Người Việt và vấn đề yếu kém tinh thần quốc gia
Hai chữ quốc gia (nation) theo nghĩa hiện tại gồm 3 thành phần: dân chúng , lãnh thổ, chính quyền. Dân chúng bao gồm những người mang quốc tịch của nước ấy. Dân chúng trong 1 quốc gia có nhiều giống người như Mỹ, Thụy Sĩ hay chỉ có một chủng tộc (chiếm đa số) như Việt Nam, Pháp, Đức, Nhật… Chữ dân tộc có tính cách thiêng liêng nhấn mạnh đến nòi giống: cùng một tổ tiên, một dòng máu và cùng một tiếng nói, mang cùng một lịch sử từ quá khứ đến hiện tại.
Lãnh thổ là không gian địa lý của quốc gia gồm đất, biển, sông ngoài và bầu trời. Sau cùng là chính quyền quản trị, điều hành, bảo vệ lãnh thổ và sinh hoạt của dân chúng trong nước. Chính quyền thời quân chủ do một ông vua thay trời trị dân như người Trung Hoa quan niệm; ngày nay chủ thuyết quân chủ đã lỗi thời, nhân loại tiến đến chính thể dân chủ: người dân tự bàu ra người đại diện mình điều hành đất nước theo ý muốn của mình để bảo vệ quyền lợi chung.
Hai chủ thuyết ấy khác nhau, một đàng coi quốc gia (dân chúng, lãnh thổ ) là quyền sở hữu của một ông vua, của một gia đình. Vua là chủ nhân ông quốc gia: dân sướng khổ, đói no tùy theo ông vua hiền lành hay tham lam độc ác. Ngay cả mạng sống của dân chúng cũng do vua định đoạt: vua cho sống được sống, vua bảo chết phải chết, không chết là bất trung! Dân không có quyền đòi hỏi quyền lợi. No đói, sống chết tùy ơn mưa móc từ trên ban xuống. Đối với chính quyền, dân chỉ có một điều duy nhất là phục tùng, không phục tùng thì chết hay bị tù tội.
Ở điểm này, chế độ quân chủ giống chế độ độc tài. Trong chế độ độc tài, lãnh tụ – thường nhân danh một sứ mạng, một giai cấp – là đấng tối cao cũng có toàn quyền và người dân cũng chỉ có một điều duy nhất là phục tùng mệnh lệnh hay là bị tù, bị giết.
Vì vậy người dân không thấy quốc gia, chỉ thấy ông vua hay lãnh tụ. Yêu nước là trung thành với vua, yêu nước là tôn thờ lãnh tụ, cũng như ở trong nước hiện nay người ta nói: “Yêu nước là yêu Xã hội Chủ nghĩa”.
Trong chế độ dân chủ, chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân và mỗi người dân sống xứng đáng với các quyền của một con người. Đó là quyền sống (tự do làm ăn sinh sống ), quyền bình đẳng (ngang quyền với mọi người dù người đó là Tổng Thống ), quyền tham gia vào việc nước (ứng cử, bàu cử người đại diện mình )… . Tổng Thống trong chế độ dân chủ do dân bàu ra có nhiệm kỳ, hết nhiệm kỳ bàu người khác thay thế, không còn là một nhân vật thiêng liêng từ trời sai xuống, hay nhân danh 1 sứ mạng để cai trị dân suốt đời hoặc cha truyền con nối.
Việt Nam từ xa xưa theo chế độ quân chủ với chủ thuyết tôn quân của Khổng Mạnh như bên Trung Hoa. Đến thời Pháp thuộc, ông vua chỉ là bù nhìn, chủ quyền quốc gia không còn, lúc ấy yêu nước là một trọng tội, là lên máy chém.
Do đó sau khi Thế Chiến Thứ II kết thúc (năm 1945) Việt Nam tuyên bố là một nước dân chủ nhưng trên thực tế người dân chưa biết gì về dân chủ, chưa có ý thức về quyền lợi của mình. Lợi dụng tình trạng đó các lãnh tụ vội trám ngay vào chỗ của ông vua bỏ trống.
Ngoài Bắc câu nói mở miệng của mọi người là: “Nhờ ơn Bác, nhờ ơn Đảng”, trong Nam người ta hô hào: “Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống” trong một bài hát suy tôn. Trước kia nhờ ơn “mưa móc” của Thiên Tử, bây giờ nhờ ơn Bác, Đảng, Tổng Thống, những ông vua mới quyền hành rộng lớn, bao trùm nên người dân nhìn lên không thấy quốc gia, chỉ thấy các lãnh tụ và các lãnh tụ ngự trị cho đến hơi thở cuối cùng.
Ngoài Bắc dân chúng phải hô “Hồ Chủ Tịch Muôn Năm”; trong Nam hô “Ngô Tổng Thống muôn năm”. Chuyện bầu bán chỉ là hình thức, che mắt thế gian.
Ngày xưa quyền hành của ông vua tuy to lớn nhưng còn để một khoảng trống cho dân dễ thở, đó là lệ làng, “phép vua thua lệ làng”. Dân chúng quanh quẩn với sào ruộng, mảnh vườn có lũy tre xanh bao bọc che chở.
