WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Viết cho ngày 01 tháng 11

Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.

Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.

Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đỡ? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.

Sau khi quân đội Pháp đầu hàng ở  Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xảy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nửa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.

Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào  Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu cơ quan quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.

Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

“… Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với báo chí như sau: “Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả những vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình”.

Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.

Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.

Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”, và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.

Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ” nhưng “nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cử dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẵn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.

Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.

Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo  rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay “dụ dỗ di cư”. Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” (Sic). Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rõ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do; đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.

Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy  rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rõ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.

Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam

Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.

Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.

Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1.200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.

Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2.000 đến 4.200 người di cư tới. Tổng kết là 4.280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là “tàu há mồm”, tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan… giúp được 555.037 người “vô Nam”.  Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.

Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.

Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”.  Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này,  trách sao chúng tôi không phải trả giá.

Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những kẻ phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước… Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rứt trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sống lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.

Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời, đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.

Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ.

© Nguyễn Thu Trâm

© Đàn Chim Việt

163 Phản hồi cho “Viết cho ngày 01 tháng 11”

  1. nghaingoai says:

    Các bạn cứ chửi nhau ào ào chẳng cần biết phải trái gì cả, hai ông Diệm Nhu chết từ đời nào rồi thì để cho hai ông yên đi
    Tụi VC nó cười thúi đầu ra, cứ chửi nữa đi em!!
    Chửi nhau thì cũng chẳng làm gì, cũng chẳng thay đổi gì được, sao không để sức mà chửi VC, tụi nó nhan nhản trên DCV đó
    NHN

    • Có lý. says:

      Có lý.

      • Austin Pham says:

        Thôi đừng có bẹt cà na nữa…sáu. Tự bơm tự diễn, rồi còn ký tên Người…Hà Nội ở dưới làm gì. Cộng Hòa đụi cộng sản đang giả mù sa mưa trên diễn đàn mờ. Hề..hề

  2. Khách qua đường says:

    Chỉ có những người miền Nam được hưởng ân sủng dưới thời ông Diệm mới ca tụng ông Diệm . Tác giả cũng vậy . Đọc qua những người bị tác giả xem là thành phần ăn cháo đá bát như Trần thiện Khiêm , Nguyễn v Thiệu …vv… Không hiểu những người đã từng ca ngợi VNCH và cờ vàng sẽ nghỉ gì ?

    Tôi không nghỉ ông Diệm xấu , nhưng cái chế độ của ông lãnh đạo quá cực đoan về tôn giáo , quá nghiêng về Thiên chúa giáo , quá ưu tiên gần như bó buộc để Thiên chúa giáo phát triển nhanh và mạnh , hầu lấy tín đồ Thiên chúa giáo làm nòng cốt cho lực lượng chống Cộng . Đây chính là thất bại chính trên con đường lãnh đạo chính trị của ông Diệm .

    Dùng thành phần người Bắc di cư và người theo đạo Thiên chúa , cùng với thành phần mật vụ ẩn dưới mọi hình thức của Đảng Cần lao . Nền đệ nhất cọng Hoà miền Nam tạo nên một sự chia rẽ trầm trọng dẫn đến kỳ Thị giữa người di cư , người Thiên chúa giáo đối với những tôn giáo và những thành phần còn lại trong xã hội .

    Sự bất mãn từ đấy dấy lên những phong trào chống đối đưa đến đàn áp , càng tạo thêm lợi thế cho CS tuyên truyền . Rồi bưng biền của CS như một vùng đất trú ẩn cho những con người bất mãn chết độ , đứng lên đấu tranh khi bị ruồng bắt , chính điều này làm cho MTGPMN phát triển mạnh mẽ và kéo dài di hại về sau cho cả nền Đệ nhị cọng Hoà .

    Người Mỹ cùng những tướng lĩnh miền Nam lật đổ ông Diệm không đơn giản như việc người Mỹ muốn đưa quân vào miền Nam nhưng bị ông Diệm phản đối , một tính chất đánh bóng mơ hồ cho ông Diêm . Những tổ chức của các cơ quan truyền thông thăm dò tin tức dư luận của Mỹ , hầu như đã nắm chắc đa số người miền Nam đã bất mãn với chế độ gia đình trị của Anh em Diệm . Chính đây mới là điều kiện tạo nên mất niềm tin của ông Diệm với Mỹ , đưa đến việc thay đổi người lãnh đạo miền Nam bắt buộc phải thực hiện để miền Nam sống còn trong giai đoạn này .

    Nhắc lại chuyện xưa , chỉ tạo nên tranh luận vô bổ . Nhưng dùng những từ ” Ăn cháo đá Bác ” , tác giả đã cố tình bao che cho ông Diệm mà xúc phạm đến Tư cách của cả một nền đệ nhị cọng Hoà là việc làm rất đáng trách .

