Viết cho ngày 01 tháng 11
Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng, nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02 tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.
Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.
Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đỡ? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau khi quân đội Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xảy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nửa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu cơ quan quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.
Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.
Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:
“… Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”
Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với báo chí như sau: “Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả những vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình”.
Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”, và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.
Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ” nhưng “nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cử dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẵn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.
Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do đó. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư đó. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.
Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay “dụ dỗ di cư”. Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” (Sic). Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rõ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do; đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.
Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rõ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.
Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.
Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.
Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1.200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.
Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2.000 đến 4.200 người di cư tới. Tổng kết là 4.280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là “tàu há mồm”, tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan… giúp được 555.037 người “vô Nam”. Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.
Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi đó.
Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”. Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này, trách sao chúng tôi không phải trả giá.
Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những kẻ phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước… Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rứt trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sống lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.
Tôi viết lên bài này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời, đó là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.
Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ.
© Nguyễn Thu Trâm
© Đàn Chim Việt
Theo như bạn viết thì anh, nhem ông cụ Diệm bị Vatican rửa đít sạch sẽ? (Từ của dân xì phé ý nói bị lột sạch). Có tặng cục xà bông Cô ba còn thừa không?
Theo như tôi biết thì chẳng riêng ông cụ Diệm rửa đít sạch sẽ, mà tất cả mọi người đều tự làm công việc vệ sinh ấy sau mỗi lần, chỉ riêng Lên Đời lấy tay quẹt rồi trét vào miệng!
Có tặng cục xà bông cho Lên Đời cũng bằng thừa, vì bản tính con người này không muốn học hỏi!
Quái thú này thuộc dòng giống nào, xuất xứ ở đâu? Sao lại quá ác ôn man rợ. Mặc dù dạy thú, nhất là thú made in china nhiều năm, nhưng chưa thấy loại thú ác ôn này ở VN. Có phải thuộc bọn rợ hán, bọn phạm tội chống nhân loại và diệt chủng trong suốt chiều dài lich sử của chúng? Hay chỉ là kẻ tay sai CSVN chỉ thích phân rợ hán? Theo CoiThu, trong thời buổi này, ác ôn thâm hiểm như quái thú thì chỉ có hai loại đó. Có thể kể sơ thân thế cho kẻ coi thú này biết không?
Quái thú nói “Ngu thì chết”. Nói rất hay. Quái thú ác ôn này rồi đây có phải chết không? Cũng có thể quái thú bị bịnh thần kinh hoặc là bịnh Autism. Nên tìm bác sĩ thú y để chẩn đoán bịnh tình của mình.
Quan sát sinh hoạt Hải ngoại ,và trong Nước nhóm Hoài NGÔ như là con RỐI .. Như đầu tư lấy Thanh danh ,công chính cho Cụ Diệm mà ra công đủ kiều ,tốn sách ,tốn mực ,truyền thanh ,truyền thông ,truyền hình ,báo chí ,báo mạng .v.v Nào Cụ tốt ,hiền lương ,đạo đức / (in mờ ) Mr Nhu ,Cẳn ,Thục .Lê Xuân .
Khéo oan gia ,của phá gia
Này là em ruột ,này là em dâu
Phân nửa sự thật ,tức là không thật ,Viết cho lắm ,rồi củng tắm cởi TRẦN
Cải đen thành trắng
Thành ANH HÙNG DÂN TÔC ? VÌ QUỐC VONG THÂN ? như Cụ DIỆM ?
Các sử gia Pro HOÀI NGÔ chắc OK cho phép ? Nhưng tin chắc rằng Hoa Kỳ và các nước Âu châu thì KHÔNG (No) ./ Và không thể nào như Đức Giáo hoàng Pius X I lại (oK) Hitler in vào trang Sử Vatican ?
Cho nên theo GIÁO HUẤN thì tên Cụ Diệm thì vẩn xa vời mà các ông ,bà HOÀI NGÔ cứ làm ngược lại,Cộng đồng II nói NÊN sống tốt với Tôn giáo bạn .Nhưng lại cứ đi thả Cò MỒI đi rong sủa ,cắn các Đối lập ,bên LƯƠNG ,PHÂT GIÁO Bằng gián tiếp ,trực tiếp để cho MỤC ĐÍCH ,MỤC TIÊU GÌ ?
Trong khi lể giổ Cụ có ai đụng chạm ,phá phách gì đâu ? Dâng thánh lể rất TỐT ĐẸP Hải ngoại ,và ngay cà trong nước (CSVN ) mà gọi họ là Vô Thần nhưng củng có sự đối đãi TỬ TẾ ,NHÂN ĐẠO ? Cho nên hỏi lại CHÍNH MÌNH AI THÙ GHÉT AI ? Hay muốn TÁI LẬP lại đệ I VNCH ? với tôn chỉ Tinh thần NĐD mà đảng Cần Lao lãnh đạo ? Lại càng xa vời hơn nửa .