Sau năm 1954, miền Bắc quyền hành của Bác và Đảng bao chùm mọi ngõ ngách của cuộc sống. Lũy tre xanh không bao bọc che chở người dân được nữa, lệ làng bị bải bỏ vì từ thôn xóm đã có người của đảng, chi bộ của đảng thâm nhập xuyên suốt chỉ đạo, cai quản, theo dõi từng người. Phương tiện truyền thông, báo chí, sách vở nằm trong tay nhà nước. Dân bị quản lý trong các đoàn thể do cán bộ đảng kiểm soát. Già có hội già, trẻ phải vào đoàn thanh niên Cộng Sản. Sinh viên, học sinh có đoàn, đội kiểm soát, theo dõi. Đối lập, có ý kiến khác với nhà nước là một trọng tội có thể đưa đến án tử hình hay tù tội nhiều năm không cần phải xét xử.
Với chính sách hộ khẩu, người dân bị lưu xứ ngay trên mảnh đất , trong ngôi nhà của tổ tiên để lại từ bao đời mà họ đang sống, đi đâu phải có giấy phép, làm gì cũng phải xin phép. Với chính sách cải cách ruộng đất, nói rộng ra là chính sách tập trung kinh tế trong tay nhà nước (của Đảng), người dân chỉ còn hai bàn tay trắng. Mảnh vườn, sào ruộng từ đây thuộc nhà nước, buôn bán kinh doanh do quốc doanh độc quyền. Một khung dệt vải, một gánh bún riêu, một chõ xôi bị cấm đoán. Chính quyền nắm toàn bộ sinh mệnh quốc gia. Trong tình trạng này người dân chỉ có cách “xin” để sống: xin làm cho nhà nước, xin làm cho hợp tác xã, xin mua viên gạch, xin mua cái quần cái áo. Đó là chế độ “XIN – CHO”, chế độ ban phát, ban ơn: ơn Bác, ơn Đảng, ơn nhà nước. Mọi quyền của người dân tập trung vào bàn tay đảng, bàn tay nhà nước gọi là “chế độ tập trung dân chủ”. Nhìn lên quốc gia, đảng và nhà nước che ngang tầm mắt. Quốc gia không thấy nữa, muốn yêu nước thì phải yêu qua đảng tức là phải yêu Xã Hội Chủ Nghĩa (Yêu nước là yêu XHCN). Tiếng nói của người dân cũng bị tập trung vào bàn tay đảng – mấytrăm tờ báo đều là báo quốc doanh - người dân biết tham thở cùng ai? Trong nước có hàng ngàn nhà văn nhưng là những người minh họa cho chế độ sau khi triệt hạ những văn nghệ sĩ chân chính trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm và những người khác.
Nhà văn Phạm đình Trọng vừa từ bỏ đảng Cộng Sản vì nhận thấy những đồng chí của ông đã đặt ĐNG lên trên tổ quốc và dân tộc (đơn từ đảng CS ngày 20-11-2009) và trước ông nhiều người nhận thấy như thế họ cũng đã phản ứng như ông.
Miền Nam sau năm 1954 tuy chưa gọi được là chế độ dân chủ thực sự nhưng người dân còn có sào ruộng, mảnh vườn, có tiệm buôn, cơ xưởng, đôi quang gánh với gánh bún, gánh xôi, gánh chè tự lo sinh sống theo ý mình. Được tự do đi lại, tự do làm công việc mình muốn nhưng quyền tự do chính trị, tự do tư tưởng chưa có đủ.
Có báo chí, nhà xuất bản tư nhân nhưng đặt dưới sự kiểm duyệt của chính phủ, quyền phát biểu ý kiến bị giới hạn và kiểm soát. Cơ quan công quyền đặt dưới sự điều khiển của những người trung thành với Tổng Thống trong các ngành Lập Pháp (quốc hội), Tư Pháp và Hành Pháp. Người dân hãy chăm chỉ làm ăn, ăn no thì lo ngủ cho kỹ, việc quốc gia là việc trọng đại không được dính dáng vào.
Ở cả hai miền Nam, Bắc người ta cố dàn dựng một chính quyền dân chủ để cho nó có cái danh chính thống hợp với thời đại. Quyền quan trọng trong những dân quyền căn bản là quyền tự do đi bàu cũng bị cưỡng bách, bắt buộc phải làm. Trong Nam người ta kiểm soát thẻ bàu cử, ai không có bị làm khó dễ; ngoài Bắc (sau năm 1975 là toàn quốc) ai không đi bàu chính quyền cho công an đến tận nhà bắt phải đi, sau đó người ta công bố với quốc tế thành tích vĩ đại của cuộc bàu cử với 99/100, 100/100 dân đi bàu, các lãnh tụ được dân chúng tín nhiệm với số phiếu ở mức độ tương tự!
Những nước tự do dân chủ thực sự không bao giờ có con số cao đến như thế, vì người dân có quyền đi bàu hay ở nhà và, có nhiều ứng cử viên để lựa chọn, để bàu.
Tại sao chúng ta không may mắn như Ấn Độ hay Nhật Bản , sau khi thoát khỏi sự kiểm soát của ngoại bang đã sớm thiết lập được chế độ dân chủ?
Đừng vội trách dân chúng vì vào thời điểm 1945 đa số dân ta còn mù chữ, ít học lại bị chính quyền Pháp áp dụng triệt để chính sách ngu dân.
Dân chúng, nếu đáng trách, chỉ trách ở chỗ ý thức chính trị quá non nớt (ngoài ý muốn của họ), nhẹ dạ, dễ tin nên bị những lãnh tụ hoạt đầu, vô đạo đức dụ dỗ, lợi dụng.