    Những đầu óc cực đoan suy tôn lãnh tụ như tác giả theo tôi cũng chẳng khác gì CS . Những đầu óc như thế này nếu có cơ may làm lãnh đạo , chắc chắn cũng đàn áp độc Tài không kém hơn CS . Dưới chế độ ông Diệm hình thức tra tấn , Thủ tiêu những người CS , những người đối lập vẫn còn ám ảnh trong tiềm thức của người miền Nam thời bấy giờ tại miền Trung .

    Dầu cho Quốc gia hay CS , không thể dùng bàn tay để tự tung hoả mù hòng khoả lấp cái lỗi lầm ở quá khứ . Tốt nhất nên can đảm nói lên sự thật để rút kinh nghiệm cho hậu nhân . Nếu không hãy ém chặt và dấu nhẹm ở trong lòng mang theo về đất . Vì sự thật vẫn được soi sáng dưới mặt trời của hằng triệu người VN còn đang là nhân chứng . Nên càng bào chửa thì càng Nguỵ biện , càng trơ trẽn . Điều này chẳng khác gì bộ mặt của ĐCSVN đã trình làng trong đại hội 6 của đảng ta vừa qua .

  3. Saint Ola says:

    Rỏ ràng Diệm Nhu là những tên độc tài phe đảng không chịu lắng nghe ý kiến nguời khác.
    Lý do của cuộc đảo chính thì nhiều nhưng điều dể thấy nhất là kỳ thị tôn giáo.
    Từ cổ chí kim đến giờ chả có một nguời lảnh đạo từ Vua thời phong kiến đến các tổng thống thời nay dám đem chuyện tôn giáo ra thách thức dân chúng cả vì nếu xảy ra thì đất nuớc sẻ loạn ngay
    Thế mà ông Diệm Nhu dám làm và chuyện gì đến bắt buộc phải xảy ra.
    Nếu như 2 ông biết cách dàn xếp chuyện tôn giáo vì lở đưa ra đạo dụ số 10 do ông anh Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục xúi bậy lúc truớc thì đâu đến nổi.
    Còn chuyện Vietcong giựt dây là chuyện khác con chiên hiểu chưa.
    Anh dựng chuyện gây gió gặp bảo bị nguời khác thừa gió bẻ măng là vì anh dốt anh thiếu óc phán đoán lý luận ngu đó là lổi của anh chứ đem cái thằng lợi dụng ra trách thì sai lầm.
    Anh đem tiền vàng vứt bừa bải khêu gợi lòng tham kẻ khác và rồi khi bị mất tiền la toáng lên chửi bới thằng ăn trộm thì anh đúng là thằng mất trí.
    Gia đình họ Ngô cùng con đỉ Trần lệ Xuân làm ra việc này nên bị quả báo kêu oan cũng chẳng ai rơi lệ ngoài trừ đám kitonese cuồng tín.

    Là 1 tội đồ của dân tộc mà con chiên vẫn cứ bênh vực nhau làm lễ kỷ niệm .
    Lại còn đệm nhạc ” Suy Tôn Ngô Tổng Thông”, 1 bài hát do phe TCG sáng tác trơ tráo nâng bi và bắt người dân phải cùng nâng bi tội đồ sau bài Quốc Ca .
    Không thể tưởng tượng được !

    Điều này cũng nói lên TCG là 1 tôn giáo cực đoan, trơ tráo… đồng đạo làm gì cũng được họ ủng hộ và bao che .

  4. Cá Trích says:

    Trích của cụ Ngô Đình Tèo says: 29/10/2012 at 23:02

    Ơ hay! “NGô TT” theo đạo, theo chúa cơ mà .. mà theo đạo, theo Chúa thì hỏng có dùng bàn thờ hay nhang khói như truyền thống được … mà hình như chỉ treo ảnh hay ra mả đặt hoa thôi mà. Vì các “tồng pào” Công giáo đã quẳng bàn thờ ông bà tổ tiên vào sọt rác rồi để treo thờ Chúa thì sao lại mô phỏng cách thờ phụng kiểu bên Lương thế này. Đã theo Chúa thì phải thờ theo mô-týp của bển đó chứ, thờ kiểu này liện Ngô TT có tiêu hóa đc k?
    Khi các vị đã nguyện 100% linh hồn theo Chúa rồi thì các vị ở VN chỗ nào cũng vậy thôi, với người VN coi như các vị là đồ thừa, đồ quái thai và du thủ du mục, kẻ xa lạ và lạc loài vì linh hồn luôn muốn hiến lên chúa và Vatican, lúc nào cũng muốn lên thiên đàng. Chính các ung nhọt Công giáo như quý vị làm cơ thể đất nước VN hao hốc tiều tụy từ khi pháp vào VN (dân Công giáo là tay sai đắc lực để đàn áp nhân dân và các cuộc Khởi nghĩa) từ đầu TK 19 đến 1975 đấy!
    Các vị lặn đi sang Mỹ/ úc rồi con cháu các vị bị đồng hóa và mất hết ID của VN như vậy là 1 điềm phúc cho toàn VN, vì các vị có coi VN ra gì đâu, trên đầu các vị chỉ có Chúa-Thiên Đàng- Chúa, Thiên đàng … “thà mất nước chứ ko mất Chúa”. Linh hồn của các vị đã bị các lũ Linh mục tách ra được cái xác của con người VN rồi và đã bị cuốn bay theo Chúa rồi … thì chẳng có chỗ nào là quê hương, đất nước của các vị hết. TỨ CỐ VÔ THÂN – BẤT NHÂN, VÔ HỒN. Không phải đất Bắc, Ko phải ở Đồng Nai, ko phải Malay hay Indo hay Mỹ Úc … là chắc là Jeru salem hay Vatican gì đóa. Chính xác là “Thiên đàng”!

