Đọc lại Giờ Thứ Hai Mươi Lăm
1 – TIỂU SỬ, VĂN NGHIỆP.
Nhân lần thứ 19 ngày nhà văn nổi tiếng Lỗ Ma Ni Constantin Virgil Gheorghiu lìa trần tại Paris, chúng ta cùng đọc lại tác phẩm đầu tay tuyệt diệu của ông: Giờ Thứ Hai Mươi Lăm xuất bản năm 1949, dầy khoảng 450 trang. Đó là cuốn sách bán chạy nhất Âu châu sau Thế chiến thứ hai, ngay vài tuần lễ đầu đã bán được hơn nửa triệu cuốn, đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới. Truyện cũng đã một thời làm say mê cả một lớp thế hệ Sài Gòn năm xưa thập niên 50, 60, độc giả miền Nam xa xưa đã thấy trong tác phẩm không khí của thời binh đao khói lửa và thân phận bi thảm của con người thời chiến, nó rất gần với hoàn cảnh đất nước ta thời ấy. Cuốn sách đã khiến cho người Tây phương vô cùng xúc động hãi hùng về những tội ác rùng rợn của quân Nga gây ra khi họ tràn sang xâm chiếm Đông Âu.
Từ 1949 cho tới 1989 Gheorghiu đã viết và xuất bản được 27 tác phẩm, những cuốn trước do Livia Lamoure dịch ra Pháp văn, những truyện sau ông viết thẳng bằng tiếng Pháp. Tác phẩm đầu tay của Gheorghiu vẫn được coi là nổi tiếng và thành công nhất trong văn nghiệp của ông nhưng không hẳn là hay nhất so với 26 cuốn ông viết sau đó.
Gheorghiu sinh ngày 15-9-1916 tại Moldavie, Bắc Lỗ Ma Ni (Roumanie) mất ngày 22-6-1992 tại Paris. Ông Học trung học từ 1928-1936, sau đó học thần học và triết học tại đại học Bucharest và Heidelberg, Đức; năm 1939 lấy vợ là nữ sĩ; năm 1942, 1943 hai vợ chồng phục vụ tại Bộ ngoại giao Roumanie ở Zagred, xứ Croatie, phía Bắc Nam Tư. Khi quân Nga xâm chiếm đất nước ông ngày 23-8-1944, Gheorghiu và vợ lưu vong. Thế chiến Thứ Hai kết thúc ông và vợ bị người Mỹ giam giữ năm 1945 mỗi người một nơi lý do kẻ thù của Nga cũng là kẻ địch của Mỹ vì Mỹ và Nga là đồng minh. Hai năm sau 1947 mới được thả ra, hai vợ chồng đoàn tụ tại Heidelberg Đức quốc. Không thể sống tại Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp. Trong thời gian ở tù ông viết cuốn “Ora 25” bằng tiếng Lỗ Ma Ni, năm 1949 cho dịch ra tiếng Pháp lấy tên La Vingt-cinquième heure (Giờ Thứ Hai Mươi Lăm) rồi xuất bản tại Paris, được nhà văn, triết gia Gabriel Marcel viết tựa giới thiệu và nổi tiếng ngay.
Những truyện của Gheorghiu viết sau 1949 có khoảng hơn 10 tác phẩm được người đọc đón nhận, trong đó nhiều cuốn có giá trị văn chương cao, nhưng về sau ông chống đối Cộng Sản Nga cực đoan, đưa chính trị vào văn chương nhiều nên ít được chú ý. Một số tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt. Tôi xin giới thiệu một số truyện hay tiếp theo cuốn đầu tay của Gheorghiu, tác phẩm của ông không dài lắm, riêng hai cuốn đầu dầy gần 500 trang, những cuốn sau đó chỉ vào khoảng trên dưới 200 trang.
Năm 1952, ông viết La Seconde Chance, dầy hơn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm một chút, đã được Hằng Hà Sa, Bích Ty dịch ra tiếng Việt (Lối Thoát Cuối Cùng) thập niên 50, 60, bản tiếng Việt rất lưu loát bay bướm không thua gì bản chính tiếng Pháp. Truyện không có trọng tâm như cuốn La Vingt-cinquième heure có nghĩa là nhiều nhân vật nhưng vai chính không nổi. La Seconde Chance không nổi tiếng như cuốn đầu tay Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của Gheroghiu nhưng có phần lôi cuốn tuyệt diệu hơn, đây cũng là một trong những truyện hay nhất của tác giả về thảm kịch thời hậu chiến. Nội dung toát ra bầu không khí kinh hoàng bao trùm lên thân phận của những người tỵ nạn Do Thái trốn tránh phát xít sang Sô Viết bị ngược đãi tàn nhẫn, những cảnh trồng cây trên xác chết tại sa mạc trong vùng Sô viết, cảnh phát xít bách hại người Do thái trong lò sát sinh… y như trong cơn ác mộng, Gheorghiu bị ám ảnh bởi cơn ác mộng hãi hùng Sô viết, nó cũng chính là nỗi kinh hoàng của khối Đông Âu khởi đầu từ những ngày tàn của cuộc Thế chiến.
L’Homme qui voyagea seul, Người Lữ Khách Cô Đơn viết năm 1954 dầy hơn 200 trang thể hiện tâm trạng u uất cay đắng của tác giả khi bị người ta kết án là bênh vực cho phát xít, bênh vực cho kẻ thù. Ông nói kẻ thù của các anh chứ không phải của tôi, người Đức đã giúp chúng tôi chống lại bọn Sô viết xâm lược dầy xéo đất nước tôi.