Vậy thì hãy trách các “lãnh tụ” vô đạo đức này vì thứ nhất họ chưa gột bỏ được đầu óc phong kiến, đảng, phe, bè, cánh; thứ hai họ không tôn trọng quyền lợi dân tộc và quyền lợi quốc gia; thứ ba họ coi rẻ dân chúng.
Ông Hồ Chí Minh sau khi làm chủ miền Bắc năm 1954 được (hay bị) tôn lên như thần thánh, thiên tài lãnh đạo, cha gìa dân tộc (người ta có thể nói đó là do dân chúng tự xưng tụng, nhưng một lãnh tụ thực sự dân chủ không thể để đài phát thanh và báo chí dưới quyền mình hàng ngày ra rả làm công việc phản dân chủ đó. Học sinh, sinh viên từ mẫu giáo tới đại học đều phải học những bài thơ, văn xưng tụng ông Hồ Chí Minh).
Ở miền Nam, Ông Ngô Đình Diệm không xưng là cha già dân tộc, không bắt học sinh, sinh viên học những bài văn, bài thơ xưng tụng nhưng đi đâu cũng tiền hô hậu ủng , đến đâu cũng sức dân chúng cờ quạt tập trung tiếp đón, hoan hô. Đài phát thanh sau bài quốc ca là bài “Suy tôn Ngô Tổng Thống”, trường học cũng vậy.
Nói về bè, đảng, phe, cánh thì ngoài Bắc của ông Hồ Chí Minh chỉ có đảng viên Cộng Sản mới được tham gia cầm quyền: nhỏ nhất là đội, ấp, thôn, xã cho tới chính quyền trung ương. Không có một người trưởng Ấp, trưởng Xóm nào không có đảng tịch. Trong các ngành chuyên môn cũng thế, nên người ta phải phong hàm cho những đảng viên học lực lớp ba, lớp tư theo đảng hoạt động trong ngành y tế làm Bác sĩ, trong nhà máy làm Kỹ sư… sau một thời gian vài tháng chuyên tu để bổ làm giám đốc bệnh viện, giám đốc nhà máy, hiệu trưởng trường học… Tình trạng đặc quyền đặc lợi do đảng, phe tới mức chồng làm giám đốc, vợ làm thủ qũy, con làm kế toán trong một nhà máy, một cơ quan! Hiện nay Đại học Quảng Bình chồng làm hiệu trưởng, vợ và bảy, tám cô con gái đều là giáo sư của trường theo lời tường thuật của ông Nguyễn hữu Liêm đăng trên web site Đàn Chim Việt cách nay ít lâu!
Trong Nam tình trạng không đến nỗi như thế, người ta còn trọng chuyên môn nên hiệu trưởng phải là giáo viên, giáo sư; giám đốc bệnh viện phải là bác sĩ… Các chức vụ cấp thấp như trưởng phòng, trưởng ty… phần đông được chọn lựa theo khả năng, thâm niên nhưng những chức vụ then chốt phải là những người trung thành, thân thiết.
Quyền lợi dân tộc không được tôn trọng vì ông Hồ Chí Minh theo phe cộng sản, nằm trong qũi đạo và phải thi hành theo quyền lợi của cộng sản quốc tế. Bằng chứng hiển nhiên là sau khi nhờ Trung Cộng trợ giúp đánh thắng trận Điện Biên Phủ, ông HCM đã vâng lệnh Liên Xô và Trung Cộng chia đôi đất nước tại sông Bến Hải Tỉnh Quảng Trị gây bao đau khổ, chia lìa và bao chết chóc, tàn phá sau này. Lý do: Liên Xô chưa kịp phục hồi sau Thế Chiến Thứ II thì lại phải chạy đua vũ trang với Mỹ còn Trung Cộng thì mới nắm trọn Hoa lục năm 1949 chưa kịp củng cố đã phải đụng độ với Mỹ ở Triều Tiên và dù áp dụng chiến thuật biển người cũng bị đuổi từ miền Nam trở về sông Áp Lục và phải ký hiệp ước đình chiến năm 1953. Nếu tiếp tục chiến tranh, chắc chắn Pháp sẽ yêu cầu Mỹ tham dự hoặc Pháp sẽ bị Mỹ hất ra để nhảy vào trực tiếp đối đầu.
Sau mấy năm hai nước Nga Tàu đã tạm ổn, Hà Nội lại theo lệnh của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh mở cuộc chiến nhằm thử sức và tiêu hao sinh lực của Mỹ. Do đó nhân dân hai miền Nam – Bắc Việt Nam bị đẩy vào cảnh nồi da xáo thịt (nước Đức thống nhất năm 1989 có vậy đâu và tôi nghĩ nam, bắc Triều Tiên nếu sau này thống nhất cũng không phải trả cái giá máu xương qúa đắt như Việt Nam).
Bòn rút tài nguyên quốc gia và thuế má do dân chúng đóng góp để tổ chức đảng (đúng ra đảng viên phải đóng nguyệt hay niên liễm làm qũy cho đảng của mình), đảng viên hưởng lương công quỹ để làm việc cho đảng. Bao nhiêu quyền, lợi tập trung lại rồi phân phối cho nhau, người dân không được hưởng gì cả. Sau khi kiểm soát toàn bộ đất nước năm 1975, đảng Cộng Sản nghiễm nhiên trở thành giai cấp thống trị .
Quyền thống trị đó được ghi trong điều 4 Hiến Pháp của nước CHXHCN (Cộng Sản) hiện hành.