  5. Ông già chống Vc says:

    “Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời, đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.

    Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ.” © Nguyễn Thu Trâm
    ___

    Qua xin gởi lời chào quý mến đến cô em bắc kỳ di cư nhăm tư – Nguyễn Thu Trâm.
    Cô em chỉ cần hạ bút viết đôi hàng đa tạ ân nhân của gia đình cô – TT NĐ Diệm…
    Vậy mà,
    Cô em đã làm mấy trự già Giáo Điếm đầu kẹt đang chờ xuống lỗ, phải nỗi cơn ghen tức, tị hiềm tôn giáo…chổng khu chửi bới om sòm! hehehe…

    Trong thâm tâm, qua rất mong cô em viết thật nhiều – cũng như đề cao về lòng yêu nước, thương dân của TT NĐ Diệm trên các báo người Việt tị nạn cs. Nhứt là chia sẻ kinh nghiệm sống, truyền đạt đến sinh viên học sinh của cô em về tấm lòng cao thượng của một vĩ nhân đất Việt thời cận đại – TT Ngô Đình Diệm.

  6. Kẻ Giác Ngộ says:

    Thông thường thì: THƯỢNG BẤT CHÍNH HẠ BẤT NGHIÊM. THƯỢNG BẤT CHÍNH HẠ TẮC LOẠN .

    Nhưng trường hợp ở VN 1963 thì lại khác

    Ông Diệm nghiêm minh, yêu nước.
    Nhưng bầy hạ dốt nổi loạn giết lãnh tụ.

    Hậu quả miền nam rơi vào tay CSVN 1975 là kết quả bởi đám tướng tá và sư sãi nổi loạn 1963.
    Sau đám tang của NĐD. Đàn quạ trọc đầu xúi dục chúng gậy gộc,giáo mác,hung hăng biểu tình chống đối nhiễu loạn! http://hon-viet.co.uk/HanGiangTranLeTuyen_NhoLaiCuocThamSatThanhBoDucLoiDaNang.htm

    đưa đến 1975 …TAN HÀNG …BỎ CHẠY…và ….SỤP ĐỔ…!!!…

  7. Hoài An says:

    Hôm nay 1.11. là ngày ông Diệm bị đảo chánh và sát hại cách đây 49 năm. Thành tích mà các tướng lãnh đã làm xưa đưa đến đến hậu quả ngày 30.4.1975.

    Ôn cố tri tân và tưởng nhớ đến vị lãnh tụ, Tổng Thống đầu tiên của VNCH: Cộng Đồng VN Tưởng Niệm Tổng Thống Diệm

    Xin dâng lên cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị anh hùng vì nước vong thân, nén hương lòng tưởng nhớ.

  8. Trung Kiên says:

    Chào bạn Việt Quốc

    Trong trao đổi hay tranh luận trong tinh thần xây dựng và cầu tiến, người ta thường lắng nghe và suy nghiệm những lời nói hay lập luận của người đối thoại…

    Do vậy, mong Bạn hãy chứng minh khi khẳng định rằng: …”Tất cả những sách báo và trên các phương tiện truyền thông của những người Công giáo VN nói về ông NĐD . Đa phần là láo khoét,biạ đặt,nói không ra có nói có ra không một các sống sượng và hận thù PG một cách vô liêm sỉ…” (?)…đặc biệt chữ: “hận thù PG” của Bạn ???

    Vì rằng, chỉ nói bừa cho suông miệng một cách vô trách nhiệm, hoặc trích lại lời ai đó mà không chứng minh được sự thật, thì sẽ là kẻ hồ đồ, đặt điều vu khống, ăn gian nói dối! Mà những kẻ như thế thì không phải con người tử tế, đúng không?

