1972: Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Trường Chinh
Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Trường Chinh
31-12-1972
Mô tả: Chu Ân Lai thúc đẩy các cuộc đàm phán.
(Trường Chinh hỏi ý kiến của Chu Ân Lai về triển vọng của các cuộc đàm phán Paris.)
Chu Ân Lai: Có vẻ như Nixon thực sự có kế hoạch rời khỏi [Việt Nam]. Vì vậy, lần này cần phải đàm phán [với họ] nghiêm túc, và mục tiêu là đạt được một thỏa thuận. Dĩ nhiên, các ông cũng cần phải chuẩn bị [đến khả năng] các cuộc đàm phán sẽ không đi đến một thỏa thuận, và rằng một số thất bại có thể xảy ra trước khi [thỏa thuận cuối cùng đạt được].
Ghi chú:
Trường Chinh (1907-1988), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương / Đảng Lao Động Việt Nam từ Đệ nhị Thế chiến đến năm 1956. Từ chức năm 1956, sau khi thừa nhận những sai lầm trong chương trình cải cách ruộng đất ở Bắc Việt. Trở thành Phó Thủ tướng năm 1958 và Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 1960, ông giữ chức vụ này cho đến năm 1981. Trở lại chức vụ Tổng Bí thư một thời gian ngắn sau cái chết của Lê Duẩn năm 1986.
———-
Thảo luận giữa Chu Ân Lai và Lê Đức Thọ
03-01-1073
Mô tả: Chu Ân Lai ủng hộ các cuộc đàm phán của Việt Nam với Mỹ.
Chu Ân Lai: Chiến lược của Mỹ sử dụng ném bom để gây áp lực lên các ông đã thất bại. Nixon có nhiều vấn đề quốc tế và quốc nội phải đối phó. Có vẻ như Hoa Kỳ vẫn còn sẵn sàng để rút khỏi Việt Nam và Đông Dương. Các ông nên kiên trì các nguyên tắc trong khi chứng tỏ linh hoạt trong đàm phán. Điều quan trọng nhất là để cho người Mỹ ra đi. Tình hình sẽ thay đổi trong sáu tháng hoặc một year (1).
Ghi chú:
(1) Khi họp với Ngô Thuyền, đại sứ Bắc Việt ở Trung Quốc, và Nguyễn Văn Quang, đại sứ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ở Trung Quốc, tại Bắc Kinh, lúc 8 giờ tối, ngày 24 tháng 1 năm 1973, Chu Ân Lai đã nhận được báo cáo của họ, rằng một thỏa thuận hòa bình đã đạt được ở Paris. Chu Ân Lai nói: “Hãy nhận lời chúc mừng chiến thắng của tôi. Chiến thắng giành được dễ dàng. Như Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói, quan trọng là tiếp tục cuộc đấu tranh này. Điều quan trọng là người Mỹ đã bị đẩy đi”.
————————————————————
Thảo luận giữa Mao Trạch Đông và Lê Đức Thọ
02-02-1973
Mô tả: Mao Trạch Đông đề nghị quá trình hành động sau khi ký Hiệp định Paris.
Mao Zedong makes suggestions as to the course for action after the signing of the Paris Agreements.
Mao Trạch Đông: Trước khi chúng tôi chấp nhận Nixon ở Trung Quốc, chúng tôi đã có các ý kiến trái ngược nhau về chiến lược. Một số ý kiến nói rằng, các ông nên tìm cách để trói tay Mỹ. Một số ý kiến nói rằng, các ông nên tiến hành chiến lược chiến tranh kéo dài. Bản thân tôi ủng hộ các cuộc chiến quy mô lớn bởi vì các trận đánh quy mô lớn có thể gây ra tổn thất nặng nề cho địch, buộc ông ta phải chấp nhận giải pháp.
Tôi cũng nghĩ rằng, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, các ông cần ít nhất sáu tháng để ổn định tình hình tại miền Nam Việt Nam và để tăng cường lực lượng của các ông.
—————————————————–
Xem thêm: Worse Than a Monolith: Alliance Politics and Problems of Coercive Diplomacy in Asia, by Thomas J. Christensen. Đại học Princeton xuất bản ngày 3 tháng 4 năm 2011. Trang 206-207.
Quan điểm của Trung Quốc về việc dàn xếp một thỏa thuận hòa bình và chính phủ liên minh ở miền Nam, thay đổi gần như 180 độ từ năm 1968-1972. Ngay sau chuyến viếng thăm của Kissinger tới Trung Quốc vào tháng 7 năm 1971, Chu Ân Lai đã thực hiện một chuyến viếng thăm bí mật đến Hà Nội để kêu gọi đồng bào Việt Nam đàm phán một thỏa thuận hòa bình với Mỹ. Phù hợp với mong muốn của Hoa Kỳ, Chu Ân Lai yêu cầu những người cộng sản Việt Nam chỉ thúc đẩy việc loại bỏ lực lượng Hoa Kỳ khỏi miền Nam Việt Nam và không đòi loại bỏ chế độ Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam như là một điều kiện tiên quyết cho hòa bình.
Rõ ràng, điều này đã gặp phải phản ứng giận dữ của Hà Nội. Hàng tuần và hàng tháng sau chuyến viếng thăm của Nixon hồi tháng 2 năm 1972, Chu Ân Lai đã thúc giục những người cộng sản Việt Nam xem xét một chính phủ liên minh ở miền Nam trong đó có chính phủ Thiệu, lập luận rằng điều này sẽ làm Mỹ ngạc nhiên và rằng, trong các cuộc đàm phán, “ngạc nhiên là cần thiết“.