Giai cấp đảng là giai cấp ưu tú được nắm quyền cai trị , giai cấp nhân dân là giai cấp thấp hèn nên bị trị.
Toàn dân bị khinh miệt!
Ông Ngô Đình Diệm đem dân tộc vào qũy đạo của Hoa Kỳ, nhận là tiền đồn của thế giới tự do (miền Bắc nhận là đạo quân tiên phong của Xã Hội Chủ Nghĩa). Nhưng miền Nam theo chế độ tư hữu ít ra người dân còn có quyền trên mảnh đất, miếng vườn hay cửa tiệm, đôi quang gánh làm ăn nhưng quyền hành quốc gia cũng bị tập trung vào tay một người (thời ông Ngô Đình Diệm) hay trong tay 1 tập đoàn quân đội (sau thời ông Ngô Đình Diệm) mà có người hãnh diện kêu là đảng Kaki. Người dân không có quyền hành gì trong công việc trị nước, bàu cử hay ứng cử chỉ là sự dàn dựng, màu mè dân chủ.
Cho đến giờ sở dĩ có người còn tưởng nhớ đến ông Ngô Đình Diệm vì trong thời gian 9 năm (1954 – 1963) ông cầm quyền miền Nam được yên ổn, không bị nạn tham nhũng hoành hành, bóc lột như những người thay ông ở miền Nam và cả nước bây giờ dưới chế độ cộng sản.
Sai lầm lớn nhất của ông Hồ Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm là, vì quyền lợi cá nhân hay quyền lợi Đảng, đã không xây dựng được cho dân tộc một nền dân chủ như ông Washington tạo cho Hoa Kỳ hay ông Nehru tạo cho Ấn Độ sau khi hai nước nay thoát khỏi sự đô hộ của người Anh.
Cả hai ông Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm, cũng giống như phần lớn người Việt chúng ta, hễ có quyền hành là lạm dụng, tự tung tự tác, nắm được cơ quan, chức vụ nào thì coi cơ quan đó, chức vụ đó là của riêng mình và tùy ý ban phát cho thân thuộc, đảng, phe, bè, cánh không đếm xỉa gì đến quyền lợi của dân chúng và của quốc gia.
© Phạm Hy Sơn
© Đàn Chim Việt Online
Cám ơn bài góp ý của Trung Lập , ngắn gọn và đầy đủ ý nghĩa với câu : Khi nào Dân tộc VN gạt bỏ được đặc tính truyền kiếp của câu ” Một người làm quan cã họ được nhờ ” …
T_N_D_
Tổ Quốc
Tổ Quốc dần dần chỉ còn được hiểu là một biểu tượng, một lá cờ , một quốc huy và một khoảnh to bằng hai ngón tay hay cả một bàn tay trên tấm bản đồ thế giới. Tổ Quốc là thiêng liêng là gần gũi mến yêu thiết tha, là cội nguồn nhớ nhung. Khi đưá con đi xa lâu ngày muốn trở về, để được nhận một sự đùm bọc, yêu thương, một sự động viên khích lệ và bảo vệ không còn nưã. Chạy trốn tổ quốc, không phải vì căm ghét tổ quốc mà vì sợ hãi một nhóm người , một đảng đại diện cho quốc gia đó .Sợ những con người bằng xương bằng thịt gian ngoan xảo trá đại diện cho cả một dân tộc trên trường quốc tế: nó là con hổ đói, nó là độc tài, nó là tàn bạo, nó bỏ tù ta, nó đang muốn ăn thịt, lột da ta… Tổ Quốc là mảnh đất hàng nghìn năm mà dân tộc, nòi giống ta ,đã sinh sôi nảy nở và phát triển ở đó. Làm một người bình thường, khoẻ mạnh không bị dị tật bẩm sinh trong đầu thì chả có ai nỡ căm thù dân tộc, căm thù tổ quốc mình cả. Hoạ chăng chỉ có một người căm thù dân tộc, căm thù nòi giống cuả mình là Adolf Hitler. Ông ta đã từng làm quốc trưởng, đã từng làm lãnh tụ và ông ta cũng là ngưòi duy nhất căm thù nòi giống cuả người mẹ, đã sinh ra chính mình là bà Clara. Một người đàn bà do thái. Ông ta là một con người không hoàn hảo, được bà già khốn khổ khốn nạn đó sinh ra sau một vụ hiếp dân cuả một ngã đàn ông người Áo. Hitler cô đơn đáng thương, không có đưá trẻ con nào bình thưòng muốn chơi với ông ta từ nhỏ.Hitler mắt lồi vì căn bệnh thiên đầu thống, lại thiếu hẳn đi một hột dái, nhưng nhiệp chướng thì lại nặng nề vô cùng. Người do thái bỏ chạy tổ quốc cách đây 2 nghìn năm, không phải vì căm ghét, chê bai tổ quốc cuả tổ phụ Abraham và bà Sahra. Tổ quốc đã lọt vào tay ngoại bang, có ở lại thì cũng chỉ là thứ dân hạng bét làm nô lệ cho người La Mã mà thôi. Họ muốn sống và không muốn chết dần chết mòn, để