    Tôi cố gắng tìm hiểu chủ trương đường lối của “GIAO ĐIỂM” là gì, tại vì sao họ thù ghét đạo công giáo và ông dòng họ Ngô (Ngô Đình Diệm) giống như csvn. Nhưng rất tiếc vẫn chưa tìm thấy. Còn như Bạn viết;…

    Như tôi cũng như nhóm GIAO ĐIỂM chẳng có hơi đâu đi nói sự thật về cái đạo dối, đạo tà của các ông làm gì cho mệt.

    …thì chẳng còn gì để nói! Vì rằng những kẻ cố tình đeo “kiếng đen” để nhìn vào một sự việc nào đó, nhất là đã mang trong óc sự đố kị hẹp hòi, thì cho dù bức tường màu trắng…đối với họ vẫn là đen (theo màu kính)!

    Đạo Công Giáo đã có từ hơn hai ngàn năm trước, vẫn tồn tại và lớn mạnh với thời gian như ngày nay với hơn 1 tỉ giáo dân trên khắp hoàn cầu. Còn “Giao Điểm” có từ bao giờ? Có bao nhiêu đoàn viên, và sẽ tồn tại đến bao lâu?

    TÀ hay CHÍNH cũng dễ phân biệt Bạn ạ.

    Đạo nào dạy con người ăn ngay ở lành, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng công bằng thì chắc chắn đó là “Chánh đạo“.

    Còn những “tôn giáo” hay tổ chức nào…hướng dẫn con người thù ghét lẫn nhau, gây chia rẽ hận thù, làm điều ác…thì rõ ràng đó là một “TÀ đạo”, là Satan, hoặc là thuộc liên minh ma quỉ!

    Các tu sỉ Phật giáo VN tại chùa Điều Ngự nên trả lời thế nào trước những bài viết do tờ Quê Mẹ của ông Võ Văn Ái và tâm thư của một số Phật tử ?

    Đọc bài trên đây tôi cảm thấy đau lòng, nhưng thiển nghĩ, chắc chắn không phải là “người Công Giáo” (lời của Bạn):…”láo khoét,biạ đặt,nói không ra, ” (hết trích)…mà theo tôi, đây là sự than vãn của những người Phật tử có “tâm đạo”, lên tiếng vì những điều trái tai gai mắt do con người gây ra, và vì lẽ CÔNG CHÍNH!

    Cầu chúc Bạn tâm hồn an lạc và sáng suốt để nhận chân ra được: CHÁNH – TÀ!

  9. Trần Bảo Thịnh says:

    Cái chết của cố Tổng Thống Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu kéo theo người em út là Ngô Đình Cẩn. Có người cho rằng ông Cẩn bị xử bắn là vì tài sản?

    http://www.bacaytruc.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2196:t-ch-ngo-inh-dim-va-cai-cht-ca-ngo-inh-cn-&catid=34:din-an-c-gi&Itemid=53.

    Những người giết ông Cẩn là để chiếm đoạt tài sản mà ông Cẩn đã tin tưởng và giao phó cho quản lý?

  10. Bui Chinh says:

    Ơ hay! “NGô TT” theo đạo, theo chúa cơ mà .. mà theo đạo, theo Chúa thì hỏng có dùng bàn thờ hay nhang khói như truyền thống được … mà hình như chỉ treo ảnh hay ra mả đặt hoa thôi mà. Vì các “tồng pào” Công giáo đã quẳng bàn thờ ông bà tổ tiên vào sọt rác rồi để treo thờ Chúa thì sao lại mô phỏng cách thờ phụng kiểu bên Lương thế này. Đã theo Chúa thì phải thờ theo mô-týp của bển đó chứ, thờ kiểu này liện Ngô TT có tiêu hóa đc k?

    Khi các vị đã nguyện 100% linh hồn theo Chúa rồi thì các vị ở VN chỗ nào cũng vậy thôi, với người VN coi như các vị là đồ thừa, đồ quái thai và du thủ du mục, kẻ xa lạ và lạc loài vì linh hồn luôn muốn hiến lên chúa và Vatican, lúc nào cũng muốn lên thiên đàng. Chính các ung nhọt Công giáo như quý vị làm cơ thể đất nước VN hao hốc tiều tụy từ khi pháp vào VN (dân Công giáo là tay sai đắc lực để đàn áp nhân dân và các cuộc Khởi nghĩa) từ đầu TK 19 đến 1975 đấy!

    Các vị lặn đi sang Mỹ/ úc rồi con cháu các vị bị đồng hóa và mất hết ID của VN như vậy là 1 điềm phúc cho toàn VN, vì các vị có coi VN ra gì đâu, trên đầu các vị chỉ có Chúa-Thiên Đàng- Chúa, Thiên đàng … “thà mất nước chứ ko mất Chúa”

Phản hồi