thối nát là nền Đệ nhị Cộng hòa.

    Những tay phiêu lưu chính trị chủ mưu trong việc lật đổ và sát hại Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu đứng đầu là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Đỗ Mậu đã được mua chuộc và hỗ trợ bởi cơ quan tình báo Mỹ cũng như Tổng thống John F. Kennedy qua liên lạc viên là Trung tá CIA Lucien Conein.

    Sau đảo chánh, cái được gọi là Hội đồng Quân Dân Cách Mạng ra đời không chủ trương, không đường lối đã tạo ra khoảng trống chính trị quyền lực làm suy yếu chính quyền miền Nam kéo dài cho đến khi hoàn toàn sụp đổ vào năm 1975. Biến cố này tạo thêm cớ và mở màn cho chính phủ Kennedy ồ ạt mang quân sang miền Nam, kéo dài cuộc chiến gây thêm bao tang tóc và thảm họa cho người dân và đất nước Việt Nam.

    Những tướng, tá dính líu đến cuộc đảo chính này cho đến nay có người còn sống viết hồi ký để biện hộ và chạy tội cho hành động của mình như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Đỗ Mẫu. Cũng có người mang theo những bí ẩn của lịch sử về bên kia thế giới như Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh. Nhưng không vì thế mà bí ẩn của lịch sử không được soi sáng.

    Với những nhân chứng quá quen thuộc với chính trường và chiến tranh Việt Nam như các ký giả nổi tiếng Stanley Karnow: Vietnam a History; Robert Shaplen: The Lost Revolution, Douglas Pike: Viet Cong; Lê Tử Hùng: Nhật ký Đỗ Thọ, Công Dân Áo Gấm; Henry Cabot Lodge… Và gần đây với những tài liệu của quân khố Mỹ được giải mật dần dần khai sáng thêm bí ẩn lịch sử của giai đoạn này.

    Hiệp định đình chiến Genève 1954 chia đôi đất nước bởi sự chia chác quyền lực ảnh hưởng thế giới của các cường quốc với ấn định là cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào hai năm sau đó. Ngô Đình Diệm được Mỹ nhào nặn đưa về nước thành lập chính phủ, giữ chức Thủ tướng miền Nam Việt Nam với sự nhiệt tình ủng hộ, nâng đỡ của khối Công giáo Mỹ qua Hồng y Spellman.

    Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống miền Nam Việt Nam và tuyên bố thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa với bản hiến pháp đầu tiên ngày 26-10-1956. Sau khi dẹp tan phiến loạn Bình Xuyên, ra tay đàn áp vài đảng phái chính trị đối lập, và mua chuộc được sự hợp tác quân sự của Tướng Cao Đài Trình Minh Thế và Nguyễn Giác Ngộ của giáo phái Hòa Hảo qua sự đạo diễn của Tướng Mỹ Edward Lansdale, chế độ Ngô Đình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị hơn qua việc lạm quyền của Giám mục Ngô Đình Thục. Sự lộng hành, tuyên bố vô trách nhiệm với chính giới và báo chí ngoại quốc của người em dâu là bà Ngô Đình Nhu. Và nhất là sự bạo ngược của lãnh chúa miền Trung là ông em Ngô Đình Cẩn với đám mật vụ, Cần Lao khét tiếng tàn ác ở Huế đã làm cho cả thế giới phải gay gắt lên án.

    Cái chết của anh em ông Diệm, Nhu có thể tránh khỏi nếu như đừng để việc treo cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật Đản ở chùa Từ Đàm tại Huế biến thành cuộc biểu tình đấu tranh của sinh viên, Phật tử. Sau đó, kéo theo phe nhóm quân đội bằng cuộc đảo chính qua việc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Hoặc giả, nếu như ông Diệm sáng suốt cải tổ chính phủ theo đòi hỏi rất hợp lý của các đảng phái đối lập và Phật giáo, có lẽ đã đưa miền Nam sang ngã rẽ lịch sử khác.
    Sau này, khi bị áp lực nặng nề của chính phủ Mỹ kêu gọi cải tổ chính phủ độc tài và bị đối xử như một tay sai không còn chút độc lập, ông Diệm cực lực chống lại áp đặt này và ông Nhu tìm cách đi đêm bắt tay với Hà Nội để mưu tìm hòa bình, nhưng đã quá muộn màng, đánh mất cơ hội.

    Cũng vì cái chết của ông Diệm, miền Nam được thay thế bằng chế độ độc tài quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu, tham nhũng, thối nát. Và sự gia tăng tham chiến của quân đội Mỹ vào chiến tranh Việt Nam đưa cuộc chiến vào giai đoạn khốc liệt hơn.

    Việc thống nhất Nam, Bắc đã vuột khỏi tầm tay vì sự cản trở và thao túng của Mỹ với sự tiếp tay của ông Diệm, để Mỹ tiếp tục đạo diễn và sử dụng Việt Nam cho ý đồ riêng là cuộc đọ sức giữa Mỹ với Nga, Tàu. Với vai trò lãnh đạo tiếp nối, Nguyễn Văn Thiệu đã góp phần vào việc kéo dài thêm tổn hại xương máu bằng những bầu cử độc diễn, gian lận để tiếp tục ngồi ở vị thế lãnh đạo, trong khi Mỹ đã sắp xếp xong ván cờ Đông Dương và đóng lại trang sử chiến tranh Việt Nam qua cái bắt tay lịch sử giữa Nixon và Chu Ân Lai. Mỹ bắt đầu Việt Nam hóa chiến tranh và dần dần triệt thoái quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam. Với viện trợ bắt đầu nhỏ giọt, nguy cơ miền Nam bị sụp đổ quá rõ ràng, Tổng thống Thiệu cuốn gói ra đi trước khi miền Nam thực sự hỗn loạn và quân đội hoàn toàn tan rã năm 1975.

    Việc miền Bắc dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh sử dụng vũ lực tiến chiếm miền Nam để thống nhất đất nước là giải pháp duy nhất, bắt buộc vì sự ngoan cố và sức mạnh quân sự của Mỹ cản trở, và vì Việt Nam không thể chia thành hai quốc gia theo ý đồ của Anh, Mỹ, Nga, Tàu.

    Việt Nam được thống nhất năm 1975 đến hơi muộn màng, giá phải trả khá đắt bằng xương máu của gần hai triệu dân quân của cả hai miền Nam, Bắc. Nhưng Việt Nam phải là một Việt Nam độc lập, thống nhất, tự quyết định số phận của mình, không có sự can thiệp của ngoại bang.

Phản hồi