rồi đi đến chỗ tuyệt chủng. Hình ảnh tổ quốc thật yêu thương tha thiết, thiêng liêng bao nhiêu trong mỗi gia đình do thái. Dù tha hương nơi đất khách quê người, nhưng người do thái đều tìm đến nhau, dạy con cái thế hệ này đến thế hệ khác, hàng nghìn năm đừng quên đi nhục mất nước. Họ xây nhà thờ (Sinagoge) ,dạy con em đọc kinh thora và học viết và nói tiếng hebrisch. Mỗi buổi tối ngồi vào bàn ăn , ngày nối ngày, hơn 2 nghìn năm vẫn bài hát: Muà này sang năm ta lại về Jerusalem. Các bạn thử tưởng tưởng xem hai nghìn năm dài đằng đẵng mà tối nào trước bưã ăn họ cứ hát như vậy đấy. Cho nên sau đại chiến thế giới lần thứ hai, thoát khỏi nạn diệt chủng , họ trở về Israel lập quốc. Vẫn trên mảnh đất xưa cuả cha ông tổ tiên để lại. Abraham,Isaak, Giacop, David… đã ở trong trái tim họ. Họ không mất tiếng nói riêng. Tổ Quốc không còn là biểu tượng, không chỉ là một lá cờ, một chấm đen trên tấm bản đồ nưã. Tổ quốc được hiểu theo nghiã thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là tương lại, tiền đồ, là máu thịt và sự sống còn. Người do thái bỏ chạy tổ quốc vì sự độc tài tàn bạo cuả người La Mã, hay người Babylon. Ngày nay hàng triệu người Việt Nam chạy trốn tổ quốc không phải vì sự độc tài, tàn bạo cuả người Tàu, người Pháp, người Nhật,hay người Mỹ. Họ chạy trốn, sợ hãi khủng khiếp những người mà họ gọi là đồng chí, là anh Hai, bác Ba, chú Sáu, bà Năm…Những người đó học vấn tài năng còn kém họ rất xa. Khối kẻ đọc một lá đơn kiếu kiện cuả công dân còn phải đánh vần, trình độ chỉ có lớp 3, lớp 4 thôi, hoặc có 3, 4 bằng đại học nhưng toàn là bằng giả. Nhưng họ có quyền lực, có súng đạn, có quân đội, công an trong tay.Họ có thể giết người bịt miệng bất cứ lúc nào. Vu cho một cái tội gì đó không nhận cũng phải nhận, công khai bỏ tù, hoặc bí mật thủ tiêu lúc nưả đêm gà gáy ngay taị căn nhà cuả mình. Bỏ tổ quốc ra đi, sợ tổ quốc như sợ cọp thì chỉ có người Việt Nam. Nhưng cọp cũng không đáng sợ, một con cọp thì cũng chỉ cần 5 đến 10 thanh niên lực lưỡng là có thể đoàn kết lại dùng dao hoặc gậỵ gộc đập chết tươi ngay. Nhưng đập chết được những con cọp đi bằng hai chân, biết nói, biết hát, biết cười và biết ngâm cả thơ nưã thì thật khó vô cùng.
Tổ Quốc giang sơn đang chìm đắm dần dần trước sự kinh ngạc cuả thế giới văn minh. Người Việt Nam bản tính lương thiện và đa cảm. Tuy ở nước ngoài hàng năm vào những này rỗ tết họ vẫn ùn ùn về thăm tổ quốc. Họ vẫn gửi tiền về giúp đỡ thân nhân, họ thưà biết làm như vậy cũng chỉ để nuôi béo những con hổ độc tài chuyên chính xưa kia ,lúc nào cũng muốn phanh thây xé xác họ. Nhưng họ vẫn không nỡ nhìn thân nhân chết đói dần mòn.
Ý nghiã về hai chữ Tổ Quốc, cái khái niệm thiêng liêng, tồn sinh sẽ dần dần lu mờ trong con cháu người Việt ty nạn. Con cháu họ không nói được tiếng Việt, họ không cần hát: muà này sang năm ta lại về Sài Gòn, Hà nội, Huế , Đà Nẵng nưã. Họ không trồi trổ , tha thiết muốn trở lại quê hương cuả cha mẹ, ông bà tổ tiên họ. Tổ Quốc chỉ còn là một biểu tượng, một một danh từ trong bộ từ điển tiếng Việt. Nguy cơ mất nước cũng rất có thể xảy ra lắm đối với người Việt Nam. Tiếng Việt có thể chỉ còn dùng trong gia đình. Ngoài xã hội, cơ quan nhà nước sẽ dùng tiếng tàu, chữ tàu là văn bản quốc gia, cũng như những thủ tục đơn từ kiện cáo cuả công dân. Cái điều tưởng như không tưởng này ai mà biết trưóc được 1 hoặc 2 trăm năm sau.?…
Giang Sơn Chìm Đắm
chuyển thể từ thơ Chu Vương Miện
Chuyện dân Việt kể sao cho xiết
Nước chảy mòn đầu vịt lá khoai
Mặn nồng máu chảy bèo trôi
Ruột mềm quằn quại tả tơi bằng mồm…
Thế chiến quốc nỗi niềm tê tái
Sáng biểu tình chiều tối rượu vang
Quốc kỳ quân phục biẻu dương
Cộng hoà nam Việt vinh quang thuở nào.