Năm 1957 ông viết Les Sacrifies du Danube, Những Kẻ Hy Sinh Vùng sông Danube, truyện ngắn trên 100 trang thể hiện nỗi cay đắng uất hận của những nước Đông Âu trong vùng Danube như Hung Gia Lợi, Nam Tư, Lỗ Ma ni, Tiệp Khắc, Bảo Gia Lợi… đã bị Tây Phương, Hoa Kỳ nhường cho Sô Viết năm 1944, 1945. Ở cương vị người Đông Âu, tác giả nói để cứu nền văn minh Tây Âu, Mỹ đã nhường Đông Âu cho Sô viết khiến cho trên 150 triệu người đã bị tán gia bại sản, trở thành nô lệ, làm thân trâu ngựa cho Cộng Sản Sô viết vô cùng tàn bạo. Đông Âu đã bị làm vật hy sinh, về điểm này trong bộ Lịch sử Thế chiến Thứ hai (Histoire de la seconde guerre mondiale) cho biết sở dĩ Mỹ nhường Đông Âu cho Nga để nhờ Nga phụ một tay đánh quân Nhật ở Á Châu khi mặt trận Âu châu kết thúc vì Nhật còn 5 triệu quân, cuộc chiến có thể kéo dài khoảng hai năm nữa. Người Mỹ quí sinh mạng lính như vàng, đối với Cộng Sản Nga, mạng người rẻ như bèo. Truyện ngắn thể hiện nỗi niềm cay đắng của các dân tộc nhược tiểu, không tự quyết định số phận của mình mà phó thác cho sự mua bán đổi chác của các siêu cường. Trước 1975 có một cuốn sách Pháp nói về Hội nghị Yalta lấy tên “Yalta, Ou le Partage du Monde”, Yalta hay sự phân chia thế giới.
Truyện xẩy ra tại Bảo Gia Lợi (Bulgarie), nó thể hiện nỗi ám ảnh kinh hoàng của người Đông Âu đối với bọn quỉ đỏ như sau: Một người chạy trốn Sô Viết sang phần đất tự do bị trúng đạn của lính biên phòng, hai người nhân đạo cứu anh đem về nhà, họ băng bó vết thương cho anh. Một người ứa nước mắt bảo vết thương đã có dòi, người kia đề nghị đi tìm bác sĩ hoặc đưa nạn nhân đi nhà thương nhưng anh này gạt đi bảo: “Nếu tìm bác sĩ thì rồi bọn công an cũng sẽ biết, sẽ tìm đến đây, người nạn nhân này sợ công an còn hơn là sợ dòi bọ, chẳng thà để hắn chết vì dòi bọ đục khoét còn hơn để hắn sa vào tay bọn an ninh, mật vụ”
Năm 1960 ông viết La Cravache, Chiếc Roi Ngựa, truyện dầy gần 200 trang. Người đọc có cảm tưởng như cốt truyện diễn ra trong khoảng ba bốn năm trời dài đằng đẵng nhưng đến khi kết thúc mới biết tất cả chỉ xẩy ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ, Gheorghiu như muốn cho độc giả thấy thiên tài vượt bực có một không hai của mình. Đó là ngày 23-8-1944, ngày dài nhất của lịch sử nước Lỗ Ma Ni khi xích sắt của xe tăng Nga tràn qua nghiền nát quê hương Gheroghiu mang theo biết bao tội ác dã man ghê rợn, đó cũng là ngày kinh hoàng nhất của lịch sử đất nước ông trong cảnh hoang tàn vì cướp bóc, bắn giết, hãm hiếp man rợ … của quân xâm lược diễn ra khắp nơi khởi đầu cho 45 năm nô lệ của người dân nước Lỗ.
Năm 1958 Gheorghiu viết Les Mendiants de miracles, Những Kẻ Ăn Mày Phép Lạ, khoảng 200 trang, bối cảnh Phi châu, tác giả luận về chính trị nhiều.
Năm 1961 viết Perahim, truyện có vẻ cải lương nhưng cũng khá nổi tiếng.
2 – LUẬN ĐỀ TÁC PHẨM.
Những truyện kế tiếp của Gheorghiu, mặc dù nhiều cuốn có nội dung sâu sắc, lôi cuốn kỳ diệu nhưng vẫn không thể làm lu mờ được tác phẩm đầu tay, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là tác phẩm tiêu biểu của Gheorghiu. Đây là cuốn tiểu thuyết luận đề, Gheorghiu với tư cách nhân chứng của thời đại cho rằng nền văn minh máy móc đã hủy hoại nhân phẩm, giá trị con người xuống hàng số không. Tác phẩm đầu tay của ông cũng thể hiện phần nào cuộc đời tác giả, trong đó nhân vật Traian, văn sĩ người viết cuốn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm là hình ảnh của C.V. Gheorghiu.
Xin Sơ lược.