Tóm lại củng có lời NGƯỢI KHEN , Tổ chức rất chu đáo ,hoành tráng ,nhịp nhàng ..Động viên các lớp trẻ Ca đoàn ,các quân binh chủng VN gia nhập quân sự Hoa kỳ chào Quân quốc kỳ ,thay các lính già ? Và hơn đảng Viêt Tân xa ,Nhưng vẫn chưa đủ mạnh vì cờ quạt cỏn liên quan với Cách mạng đảo chánh dùng ,và nên dán thêm hình Cụ thì MẠNH thêm nửa ? Rồi làm gì ? Chửi bới VC ,CSVN hay ra tay đánh phá mấy ông Phật giáo xây Chùa chiền nhiều quá ,mà phe ta Giao hôi CG Hoa Kỳ cản chân ,cản tay treo chén ?
Tôi cũng rất mong muốn Pro HOÀI NGÔ cho biết lập trường (Declaration) theo đuổi ,đối với CỘNG ĐỒNG nhất là Đôi lập ,nên Lương ,Phật giáo để được YÊN TÂM ,chứ sự YÊN LẶNG cộng bành trướng ,mà vẩn còn sợ sợ tiếng GỎ CỬA nửa đêm đi họp năm xưa ?
Hồi xưa Vatican cấm giáo dân thờ cúng đốt nhang tổ tiên VN, sau này thấy khó kéo dụ dỗ vào đạo nên bỏ lệnh cấm thờ cúng hehe.
Đạo bịp này quý vị nhớ tìm hiểu bằng cách lên Internet từ các nguồn thứ ba hay đối lập để biết đạo máu đã gây bảy tội ác đối với nhân loại nha, đừng tin mấy con chiên, chủ chăn chiên nhe chúng giấu kín như bưng.
họ Ngô là tam đại Việt gian cuồng tín nghiện đạo chống cộng dâng công cho Vatican.
thanh niên miền Nam bị lùa ra chiến trường trong khi đó chúng buôn bán với CS!!!!!!!!!!!!!!!!!!!.
Trích từ Trúc Lâm Yên Tử:
“Ông Diệm và người em là cố vấn Ngô đình Nhu đã bị đám tay chân lãnh tiền của Mỹ để làm đảo chánh và giết chết ngày 2-11-1963, dù rằng có người hùa theo với Việt cộng, chỉ trích đường lối lãnh đạo của ông độc tài, nhưng không ai nêu lên rằng ông Diệm hay ông Nhu đã để lại trong bất cứ ngân hàng nào ở ngoại quốc một số tiền do tham nhũng.
Thêm dẫn chứng khác để bạn đọc có thể hiểu được đức hạnh và uy tín của cố Tổng thống Ngô đình Diệm. Dưới đây là trích đoạn trong bài viết của ông Trương phú Thứ dưới nhan đề VÒNG HOA TƯỞNG NHỚ:
“…Cuộc đời của TT Ngô Đình Diêm là một mẫu mực của đức tính liêm khiết, trong sạch bên cạnh những khả năng vượt bậc về hành chánh, chính trị, kinh tế và quân sự. Học gỉa Vương Hồng Sển trong tác phẩm Hơn Nửa Đời Hư đã diễn tả cảnh sống khó nghèo của TT Diệm: “mặc bộ đồ tussor may kiểu áo bốn nút cổ lỗ sĩ, đã trổ vàng vì qúa lâu năm, cổ vai đã xùi”. Linh mục Đỗ Minh Tâm hiện giúp một xứ đạo Mỹ tại Saint Paul, MN kể lại: “lễ Chúa Giáng sinh năm 1958, TT Diệm dự lễ tại một khu dinh điền ở tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre). Lễ xong thì TT và tôi ăn cơm nếp với thịt gà còn các binh sĩ ăn thịt con bê thui. TT Diệm cởi giầy ngồi trên cỏ, tôi thấy Ngài mang một đôi vớ rách.”
Tổng thống đã được sự nể trọng của các lãnh tụ trên thế giới không kể lằn ranh quốc cộng và lòng kính mến thương yêu của đồng bào. Trong chuyến công du Hoa Kỳ vào năm 1958, TT Diệm đã được TT Eisenhower ra tận sân bay đón tiếp. Đây là một vinh dự rất hiếm hoi mà một vị quốc khách đến Hoa Kỳ được trọng vọng như vậy. Khi TT Diệm thăm thành phố New York thì dân Mỹ đứng hai bên lề đường vẫy tay chào đón, những người đứng trên lầu cao thả bông hoa giấy, ngợp cả phố phường dưới cổng chào hình vòng cung mang hàng chữ “Welcome President Ngo Dinh Diem”. Khi nghe tin TT Diệm bị thảm sát, trùm CS Mao Trạch Đông đã bày tỏ lòng chân thành ngưỡng mộ và thương tiếc. Đạo đức và uy thế của TT Diệm đã vượt qua ngay cả lằn ranh chủ nghĩa. “
Nhất là về mặt đạo đức và thương người ông Diệm lại càng nổi bật. Nếu so sánh với Hồ chí Minh, thì, ông Ngô đình Diệm nhân từ mà Hồ chí Minh nham hiểm, độc ác.