Ngậm ngùi xót máu trào lệ đổ
Bắc Trung Nam đô hộ nhà Hồ
Nam Quan mở cưả đón Tàu
Cao Nguyên bô xít ngả màu thương đau
Dân thấp cổ mù loà tăm tối
Sặc mùi hôi lính kín khu đen
Ái nam ái nữ thở than
Giống nòi suy kiệt nước non tiêu điều
Rặt một lũ chó dê chăn dắt
Mẹo anh hùng tha thiết chín năm
Trường kỳ bán đất âm thầm
Xuất dương con gái Việt Nam buôn hồng
Xứ sở lạ lấy chồng ngoại quốc
Phận cu ly từng bước giảm nghèo
Độc thân Trung Quốc xông vào
Tràn qua Nước Việt má đào nỉ non
Thân vạn dặm Vân Nam Miến Điện
Qua ngả Lào hiện diện Thái Lan
Côn Minh lạc bước Nam Hàn
Bán chôn nuôi miệng phấn son nhạt nhoà
Rồng chín khúc mây mờ sương khói
Miền thượng du đau nhói xiết bao
Lan man thủy điện sông lô
Miền Nam nước chảy phù sa cạn giòng ?
Bể chưá nước cửu long sóng tận
Nước mặn vào chiếm lấn người ơi!
Quê hương chìm đắm biển khơi
Sài Gòn Chợ Lớn đi đời nhà ma
Kẻ ngoác miệng kêu la chửi bới
Đưá cầm quyền lo túi đầy vơi
Vét vơ cho thật đã đời
Bịt tai thin thít mũ ni điếc rồi
Gây oán hận dầu sôi lưả bỏng
Hạt châu rơi thầm lặng thương đau
Việt Nam quận huyện Trung Hoa
Ngàn năm nguyền ruả biển sâu ngậm ngùi
Nưả thế kỷ chửi hoài chửi mãi
Mặt trai lỳ ngu tối mãi sao?
Tiền đồ tổ quốc phân chia
Sơn hà xã tắc uế xù đảng ta
Mạ non dở la đà chế độ
Mòn mỏi chờ cổ độ trăng soi
Nưả đêm rượu ngũ gia bì
Chén anh chén chú nhâm nhi đoạn trường
Thuyền đời dạt tầm dương Lý Bạch
Bích la thôn oán trách người xưa
Thông reo ngô xá đạo đầu
Xàng xê xang xí bạc màu lầm than
8.3.2010 Lu Hà
Người Việt không yếu kém tinh thần quốc gia, không yếu kém tinh thần yêu nước.
Chính bè lũ bán nước Việt Cộng đã làm cho tinh thần quốc gia, tinh thần yêu nước của người Việt đui chột yếu kém và hủ hoá.
LDS
Tác giả cho thấy những kẻ gọi là “tìm đuờng cứu nuớc” khi nắm đuợc vai trò lãnh đạo đều cuối cùng là những kẻ say sưa quyền lực , lạm dụng nó cho bản thân ,cho gia đình , cho bè nhóm…Đó là nỗi bất hạnh lớn cho dân tộc VN, là lĩnh vực cần mang ra thão luận liên tục để tìm ra đáp số trong lúc này…
Nhận định chính xác, tinh tế . Chọn lọc cân nhắc . Phân tích sắc bén. Đánh giá công bình . Quan điểm minh bạch. Bài viết đáng đuợc phổ biến rộng rãi.
dan toc nao, quoc gia nao, deu co nguoi cai tri va nguoi bi tr….du nup gioi my tu nao thi cung vay ca thoi tinh than dan toc xuong rat thap la donguoi cai tri..het thay deu di ung boi quyen luc….
Tôi không đồng ý rằng Pháp là một nuóc có ít chủng tộc. Nguọc lại nuóc Pháp là một nuóc mà Mỹ có bao nhiêu chủng tộc; thì Pháp cũng có nhiều chủng tộc bấy nhiêu; bõi lẽ chũ* PHÁP gồm có ba chấm THỦY là nuóc là uót-ác+ chũ* khú* là ĐI.. có nghĩa là thằng PHÁP đi tó*i đâu; thì gieo nhân dâm tó*i đó. Nói một cách khác tên dâm-ô Pháp “xin xem lịch sủ* Pháp tù* Nã-phá Luân trỏ* lại thì rõ ? Nó là môot tên THỤ*C DÂN số I cùng lúc vó*i nguòi Anh. Nhu*ng vì ăn cho*i hoang dâm; nên nó bán đất lại cho ANH,và Mỹ. Pháp trỏ* về bổn Quốc đã và đang mang theo tó*i hàng triệu con LAI khác giống. Ai đến Paris thì rõ.
Riêng nguòi VIỆT NAM chúng ta tù* khi dụ*ng nuóc đã bị phuong BĂC ĐÔ HỘ tó*i ngàn năm; dân tộc ta đã hiểu thấu nỗi khổ mất nuóc nên tinh thần yêu nuóc trong thòi điểm đó nhu* bão tố; nhu* sóng ngầm. Đến khi bị Tây thụ*c dân; đàn bà trẻ em bị TÂY BA LÔ LIẾM,ĂN ,cho*i; khiến bao anh hùng VIET NAM vùng lên không sọ* chết dù bị thụ*c dân đem lên máy chém hàng triệu nguòi; nhu*ng tinh thần KHỎI NGHĨA tù* NAM chí BẮC vẫn vùng lên không ngù*ng.
Tinh-thần nguòi Việt hiện nay không nhũ*ng YẾU KÉM; mà phải nói RẤT YẾU KÉM về QUOCGIA của mình vì nhiều lý do sau đây:
1/ NGUOI DAI-DIÊN “lãnh-đạo” không phải nhân dân bầu.
2/ Nhũ*ng tên TRUNG UONG DANG là nhũ*ng tên có hàng tỉ dollars, và vài tấn vàng. Thay vì họ dùng tù* “CHUYÊN CHÍNH VÔ-SẢN”.