“Tại ngôi làng Fantana hiền hòa xứ Roumanie, Moritz, chàng nông dân chất phác có người yêu Suzanna, con gái một địa chủ giầu có tàn ác, không được cha chấp nhận cuộc hôn nhân nàng đã trốn theo Moritz. Anh nhờ Traian, văn sĩ, con mục sư Koruga (Chính Thống giáo) giúp đỡ tiền bạc đã mua đất, làm nhà, có hai con, Traian đang viết dở cuốn sách lấy tên Giờ Thứ Hai Mươi Lăm. Gia đình yên ấm, sóng gió bỗng dưng nổi lên, gia đình ly tán. Tên trưởng đồn cảnh binh làng Fantana muốn trăng hoa cô vợ trẻ Suzanna bèn làm giấy đưa Moritz đi đào kênh phòng thủ để hắn ở nhà dụ dỗ nàng. Một sự xui xẻo, ở trại tập trung người ta ghi nhầm anh là gốc Do thái, thế là chàng không hy vọng ngày về. Ở nhà Suzanna phải làm giấy ly dị để giữ căn nhà, nàng vẫn chờ đợi Moritz.
Chàng được đưa tới trại khác, tại đây một ông bác sĩ cùng năm người Do thái hối lộ trưởng trại để trốn qua Hung gia Lợi.Bác sĩ cho Moritz theo để khiêng đồ dùm ông. Mục sư và con trai Traian lo khiếu nại cho Moritz nhưng không có kết quả. Eleonora, người yêu của Traian gốc Do thái vội kết hôn với chàng để có chỗ tựa vì chàng người nước Lỗ.
Sau khi sang Hung, ông bác sĩ và năm người bạn Do thái được giúp đỡ làm giấy tờ qua Mỹ tỵ nạn, Moritz ở lại bị công an bắt dọc đường về bót điều tra, họ nghi chàng được đưa sang Hung làm tình báo gián điệp rồi tra tấn dã man anh đến ngất xỉu, Moritz khai thật nhưng họ không tin vẫn đánh đập chàng hết ngày này sang ngày khác. Đức quốc xã ép Hung giao năm chục ngàn người sang làm nhân công, chính phủ Hung lựa người Do thái, bọn tù, tội phạm để giao cho Đức. Moritz được người Hung thả ra rồi đưa sang Đức làm lao nô, các nước khác cũng phải giao người cho Đức, giá trị con người không còn nữa.
Một hôm Moritz được gọi lên văn phòng để làm thông dịch viên tiếng Balkan, nhân dịp Đại Tá Đức Muller thuộc sở O.K.W tới, ông ngắm nghía Moritz và quả quyết chàng thuộc dòng giống anh hùng, dòng Đức thuần chủng, chàng là một kiểu mẫu hoàn hảo. Moritz được đưa vào quân đội, binh chủng SS rồi chàng trở thành lính gác coi tù. Moritz tưởng Suzanna ly dị chàng nên tái giá, lấy cô y tá Đức Hilda có một con trai với cô. Tại làng Fantana, cha chàng chết bệnh. Hàng ngày Moritz dẫn năm người tù binh Pháp đi làm cầu, họ rủ anh trốn và thuyết phục mãi, cuối cùng Moritz trốn theo họ sang vùng Mỹ kiểm soát.
Quân Nga chiếm Roumanie, đàn bà bị hãm hiếp, đàn ông bị bắt bớ đánh đập, bị bắn chết, nhiều người trốn vào rừng kháng chiến. Quân Nga lập tòa án nhân dân xử tử khoảng mười người gồm mục sư Koruga, quản đồn cảnh binh, tám người nhà giầu… Mẹ Moritz và vợ chàng Suzanna vô rừng tìm xác mục sư, ông chưa chết, được hai mẹ con bà cứu giao cho quân Đức đi ngang qua chở về Đức.Mẹ Moritz bị quân Nga giết vì cứu mục sư, Suzanna bế con bỏ làng trốn.
Quân Nga tiến vào Đức, cha Suzanna nay là sĩ quan Đức lại nhà Hilda (vợ thứ hai Moritz) cạo râu, thay quân phục chào quốc trưởng rồi tự sát, Hilda theo lời dặn của ông tưới xăng đốt xác ông nhưng nàng và con bị chết cháy theo. Traian (con mục sư Koruga)và vợ đi bộ 200 dặm để tới tỉnh Weimar thuộc Mỹ nhưng bị bắt giam vì là dân nước nghịch Roumanie. Traian được chở tới trại giam thuộc khu do Mỹ kiểm soát, trại tù này nằm giữa cánh đồng,chứa mười lăm ngàn người (15.000) tại đây chàng gặp lại Moritz, mặc dù đã cứu được năm người tù binh, họ vẫn không tin anh và giam anh lại, Moritz đã bị lưu đầy trong 14 trại giam.
Sau lại chuyển trại, gặp lại mục sư Koruga, ông được quân Đức đưa vào bệnh viện cứu chữa và cưa hai chân nay chống nạng bị quân Mỹ giam tại đây. Moritz gặp lại ông bác sĩ cùng trốn với anh từ trại giam Lỗ Ma Ni sang Hung Gia Lợi, sau ông đi Hoa Kỳ, bây giờ là trung úy quân y của Mỹ, ông nói không giúp gì được chàng mà chỉ có thể cho đồ ăn, thuốc lá. Moritz nhận được thư của mẹ Hilda, vợ thứ hai được biết nàng chết cháy cùng đứa con trai bà đã chôn hài cốt rồi, mục sư cho biết Suzanna vẫn chung thủy chờ anh, anh hối hận đã tái giá với Hilda, mục sư thuyết giảng cho con ông rồi chết trong tù, trại này giam hai chục ngàn người.