Còn nói về phẩm hạnh, ông Diệm là người đứng đắn, nghiêm trang thì Hồ chí Minh là tên lang chạ, nay ăn nằm với người này, mai lại người khác. Đếm con số không dưới 10 người, mà tồi tệ nhất là ăn nằm với Nông thị Xuân có con (Nguyễn tất Trung) , lại không những không nuôi dưỡng mà còn đày đọa, rồi cho thuộc cấp Trần quốc Hoàn hiếp và giết chết.
Tác giả Đại Nghĩa chưa bao giờ đọc những dòng này?
Ngô Đình Diệm một vị Tổng Thống đạo đức tuyệt đối trong sạch, xét vào hoàn cảnh lúc đó Đông Nam Á hoàn toàn không có kinh nghiệm gì đối phó với Mỹ và Nga-Tàu, Với vốn kinh nghiêm ít ỏi Ngô tổng thống đã hy sinh và làm tất cả vì nước nhà (miền Nam và đồng bào di cư miền Bắc). Một vị lãnh đạo đáng kính. Con cháu ngàn đời thương tiếc.
Nhu mì ơi, tên o nghe cụng dễ thương sao mà o họi khó chi rứa? Để Tôn Thất Riệm trạ lời hỉ. Chắc là thượng để có sự nhầm lẫn hành chánh ( Thư ký của thượng đế đánh máy sai tên). Chứ anh em nhà Ngô chạ cỏ làm chi nên tội răng. Ngô Đình Thục chị vì thương các chiến sĩ CS mà khi ăn cắp gộ của QG mà phại cung cấp trụ sinh cho họ đệ họ cỏ thể tiếp tục chiến đấu bắn vào bọn lính không tin thượng đế thôi, còn cậu Út cụng vậy cậu ấy vì lòng bác ái cụa chúa Dêsu dậy nên 1956 bán cho đồng bào miền Bắc 5000 tạ gạo với giá gần gấp ba (1700 so với 650 đồng cho đồng bào mièn Nam). Còn ông Cổ Vấn đem ma tuý về từ tam giác vàng bán cho dân Việt, và cho mở lại 2500 tiệm hút thuốc phiện là vì ộng thông cảm cái sự khộ sỡ cụa thiếu thuốc mà thôi, và ộng cụng thương thanh niên Việt nên cụng muốn họ nằm hít tô phe với ộng cho nó vui thôi í mà!
À mà chúa Dêsu có vợ o Nhu Mì biết răng? Vào Đ/C ni sẽ rọ:
- New York Times, September 18, 2012:
“Jesus said to them, ‘My wife …’ ”http://www.nytimes.com/2012/09/19/us/historian-says-piece-of-papyrus-refers-to-jesus-wife.html?_r=1&pagewanted=all
- The Boston Globe 09/18/2012 2:37 PM
Harvard professor identifies scrap of papyrus suggesting some early Christians believed Jesus was married
http://www.boston.com/metrodesk/2012/09/18/harvard-professor-identifies-scrap-papyrus-suggesting-some-early-christians-believed-jesus-was-married/dZJ1sIJCay8b8cra30wfQK/story.html
- Harvard Magazine September-October 2012 A New Gospel Revealed The Gospel of Jesus’s Wife http://harvardmagazine.com/2012/09/new-gospel
Như vậy chắc chúa Dêsu còn bận Dzích Dzợ Dzăng Dza Dzường nên mới không kịp cứu anh em nhà Ngô đó thôi í mà.
Trạ lời như ri o Nhu Mì chịu chưa? Ha…Ha…Ha
Giấc mơ Kitô ngàn đời cứ mong các tay anh chị đại ca của mình có ngày… sống lại!
Mồ mả hai ông cũng quẳng kệ tía chẳng có le chiên nào dám ngó tới. CHẠY TE TE sang Mỹ giỗ tấm ảnh trần trùi trụi.
Ngay cả bà Nhu cũng chạy te te xịt khói bỏ xác chồng và anh em chú bác trơ trọi ra kìa.
Truyền thống của các đàn em kitô từ thời Giêsu đến giờ, là QUĂNG XÁC ĐẠI CA rồi TE TE MÀ CHẠY!
Hãy bình tĩnh ăn nói đàng hoàng!