Ông ta cũng lập luận rằng Bắc Việt có thể sử dụng giai đoạn hòa bình để củng cố quyền lực. Cuối cùng, trong một sự đảo ngược khác, Chu Ân Lai nói về hội nghị Geneva năm 1954 một cách tích cực và đã thương lượng với chính phủ Pháp khôn ngoan như thế nào. Cuối năm đó, một lần nữa Chu Ân Lai thúc giục người Việt linh hoạt trong đàm phán, nói rằng họ nên cho Nixon chút “thể diện” để dễ dàng trong quá trình đàm phán.
Đến tháng 12 năm 1972, thậm chí Mao còn phá hoại “những người được gọi là cộng sản” đã khuyên Việt Nam phá bỏ đàm phán hòa bình Paris. Ông ta còn độc ác đổ lỗi cho Lâm Bưu, người mà lúc đó đã chết, về những chuyện thái quá như thế ở Trung Quốc trong quá khứ! Tháng 6 năm 1973, Chu Ân Lai thuyết phục một đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam “thư giãn và xây dựng lực lượng” trong 5-10 năm và để “xây dựng hòa bình, độc lập và trung lập“, tại miền Nam Việt Nam, Campuchia và Lào. Đây là một thay đổi rất lớn so với năm 1965-1968, khi ở đỉnh cao của sự kình địch ngắn Trung-Xô, trong cuộc xung đột hoàn toàn, Trung Quốc đã thông qua chính sách hiếu chiến nhất của họ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Mặc dù số lượng viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam thay đổi trong bốn năm cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, sự thay đổi của Bắc Kinh trong chiến lược tổng thể về xung đột Việt Nam đã gây căng thẳng lớn trong quan hệ Việt – Trung. Chính sách chung của Trung Quốc đối với xung đột ở Việt Nam trở nên gần gũi hơn với lập trường ôn hoà hơn mà Bắc Kinh đã thông qua tại Geneva năm 1954 một lần cạnh tranh nội bộ Trung-Xô, cuối cùng đã biến thành cuộc đối đầu Trung – Xô. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ Trung – Xô, mà còn ảnh hưởng đến quan hệ Trung – Mỹ và quan hệ Việt – Trung.
Về vấn đề quyền lợi của Mỹ ở Việt Nam, kết quả này có tác dụng hạn chế. Các nỗ lực chiến tranh của Mỹ đã được coi là bị thất bại ở Bắc Kinh, Hà Nội, Moscow, và ngay cả nhiều điều ở Washington. Câu hỏi là, có hay không Trung Quốc đóng vai trò trong việc giúp Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam trong một giải quyết thương lượng mà một số người ở châu Á cho rằng như vậy. Tất cả các dấu hiệu cho thấy rằng Trung Quốc đã cố gắng giúp đỡ về điểm này.
Ngọc Thu dịch từ sách Worse Than a Monolith: Alliance Politics and Problems of Coercive Diplomacy in Asia, của Thomas J. Christensen. Trang 206-207.
————————————-
Nguyên bản tiếng Anh:
China’s views on a negotiated peace and a coalition government in the South changed nearly 180 degrees from 1968 to 1972. Just after the Kissinger visit to China in July 1971, Zhou Enlai reportedly made a secret visit to Hanoi to urge the Vietnamese brethren to negotiate a peace agreement with the Americans. Consistent with US wishes, Zhou would ask the Vietnamese communists to push only for the removal of US forces from South Vietnam and not to insist on the removal of Nguyen Van Thieu’s regime in the South as a precondition for peace. Apparently, this met with an angry response in Hanoi. In the weeks and months following the February 1972 Nixon visit, Zhou urged the Vietnamese communists to consider allowing a coalition government in the South that included Thieu’s government, arguing that this would surprise the Americans and that, in negotiations, “surprise is necessary”. He also argued that North Vietnam could use a period of peace to consolidate its power. Finally, in another reversal, Zhou spoke positively about the 1954 Geneva conference and how it had been wise to negotiate with the French government. At the end of the year, Zhou would again urge flexibility in negotiations on the Vietnamese, saying that they should give Nixon some “face” so as to ease the negotiation process. By December 1972, Mao was even blasting the “so-called communists” who were advising the Vietnamese to break off the Paris Peace Talks. He cynically blamed the then-deceased Lin Biao for such excesses in China in the past! In June 1973 Zhou urged a high-level Vietnamese delegation to “relax and build forces” for five to ten years and to “build peace, independence, and neutrality”, in South Vietnam, Cambodia, and Laos. This was a huge change from 1965-1968, when at the height of Sino-Soviet rivalry short of outright conflict, the Chinese adopted their most aggressive policies toward the war in Vietnam.
Despite the renewed flow of Chinese military assistance to Vietnam in the final four years of the Vietnam War, Beijing’s change of overall strategy toward the Vietnam conflict put a major strain on Sino-Vietnamese relations. The PRC’s general policy toward the conflict in Vietnam became much closer to the more moderate stance that Beijing had adopted at Geneva in 1954 once Sino-Soviet intramural competition had finally turned into Sino-Soviet confrontation. This affected not only Sino-Soviet, but Sino-American, and Sino-Vietnamese relations.
In terms of US equities in Vietnam, this outcome would have a limited effect. The US war effort was already considered lost there in Beijing, Hanoi, Moscow, and even among many in Washington. The question was whether or not China would play some role in helping the US leave Vietnam under the cover of a negotiated settlement that few in Asia expected to hold. All indications suggest that China did try to help on this score.