Traian tuyệt thực phản đối trưởng trại cho mang xác mục sư Koruga mà không cho anh theo dự để xem ông có được làm phép theo Chính thống giáo không. Phóng viên Mỹ đến thăm, họ đưa Traian đi nơi khác để che dấu vì chàng sẽ nói sự thật. Tù nhân chết đói hàng ngày. Traian tuyệt thực, họ đưa anh vào nhà thương điên, anh làm nhiều đơn từ họ không xét, Train chống lại nền văn minh máy móc, nó tiêu diệt con người, rồi chàng được thả ra khỏi nhà thương điên. Traian cho Moritz cái tẩu thuốc và đưa đôi kính đeo mắt cho Moritz, nhờ anh sau này trao cho vợ chàng tức Eleonora. Traian thản nhiên đi ra cổng chính, càng ngày càng gần hàng rào kẽm gai, bọn tù hồi hộp theo dõi, người lính gác bấm cò hai lần, phát thứ hai khiến Traian ngã gục, chàng đi tìm cái chết.
Bốn ngày sau Traian chết, Moritz nhận được thơ Suzanna,nàng kể lại những ngày gian truân, bị quân Nga hãm hiếp nhiều phen,có đứa con với chúng,nàng xin tha thứ.Moritz được gọi đi Nuremberg xét xử, cuối cùng được thả về sum họp với Suzanna,Moritz cũng gặp lại vợ Traian, Eleonora,anh trao cho chị ta kính đeo mắt của Traian”.
Giờ Thứ Hai Mươi Lăm là cuốn tiểu thuyết luận đề thể hiện niềm sợ hãi sự diệt vong của loài người, hậu quả do xã hội kỹ thuật máy móc mang lại. Một xã hội máy móc, tôn sùng kỹ thuật có nguy cơ tận diệt nhân loại. Moritz, Traian, Koruga… những nạn nhân của xã hội máy móc, những con người vô tội nhưng đã phải cam chịu nhiều oan khiên đầy đọa vô cớ, nhất là Moritz, người thể hiện thân phận bi đát nhất của thời đại máy móc mà giá trị con người đã xuống thấp đến chỗ không còn gì cả. Một nông dân chất phác, hiền lành như anh, con người hoàn toàn vô tội bị kẻ gian hãm hại, đi đào kênh. Moritz bị ghi nhầm là Do thái trong danh sách đưa tới gia đình tan nát, trốn sang Hung bị công an tra tấn dã man vì tình nghi làm gián điệp, bị bán cho phát xít Đức, được chúng cho vào lính, coi tù rồi cứu được năm người tù binh Pháp nhưng vẫn bị Mỹ giam cầm hết trại tù này sang trại tù khác. Khi chiến tranh chấm dứt, anh chỉ thấy toàn là trại giam, những hàng rào kẽm gai…
Hậu quả của văn minh máy móc là sự tiêu diệt xã hội loài người, đó là ngày tận thế, Giờ thứ hai mươi lăm. Nhân vật Traian trong truyện, người viết cuốn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm, cho biết đó là giờ mà mọi cấp cứu đều vô vọng, dù Chúa Cứu thế ra đời cũng không thể cứu vãn được, đó không phải là giờ chót mà giờ kế sau giờ cuối cùng. Giờ của xã hội, văn minh Tây phương.
Theo Gheroghiu văn hóa Tây phương không còn quí trọng con người nên sẽ bị diệt vong, xã hội kỹ thuật khinh rẻ con người khiến giá trị con người ngày càng giảm nhất là tại Nga, con người còn rẻ hơn nữa. Moritz đã bị Hung Gia Lợi bán cho Đức quốc xã làm nô lệ đổi lấy một thùng đạn, khi ấy Moritz nghĩ mình sẽ làm nô lệ suốt đời. Sang Đức làm lao nô trong một nhà máy sản xuất quốc phòng, Moritz được người ta nói máy móc là một người thợ hoàn hảo nhất, ta phải học nó để làm việc, nó dậy ta kỷ luật, trật tự, sự hoàn chỉnh… Moritz sợ máy móc và sợ những con người giống máy móc, văn sĩ Traian nói với vợ: “Tây phương tạo nên một xã hội giống như cái máy và con người sống trong xã hội phải thích ứng theo luật lệ của máy móc, họ tưởng là thành công nhưng thực ra đã giết lần mòn con người khi họ buộc con người phải theo những luật lệ đã chi phối cái ô tô, đồng hồ, đối với xã hội kỹ thuật, con người coi như không có”
Traian làm đơn thỉnh cầu cho Moritz, anh ta vô tội, không trộm cắp, giết người, lường gạt, không phạm tội trước luật pháp cũng như giáo hội nhưng bị bắt giam vô cớ hết ngày này sang ngày khác, đã bị lưu đầy trong mười bốn trại giam. Suốt đời chàng chỉ có một ước mơ tầm thường là được yên ổn làm ăn, nuôi sống gia đình nhưng như vậy là có tội? Moritz đã giúp năm người tù binh vượt khỏi trại giam phát xít, như vậy là có tội chăng?