3/ Không còn tôn trọng quyền sỏ* hũu cá nhân của con nguòi.
4/ Triệt tiêu TÔN-GIÁO không đụoc nhu* ý muốn; thì lọ*i dụng TÔN-GIÁO tung hỏa mù vào đòan thể tôn giáo làm lũng đọan tinh thần TU-HỌC của họ.
5/ Tội-ác do HCM gây ra,và truyền lại cho chúng khi chúng chiếm trọn miền NAM khiến cho hàng triệu triệu ngùoi Việt mất nhà mất của trốn chạy ra nuoc ngoài. Mộ nủa chết ngoài biển kho*i. Bao nhiêu sinh linh chết trong các trại giam oan ú*c.
6/ CSVN vẫn còn cú*ng đầu là không dám đú*ng ra XIN LỖI QUOC DÂN. Trong khi đó bọn trò hề VC lại bày trò PHÓNG-SANH THÚ CẦM hòng qua mắt nhũ*ng ai còn ngây tho* CỘNG-SẢN. Con nguòi còn bị nhốt đầy trong tù không thả; thì lại thả cá, thả chim ?
Cac bạn tuổi trẻ, đọc giả thấy không ?
Vậy, Ai TIN BUỌM THÌ MẤT BÒ đó. Bỏ nuóc, trốn chay truóc là THUỌNG SÁCH; nếu bạn còn chần-chò*; đến khi TQ ụp vào thì chạy không kịp. Trân trọng kính chào đồng bào trong nuóc.
Người Việt không yếu kém tinh thần yêu nước, nhưng tinh thần yêu nước đó trong thời gian qua đã bị quá nhiều lợi dụng, nhất là trong thời kỳ toàn dân Việt kháng chiến chống Pháp, sự lợi dụng đó càng đi xa hơn trong suốt thời kỳ chiến tranh Nam Bắc, khi mà miền Bắc tập trung vào việc xua quân vào Nam trong khi miền Nam phải cố gắng bảo vệ trước làn sóng đánh phá không ngừng cuả miền Bắc.
Chính sự phân đôi đất nước nầy mà tinh thần yêu nước cuả người dân Việt đã bị yếu kém vì bị phân hoá ý thức một cách bắt buộc rất phi lý, mà cụm từ “Yêu nước là phải yêu XHCN” là một điển hình rõ ràng nhất. Sự gắng liền hết sức miễn cưởng và trân tráo nhất cuả kẻ lưà bịp mị dân, bắt buộc mọi người phải đi theo chỉ một con đường đã được chọn sẳn, phi lý hơn nưã là ai không đi theo con đường đó thì là kẻ phản động và sẽ phải trở thành kẻ phản bội tổ quốc.
Ðau đớn nhất là thành phần thực sự yêu nước miền Nam, những thành phần không bao giờ chấp nhận sự chia đôi đất nước lúc bấy giờ, họ từng là những nghiã quân chống Pháp vì dân vì đất nước Việt Nam và không bao giờ chịu họp tác với người CS trong suốt giai đoạn trước khi bản Hiệp Ðịnh được ký kết.
Trong giai đoạn Ngô Ðình Diệm cai trị miền Nam, thành phần nầy được đặt ra ngoài vòng pháp luật, được gán cho danh từ là kẻ phiến loạn cũng như thường được gọi và xem như là thành phần đầu trộm đuôi cướp. Lịch sử dân tộc trong giai đoạn phân chia hai miền hoàn toàn đã bị cả hai chính quyền bôi đen, thì cái tinh thần yêu nước không ít thì nhiều cũng đã bị lợi dụng tuyên truyền có lợi cho phe phiá cuả mình, nên được gọi là ý thức bị phân hoá làm suy yếu tinh thần yêu nước cuả người Việt.
Sự phân hoá ý thức yêu nước đó đến hôm nay vẫn còn tiếp diễn với hệ luỵ tất yếu cuả nó, cả hai phe phiá đó vẫn còn lợi dụng lòng yêu nước nầy và luôn cực đoan cho mình mới là chính nghiã dân tộc, mà cả hai cũng đều là thành phần được thế lực bên ngoài chọn lưạ hà hơi tiếp sức để người Việt xâu xé nhau, cố giành quyền lực để cai trị trên xương máu dân Việt hai miền mà thôi. Chẳng những xương máu dân tộc mà cả sự toàn vẹn và quyền lợi đất nước cũng bị đặt dưới đặc lợi quyền lực thống trị cuả họ.
Sự tỉnh thức không phải chỉ kêu gọi ở một phe phiá nào, mà phải tỉnh thức cuả tất cả mọi phe phiá, bởi vì chính nghiã dân tộc thực sự đã bị hai thành phần nầy bóp méo từ lâu, khi mà cả hai được các thế lực bên ngoài đặt để theo ý đồ chia đôi cuả họ, thì chính nghiã cũng như lòng yêu nước bị chính bàn chân cuả họ giẩm đạp bôi đen. Những bàn tay phiá sau lúc nào cũng đẩy họ đi tới, sự phân hoá chia rẽ vẫn phải tiếp tục trong ngu muội với một nhiệt tâm cuồng dại, trong khi biên giới và hải phận Việt Nam đang bị lấn mòn dần, không ít kẻ vẫn còn xem đặc lợi quyền lực thống trị cuả họ hơn máu xương và đất nước Việt Nam.