Làm gì mà hốt hoảng, điên cuồng như thế?
Bức xúc như vậy sẽ tăng xông máu, đột tử thì tội lắm!
Một nghĩa cử rất đẹp, một hành động phi thường. Cho dù gặp nhiều khó khăn, nhưng các LM dòng CCT đã cử hành thánh lễ câu nguyện cho cụ Ngô Đình Diệm!
a href=http://www.chuacuuthe.com/?p=40835 target=new>Lễ cầu nguyện cho cụ Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm tại nghĩa trang Lái Thiêu
Cám ơn quý Cha và quý vị đã dâng lễ cầu nguyện cho cố TT Ngô Đình Diệm. Xin hợp ý cầu nguyện và dâng nén hương tưởng nhớ vị anh hùng Ngô Đình Diệm…Vị Quốc Vong Thân!
Xin lỗi, ví lý do kỹ thuật link trên không hiển thị! Xin bấm vào đây:
Lễ cầu nguyện cho cụ Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm tại nghĩa trang Lái Thiêu
Xin hợp ý cầu nguyện và dâng nén hương tưởng nhớ vị anh hùng “Vị Quốc Vong Thân”…Ngô Đình Diệm!
Không ai lấy hết phần ngu của you đâu “Đ.Ngựa – Đại nghĩa” à! “Học giã” từ trường Há-vờr người ta cũng không cho những thằng bỉ ổi như Giáo Điếm tụi mày xuyên tạc hửi đít đâu…Tiếng Anh tiếng u thì …đi đứt bày đặt sủa loạn cào cào!
Chụp giựt chi vậy hở mấy thằng súc vật bệnh tật Giáo điếm?
Bá quan người ta coi thầy của tụi mày: Đỗ Mậu, Chung Ngọc, Thích Trí Quang v.v…như những con cho dại!
@ Lên Đời
Hãy thành thật, đừng gian dối, điêu ngoa.
Charlie cũng chỉ là một con người
Mà con người thì có người tốt kẻ xấu
Hãy tìm đọc người tốt viết, nên xa lánh kẻ dữ
Đây là: Ma-thi-ơ câu 10:1 đến 42
11) Khi vào một thành phố hay làng xã nào, hãy tìm người xứng đáng mà trọ cho đến khi đi. 12) Khi vào nhà ai, hãy chúc bình an cho nhà ấy. 13) Nếu nhà đó xứng đáng, sự bình an của các con sẽ ở với họ. Nếu không xứng đáng, lời chúc bình an sẽ trở về với các con. 14) Nếu ai không tiếp nhận, hoặc không nghe lời các con, hãy phủi sạch bụi dính chân các con khi ra khỏi nhà hay thành phố đó. 15) Thật, Ta bảo các con, vào ngày phán xét, dân thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ sẽ bị đoán phạt nhẹ hơn dân thành phố đó. 16) Nầy, Ta sai các con đi như đàn chiên giữa muông sói. Vì thế, hãy khôn khéo như rắn và đơn sơ như chim bồ câu.
Đọc 2 câu sau đây mà chết sặc vì cười, không biết là do một người hay hai người khác nhau viết nữa:
-Hậu quả miền nam rơi vào tay CSVN 1975 là kết quả 9 năm làm ung thối Xã hội miền nam của Ngô đình Diệm (Việt Quốc)
-Hậu quả miền nam rơi vào tay CSVN 1975 là kết quả bởi đám tướng tá và sư sãi nổi loạn 1963 (Kẻ Giác Ngộ).
Vấn đề là người ta cứ muốn quy cái xấu của ai đó dẫn đến hậu quả là năm 75. Một bên đổ là do Ô Diệm, một bên nói là do những người sau Ô.Diệm, chẳng biết ai đúng ai sai nhưng cộng vào thì chắc chắn là….đúng!
Sao mà ấu trĩ quá, hậu quả miền nam rơi vào tay cộng sản là do cộng sản miền Bắc xăm lượt miền nam và do tướng tá phản loạn giết ông Diệm. Chứ nếu còn ông Diệm thì đừng hòng.
Chẳng có gì để cười. Một người có đầu óc bình thường sẽ nhận ra rất dễ dàng.
– Hậu quả miền nam rơi vào tay CSVN 1975 là kết quả bởi đám tướng tá và sư sãi nổi loạn 1963 (Kẻ Giác Ngộ) là đúng! Vì ông Diệm đã bị sát hại ngày 2.11.1963 bởi đám tướng tá và sư sãi nổi loạn. Vậy thì đâu có lý do gì đổ tội cho ông Diệm, một ngưòi đã chết trước đó 12 năm khi miền nam rơi vào tay CSVN 1975?
Rõ như thế mà chẳng biết ai đúng ai sai thì đầu óc phải có vấn đề!