Traian hỏi người sĩ quan Mỹ thẩm vấn chàng lý do họ bắt mình, ông ta nói vì anh là một công chức nước Roumanie, thù nghịch của Mỹ và đồng minh, chiếu theo luật lệ vợ công chức cao cấp của nước thù nghịch cũng bị bắt, mục sư Koruga cha Traian bị bắt vì là công chức nước nghịch, luật pháp nào cũng nghiêm minh cả. Người Mỹ cho rằng khi họ coi con người chỉ là một loại hạng, thành phần là một cách giải quyết công bình và nhanh chóng nhất, nay chúng ta đang ở thời kỳ toán học và khoa học chính xác không thể vì lý do tình cảm, tình cảm chỉ là sản phẩm của thi nhân, thần học. Traian kết án đó là một phương pháp vô nhân đạo, xóa bỏ con người.
Hai chục ngàn tù nhân bị giam theo thủ tục phòng hờ, khi cần một phạm nhân chỉ cần bấm số là ra ngay, khỏi phải chạy tìm kiếm mất thì giờ, con người đã ở trong guồng máy phải chờ giống như một sợi chỉ đã luồn trong máy dệt không thể lấy ra được mà phải chờ khi nó ra khuôn. Tù nhân bị giam giữ vô cớ hết năm này sang năm khác không còn tin tưởng vào công lý loài người, nó đã biến mất trên thế gian này.
Tâm tư của nhân vật Traian thể hiện luận đề của tác phẩm, chàng chính là hình ảnh của tác giả Gheorghiu. Traian nói xã hội kỹ thuật Tây phương không còn hợp với đời sống cá nhân vì nó bóp chết con người, loài người sẽ phạm tội nặng, xã hội ấy sẽ bị diệt vong như bao xã hội khác trong lịch sử.
Xã hội Tây phương hy sinh con người cho lý thuyết, cho kế hoạch, nó đã tiêu diệt con người, nó tìm hiểu và nâng cao đời sống con người bằng những con số toán học và thống kê. Các luật lệ máy móc, hoạt động của cơ giới không bao giờ tạo được ý nghĩa cho đời sống con người khi ấy đời sống con người sẽ tiêu vong.
Và rồi Traian đi tìm cái chết, người ta cho anh chỉ là người điên quẫn chí, nhưng anh đã phản kháng lại nền văn minh máy móc và đem xác thân ra để đòi công bằng công lý cho cá nhân mình, cho Moritz cũng như cho hàng vạn người bị giam cầm oan uổng. Họ đã là nạn nhân của một nền văn minh chỉ biết coi con người như những con số, đã đưa giá trị con người xuống hàng số không.
3 – CƠN ÁC MỘNG SÔ VIẾT.
Một khía cạnh bi đát thứ hai của thân phận con người thời chiến tranh máy móc được Gheorghiu diễn tả một cách chân thực nhất, nó đã khiến cho thế giới Tây phương thời hậu chiến vô cùng sững sờ kinh ngạc trước sự tàn bạo dã man của Hồng quân Sô viết khi họ tràn qua làm cỏ Đông Âu.
Ngày 23-8-1944 khi chiến xa và bộ binh Nga vượt biên giới chiếm Lỗ Ma Ni, dân làng Fantana hốt hoảng ghê sợ bọn ngọai xâm vô cùng tàn ác, nhiều người trốn vào rừng kháng chiến không để giặc bắt. Quân Nga thả tù và dùng bọn tay sai thân Cộng Sản lập tòa án nhân dân xử tử hình mục sư Koruga, trưởng đồn an ninh, và tám người nhà giầu… Tiếp theo sau chân quân Nga là những chuyện kinh hoàng: đàn bà bị hãm hiếp, đàn ông bị đánh dập ngoài đường phố, ngoài chợ… cướp bóc bắn giết ngay giữa ban ngày y như quân Hung Nô Mông cổ từ châu Á tràn sang làm cỏ châu Âu từ những thế kỷ xa xưa.
Cộng quân đi tới đâu người dân chạy như vịt đến đấy, họ đều chạy trối chết để xa lánh bọn Sô viết ác ôn để sang phía Mỹ, phía Anh hay Pháp. Họ không nghĩ đi đường nào mà chỉ nhắm mắt chạy trốn Hồng quân, trốn sự tàn bạo dã man, trốn cảnh khủng bố giết chóc tra tấn của chúng. Họ nhắm hướng nào không có quân Nga và nhắm mắt chạy về hướng ấy không bao giờ quay gót trở lại vì phía sau lưng họ chỉ toàn là cảnh tối đen như mực và đẫm máu, sau lưng họ là chém giết, họ ôm chầm lấy vùng đất không còn bóng dáng quân Nga. Những người tỵ nạn không cần biết đó là nơi nào miễn là chạy thoát khỏi tay bọn sát nhân Sô viết.
Người ta thường nói một bức hình bằng nghìn lời nói, nhưng với bút pháp điêu luyện tuyệt vời của Gheorghiu, một bức thư đã trị giá bằng một vạn, một trăm nghìn lời nói như trong vài trang giấy của Suzanna gửi cho chồng Moritz khi anh sắp được trả tự do.
…Suzanna nói chắc anh tưởng em đã chết, đã chín năm trôi qua chúng ta không có tin tức nhau nay nhờ Hội Hồng thập tự em bèn gửi thư cho anh, lòng em bao giờ cũng nghĩ anh vẫn còn sống, em xin cầu nguyện Đấng thiêng liêng che chở phù hộ cho anh vì anh chưa làm gì nên tội.