Ðáng phỉ nhổ nhất là những kẻ nhân danh chống cộng, thúc đẩy những thành phần khác làm bia đở đạn cho họ mà họ cho là những kẻ ngu dại hơn họ, để họ hưởng cái đặc quyền đặc lợi là thống trị kẻ ngu dại đó, ngày lại ngày họ lại càng xa dần với dân tộc Việt Nam.
Nhưng niềm tin mỗi người dân Việt đều có lòng yêu dân mến nước, một niềm tin luôn kỳ vọng ở thế hệ mới, thế hệ với một lòng trong sạch không vướn chút hận thù vô nghiã, do từ bên ngoài áp đặt cho dân ta một cách tinh vi khó nhận ra.
Ngọn cờ chính nghiã dân tộc thực sự với một tinh thần yêu nước trong sáng sẽ ló dạng trong tương lai, khi mà cuộc xung đột ở Biển Ðông ngày một đến gần, những chuyển đổi bất ngờ là đều khó tránh khỏi.
Xin trân trọng.
Mến gủi bạn TRUNG HOÀNG;
Ý của bạn sao họ*p vó*i ý tôi lắm.
Nhó* năm xu*a, khi nhũ*ng ngùoi đi tìm đùong chống thụ*c dân Pháp ỏ* Hải ngoại; mỗi khi họ gặp nhau tay bắt mặt mùng; cùng một lòng; cùng kết tình nghĩa nhau nhu* là anh em ho*n là ruột thịt để mu*u đồ nghĩa binh chống giặp ngọai xâm. Nhu*ng rồi; có kẻ lọ*i dụng lòng yêu nuóc ấy,và bán rẻ luong-tâm vì muốn cái vị trí của mình muôn thuỏ*; mà phản bạn; hại thầy.
Nhũ*ng ai có sống trong thò*i kỳ thụ*c-dân Tây thì thấy SỤ*YÊU NUOC của con nguòi VN đến mú*c độ nào ?.
Không có đau khổ nào bằng của kẻ MẤT NUÓC;ngọai trù* nhũ*ng kẻ buôn bán; tha phuong cầu thụ*c.
Bạn đóan truóc, và mọi nguòi đều có cái feeling nhu* vậy: TAI HỌA BIỂN ĐÔNG sẽ dậy sóng ?.
Riêng tôi nhìn thấy thêm: TQ đang cấy, cài nguòi vào ranh giói LÀO, CAMPUCHIA, nhũ*ng vùng đất mà CSVN bán ,và cho chúng thầu 50 năm. Đó là strategic mà TQ có thể đánh úp Vietnam; nếu CSVN thấy không chịu nổi cái áp bú*c; kiềm kẹp của TQ. Ho*n nũa, TQ nó không ngu xuẫng đến nỗi mà CSVN đặt hàng CHIẾN TRANH của NGA mà nó không biết ?
Nếu quả nhu* dụ* đoán trên là đúng; thì Mỹ có nhảy vào cũng không kịp; vì TQ đánh vào 4 mặt: Tù* Ải Nam Quan, Tây: Lào Cai, và Cao nguyên VN. Nam : Campuchia, và Đông tù* các đảo hoàng-Sa,và truong-sa, thì chắc chắn đám cha con Việt-Cộng trải chiếu xuống quì nhu* đò*i Lê chiêu Thống không ho*n không kém.
Tình trang báo động thú* II, CSVN tổ chú*c xây cất đền đài là một dấu hiệu SUY-TAN nhu* các triều Đại của các VUA chúa trên thế gí*oi.
Dấu hiệu thú*III: CSVN cho dân ăn cho*i nhảy nhót giống nhu* dấu hiệu của Thụ*c Dân Tây đã làm ỏ* Miền Nam truóc cuộc thua trận của VIET MINH.
Dấu hiệu thú* IV là nhũ*ng Cán-bộ VC đem tiền qua Thụy-sĩ; cho con, vọ* ra nuóc ngoài qua nhiều dịch vụ: Buôn bán; du học; riêng nó ỏ* lại cầm chù*ng; nếu chạy kịp thì chạy. Còn nguọc lại thì chúng hy-sinh cho VỌ*,CON.
Rất tiếc VIETNAM chúng ta là một miếng mồi. và không may bị nhiều nuóc đến xâu xé. Nhu*ng điều đáng sọ* nhất là vị thế của chúng ta ỏ* ngay miệng CỌP.
Yêu nuóc mà bị lọi dụng thì thà không yêu còn ho*n. Hay là:
Thôi thì nhắm mắt đu*a chân
Thủ* xem CON-TẠO xoay vần đến đâu ?
Chào bạn
VN sẽ có dịp sánh vai cùng các nước dân chủ trên thế giới khi nào gạt bỏ được câu “Một người làm quan cả họ được nhờ “.Từ thời phong kiến tư tưởng này có lẽ đã ăn vào tận xương tuỷ của mọi người VN ,tình trạng phủ bênh phủ,huyện bênh huyện cũng như ĐCSVN hiện nay nên không thể nào nói đến dân chủ .Ta cũng không nên trách cách điều hành,cai trị của ĐCSVN .Tôi nghĩ nếu CS có ra đi thì nhóm kế tiếp cũng “vũ như cẩn” không hơn không kém,thậm chí hơn nữa không chừng?Trước 75 tình trạng tham nhũng cũng có nhưng kém so với mức độ hiện nay có lẽ ĐCSVN đã học hỏi được kinh nghiệm chăng ?