Nàng nói trong chín năm qua biết bao chuyện đã xẩy ra, hiện nay em ở nước Đức, hôm anh bị bắt đi em vẫn nghĩ anh sẽ được trở về vì thế đêm nào, ngày nào em cũng mong thấy anh trở về. Ít ngày sau người trưởng đồn cảnh binh cho biết anh là Do thái, hắn sẽ tịch thu nhà cửa, em phải ký giấy li dị để giữ nhà nhưng em vẫn chờ anh như trước.
Nàng kể tiếp, khi quân Nga đến chúng bắn mục sư Koruga và mấy người khác, em và mẹ anh đã lôi mục sư ra đường, ngài chưa chết, em và mẹ đã giao cho đoàn xe nhà binh Đức chở ngài đi. Hôm sau mẹ bị bọn tay sai Nga bắn chết vì cứu mục sư, em phải dẫn con trốn khỏi làng sợ chúng giết, em chạy xa đến tận nước Đức. Quân Nga bắt được em, chúng cho các con bánh mì, kẹo và quần áo, bốn ngày sau em bị bệnh thì một bọn lính Nga tông cửa vào nhà tìm đàn bà con gái, chúng bắt em và cô con ông chủ nhà mới mười bốn tuổi, chúng bắt tụi em uống rượu và cưỡng hiếp chúng em cho đến sáng.
… em kể lại cho anh nghe chuyện ấy vì em không muốn dấu anh điều gì, em ngất xỉu khi tỉnh dậy thì các con khóc như ri, đêm sau bọn lính trở lại hãm hiếp chúng em. Hôm sau em trốn xuống hầm nhưng chúng cũng tìm được và lại làm chuyện tồi bại như mọi khi, hai tuần liên tiếp dù trốn ngoài vườn, bên những nhà lân cận chúng cũng đều tìm được em và cưỡng hiếp em trước mắt các con. Em định tự tử cho xong nhưng nghĩ tới các con, nếu em chết chúng sẽ bơ vơ xứ lạ nên bỏ ý định quyên sinh nhưng khi ấy em tự coi như đã chết rồi.
Suzanna kể tiếp … em phải lánh xa quân Nga, chạy trốn về vùng chiếm đóng của quân Anh hay Mỹ nhưng dọc đường quân Nga bắt được em nhiều lần, hãm hiếp em trước mắt trẻ con, đàn bà con gái nào bị chúng bắt được đều chịu chung số phận. Trước khi vào được vùng do Anh kiểm soát bọn Nga giữ em lại ba ngày và hãm hiếp em ngày đêm, lần chót này em có thai với chúng nay đã năm tháng…
…. mình có thể tha thứ cho em được không, mình còn nhìn nhận em là vợ nữa hay không? em khóc ròng khi viết thư này và chờ tin anh…
Chuyện lính Nga hãm hiếp đàn bà dã man tại các nước Đông Âu nay cũng chẳng xa lạ gì, sáu năm trước đây, phim ảnh, sách báo đã tố cáo năm 1945 có tới hai triệu phụ nữ Đức bị quân Nga hãm hiếp nhưng bức thư của Suzanna vẫn gây xúc động hơn bao giờ hết, sau thế chiến nó đã khiến Tây phương vô cùng kinh ngạc, người ta không thể ngờ quân Nga mọi rợ dã man đến thế.
Gheorghiu thể hiện nỗi ám ảnh sâu xa của người Đông Âu với chế độ độc tài Sô viết cũng như niềm cay đắng oán hận Hoa kỳ, Tây phương đã bán đứng Đông Âu cho quỉ đỏ để họ phải làm thân nô lệ cho Cộng Sản một nửa thế kỷ qua.
4- KẾT LUẬN.
Gheroghiu, một thiên tài hiếm hoi của thế kỷ với bút pháp kỳ diệu khác thường, với những dòng chữ giản dị ông đã diễn tả được những tư tưởng thật cao. Mặc dù là bi kich, nhưng ông vẫn luôn dí dỏm, chua chát, trong lịch sử văn chương cận đại thật chưa có tác phẩm nào thể hiện thân phận bi đát và hố thẳm của loài người như thế ngoài cây bút Gheorghiu.
Tác giả có cảm tình với Đông phương, ông nói xã hội kỹ thuật Tây phương tạo được tiện nghi cho con người nhưng không tạo được linh hồn trí óc. Khi xã hội kỹ thuật sụp đổ, những giá trị nhân bản sẽ được tái sinh, ánh sáng sẽ rọi từ Đông phương, từ Á châu, họ sẽ thu phục làm chủ xã hội kỹ thuật nhưng không làm nô lệ máy móc và tôn thờ nó như ở Tây phương. Họ sẽ làm chủ máy móc bằng trí khôn của họ như một người nhạc trưởng. Mục sư Koruga kể cho viên sĩ quan Mỹ nghe một đoạn ngắn trong Lão Tử Đạo Đức kinh (chương 31) để diễn tả tinh thần nhân bản của Đông phương:
“Thắng cũng chẳng hay gì. Dù có hay đi nữa. Chỉ là thích chém giết. Kẻ ham chém giết. Ắt chẳng thu phục nhân tâm.
(Nguyên văn: Thắng nhi bất mỹ. Nhi mỹ chi giả. Thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả. Tắc bất khả dĩ đắc chí ư thiên hạ hĩ)”
Quân Nga đã gần tới, người sĩ quan Đức thất trận, cạo nhẵn râu ria, mặc quân phục mới chỉnh tề, đeo huy chương đầy ngực, dơ tay chào Quốc trưởng rồi tự sát, ông đã làm xong nhiệm vụ cuối cùng của đời mình. Hình ảnh anh hùng và quá đẹp của một sĩ quan Quốc xã lúc thất trận cho thấy Gheorghiu có cảm tình với họ, đó cũng là điểm khiến tác giả bị người ta chỉ trích ông thân phát xít.
Nhân vật của Gheroghiu ở đây có tính biểu tượng hơn là hiện thực, để diễn tả luận đề về thân phận bi đát của con người ở nhiều chỗ độc giả thấy nó gượng ép mất tự nhiên: Lưu lạc bao nhiêu năm tại nhiều nước cuối cùng Moritz, mục sư Koruga, văn sĩ Traian… lại gặp nhau trong trại giam của Mỹ tại Đức… cuối truyện Moritz gặp lại Eleonora, vợ Traian và trao lại cho bà chiếc kính đeo mắt của chồng.
Dù vậy Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là cuốn tiểu thuyết diễn tả được thân phận bi thảm nhất của con người trong một nền văn minh kỹ thuật thời chinh chiến. Bi kịch lại được kết thúc happy – ending hạnh phúc. Suzanna mười mấy năm chung thủy chờ chồng, trong ngày hội ngộ, Suzanna mặc chiếc áo dài xanh mà nàng đã mặc mười ba năm trước khi bỏ nhà trốn theo Moritz. Chiếc áo này nàng đã mang trên người mấy tuần khi hai người yêu đương hạnh phúc bên nhau với mối tình đẹp đẽ trong đời. Chiếc áo này vợ chồng nàng rất thích và cho là đẹp nhất, Suzanna đã cất dấu nó mười mấy năm qua, đi đâu nàng cũng mang nó theo bên mình. Nàng thề khi nào chàng về tới cửa mới đem áo xanh ra mặc, nàng mòn mỏi chờ chồng mười mấy năm đằng đẵng nay mới đem ra mặc để kỷ niệm những ngày đầu tiên của cuộc đời phu thê. Moritz thấy nàng không thay đổi nhiều, da nàng có nhăn, tóc đã bạc mầu nhưng nàng vẫn như xưa, vẫn như trong cuộc tình nồng thắm bên đồng cỏ làng Fantana khi họ còn son trẻ.
Năm 1967, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm đã được quay thành phim, nhà sản xuất Ý Carlo Ponti và đạo diễn Pháp Henri Verneuil thực hiện, hãng MGM phát hành. Tài tử nổi tiếng Mỹ gốc Mễ Anthony Quinn đóng vai Moritz, Virna Lisi vai Suzanna, Liam Redmond vai mục sư Koruga, Serge Reggiani vai Traian. Phim dài đúng 2 giờ, cũng có cái hay riêng nhưng nói chung điện ảnh chỉ diễn tả được phần nào tác phẩm, nhà đạo diễn chỉ kể lại một phần cốt truyện mà không nói lên được hết ý nghĩa của nó. Những người đã đọc truyện không thỏa mãn với phim, họ cho là làm mất hết cái hay của tác phẩm. Tuy nhà đạo diễn có làm khác đi nhưng cũng thể hiện được bi kịch cuộc đời Moritz bằng những hình ảnh sống động. Nhạc hay cảnh đẹp, mầu sắc lộng lẫy, mặc dù dựa theo một cuốn tiểu thuyết bất hủ và ăn khách, phim không nổi tiếng lắm và cũng không được giải thưởng nào. Diễn xuất của Anthony Quinn nổi bật nhất so với các vai khác.
Nghệ thuật của Gheorghiu cho tới nay vẫn còn mới lạ, những hình ảnh biểu tượng của ông đã diễn tả một cách hiện thực nhất, bi đát nhất tình trạng hãi hùng bên bờ vực thẳm mà loài người đang vươn tới. Giờ Thứ Hai Mươi Lăm nay đã thành một từ quen thuộc, được nghe nhắc đến rất nhiều, người ta thường hiểu đó là những giờ phút cuối cùng nhưng theo ý nghĩa của luận đề trong tác phẩm nó là giờ sau giờ chót, giờ tận thế mà con người đang tiến đến.
Thấm thoắt đã nửa thế kỷ trôi qua, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất, hàng trăm năm mới có tác phẩm hay như vậy
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
“Giờ hứ 25″ đả được Mỷ quây thành phim với Anthony Quinn,tài tử mặt góc canh,xấu trai (phim nhà thờ dức bà, godfather).Đây là phim nói về thân phận con người,chân chất,thật thà,mơ ước giản dị có được một đời sống bình thường ,một hạnh phúc củng bình thường sống với người mình yêu.Thế rồi chiến tranh ai gây nên làm xáo trôn tất cả. Anh nông dân bị cuốn hút trong cơn bảo ,bị đưa đẩy vào tù,bi làm vật thí nghiệm ….cho đến khi già đi,số phận củng không buông tha. Cái cười méo xệch kết thúc phim (truyên) đảđể lại trong lòng người xem nhiều nổi bâng khuâng.
“Giờ thứ 25″giờ đây vẩn là giờ thứ 25.Vẩn không thay đổi. Cuốn truyên ,cuốn phim vẩn đang viết tiếp,quây tiếp . “Satan never Sleep” ….Và vì vậy,chúng đả đang QUẬY kìa,Chuá ôi !,Phật ôi ! Các Ngải đâu rồi ?
Mời bạn đọc vào xem tuyệt tác này ở đây: GIỜ THỨ HAI MƯƠI LĂM – C. V. GHEORGHIU
Tôi và các bạn hữu đã typing xong từ 2 năm trước từ bản Việt văn của LÊ NGỌC TRỤ và VÕ THỊ HAY, (theo bản dịch sang Pháp ngữ LA VINGT – CINQUIÈME HEURE của MONIQUE SAINT – CÔME), do Tổ Hợp Gió Bốn Phương xb tại saigon, 27/1/1967
Xin ông Lê Tùng Châu cho cái link để đọc
Chânt hành cám ơn,
QV
Thưa vâng: GIỜ THỨ HAI MƯƠI LĂM – C. V. GHEORGHIU
Có lẽ html của ĐCV “gets problem” nên tựa sách đã không hiển thị hyperlink.
Hoặc mời bạn đọc vào Blog tôi, phía bên phải giao diện, mục VĂN, sẽ thấy nhiều sách khác nữa….
“….Ngày 23-8-1944 khi chiến xa và bộ binh Nga vượt biên giới chiếm Lỗ Ma Ni, dân làng Fantana hốt hoảng ghê sợ bọn ngọai xâm vô cùng tàn ác, nhiều người trốn vào rừng kháng chiến không để giặc bắt. Quân Nga thả tù và dùng bọn tay sai thân Cộng Sản lập tòa án nhân dân xử tử hình mục sư Koruga, trưởng đồn an ninh, và tám người nhà giầu… Tiếp theo sau chân quân Nga là những chuyện kinh hoàng: đàn bà bị hãm hiếp, đàn ông bị đánh dập ngoài đường phố, ngoài chợ… cướp bóc bắn giết ngay giữa ban ngày y như quân Hung Nô Mông cổ từ châu Á tràn sang làm cỏ châu Âu từ những thế kỷ xa xưa.
Cộng quân đi tới đâu người dân chạy như vịt đến đấy, họ đều chạy trối chết để xa lánh bọn Sô viết ác ôn để sang phía Mỹ, phía Anh hay Pháp. Họ không nghĩ đi đường nào mà chỉ nhắm mắt chạy trốn Hồng quân, trốn sự tàn bạo dã man, trốn cảnh khủng bố giết chóc tra tấn của chúng. Họ nhắm hướng nào không có quân Nga và nhắm mắt chạy về hướng ấy không bao giờ quay gót trở lại vì phía sau lưng họ chỉ toàn là cảnh tối đen như mực và đẫm máu, sau lưng họ là chém giết, họ ôm chầm lấy vùng đất không còn bóng dáng quân Nga. Những người tỵ nạn không cần biết đó là nơi nào miễn là chạy thoát khỏi tay bọn sát nhân Sô viết.” (thôi trich)
Đọc đoạn trích dẩn trên !!!!!!
Tôi như sống lại caí cảnh trên ĐAỊ LỘ KINH HOÀNG 1972 Quãng Trị !!!
Quốc lộ 1 Huế Đà Năng 1972 , rồi 75 !!!!
Nhiều nhiều nữa !!!!! trên khắp đất nước MIỀN NAM trước 1975 . Nhân dân Miền Nam cũng chạy như vậy . Tìm con đường sống y chang như vậy ! Tránh CƠN AC MỘNG CỘNG HỒ y chang như vậy !!!!
Nhưng rồi thì HOẠ TRỜI, Hoạ CS !!! Chạy đâu cho khỏi !! Xin thắp một nén nhang khấn nguyện cho những người nằm xuống !
MỪNG, chúc mừng bà con Bác Kỳ Di Cư nhờ kinh nghiệm đầy mình, nên chaỵ tới cùng! Chết cũng chạy,! Nhờ vậy mà đa số chạy thoát… đơn cử Nguyễn Cao Kỳ, gia đình Phạm Duy !
Dân Miềm Nam thuần tuý vì không có kinh nghiệm về “hoạ CS” nên còn “ngây thơ”..chạy chừng chừng, tơí đâu hay tới đó, chạy mệt thì nghỉ chạy.. !!!
BÀ CON chúng tôi lảnh đủ là vậy !!!!!
Giá như mà lịch sữ lặp laị thì….! Cây cột đèn cũng chạy ! Không chạy được thì chết cũng chống !
Chống “Thực dân CS Bác Kỳ ; chí rận ghẻ lác, xà mâu…..” cho đến chết thì thôi CHỐNG!! hehehe ….
“Giờ thứ hai mưoi lăm” của thế kỷ trước bao hàm ý nghĩa sự thống trị của cộng sản Sô viết bao trùm lên Đông Âu sau Đệ Nhị thế chiến.
Thế kỷ này, tôi e rằng “Giờ thứ hai mươi lăm” có hàm ý về nạn bành trướng của TQ ngày một đè nặng lên toàn thế giới. Chúng ta có thể nóì mà không sợ lầm rằng nạn nhân đầu tiên của “Giờ thứ hai mươi lăm” trong thế kỷ này, chẳng ai xa lạ, chính là dân tộc VN!
Thế kỷ này? sao ông chỉ tính có Trung cộng? thế còn các tín đồ khác của cái chủ nghĩa mác lê gươm giáo ở Bắc Hàn, Việt nam thì ông quên sao? Chắc ông chưa được cái lực lương bảo vệ Đảng nó hỏi thăm. Nhưng hàng chục năm qua, ông không biết một ai đang bị họ bắt giữ trái phép hả? Thua.