60 năm sau ngày thoát ách đô hộ thực dân Pháp, VN được, mất những gì?
Trong năm 2014 này Việt Nam sẽ tưng bừng kỷ niệm 60 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương, giành lại độc lập cho ba nước Lào, Cambodge và Việt Nam, bởi theo sách sử của Việt Nam hiện nay, cũng như trong nhận thức của nhiều người Việt thì nước Việt Nam chính thức độc lập từ thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, tức là từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ.
Nhưng trên thực tế thì Việt Nam đã độc lập khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp từ gần 10 năm trước đó, vào ngày 11 Tháng 3 năm 1945 khi quân đội Nhật Bản làm cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Bảo hộ của Pháp, được sự hậu thuẫn của Nhật, Hoàng Đế Bảo Đại đã cho thành lập Chính Phủ Đế Quốc Việt Nam vào ngày 17 tháng 4 năm 1945 và bổ nhiệm Giáo Sư Trần Trọng Kim làm Thủ tướng Chính Phủ, đồng thời, Hoàng Đế Bảo Đại cũng đã ban một chiếu chỉ, tuyên bố Việt Nam độc lập với nguyên văn:
“Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia độc lập.” Tiếc thay, chính phủ Đế Quốc Việt Nam còn quá non trẻ, mới tồn tại được 126 ngày với một đất nước hoang tàn, đổ nát ngân khố không một đồng, hai triệu đồng bào Bắc và Trung kỳ đang chết đói, xác người vẫn ngổn ngang khắp chốn, 95% người dân Việt mù chữ, khó tiếp cận với thông tin trung thực, nên dễ bị mê hoặc bởi các luận điệu tuyên truyền của cộng sản. Một chính phủ non trẻ phải đối diện với vô vàn khó khăn, lại chưa thành lập được quân đội là điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh và tổ chức Việt Minh dễ dàng cướp chính quyền theo mệnh lệnh của Quốc Tế Cộng Sản, nhằm xích hóa Việt Nam và mở rộng lãnh thổ đỏ xuống các nước Đông Nam Á. Sau khi cướp được chính quyền và thủ tiêu chính phủ Quốc Gia của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, chính Hồ Chí Minh đã ký Hiệp Định Sơ Bộ với thực dân Pháp vào ngày 6 tháng 3 năm 1946. Một trong những điều khoản quan trọng nhất của Hiệp Định Sơ Bộ là cho phép 15.000 binh lính Pháp trở lại Miền Bắc để thay thế cho 200.000 lính thuộc quân đội Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Rõ ràng, chính Hiệp Định này đã giúp Pháp có được danh chính ngôn thuận khi đưa quân đội trở lại tái chiếm Đông Dương và tiếp tục đặt nền đô hộ trở lại đối với Việt Nam. Bởi điều đó mà nhiều sỹ phu yêu nước lúc bấy giờ đã vô cùng phẫn nộ về hành động cõng rắn cắn gà nhà, rước voi dày mã tổ bằng Hiệp Định Sơ Bộ mà Hồ Chí Minh đã cùng chính phủ Pháp ký kết vào ngày 6 tháng 3 năm 1946.
Như vậy, máu xương của hàng vạn đồng bào, dân công, vê quốc quân đã phải đổ ra để đánh đổi chiến thắng Điện Biên Phủ, chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương là cái giá mà Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải trả cho những sai lầm của họ khi cướp chính quyền của chính phủ Quốc Gia do Trần trọng Kim làm thủ tướng, và ký Hiệp Ước Sơ Bộ để đón quân đội Pháp trở lại với một tuyên bố hết sức đê hèn và đáng hổ thẹn rằng: “Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, còn hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu”. [Plutôt flairer un peu la crotte des Francaisque manger toute notre vie celle des Chinois – Paul Mus, "Vietnam, Sociologie d'une guerre", Paris, Seuil, p. 185].” Cho nên, xét một cách khách quan thì Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và chính phủ Cộng Sản Việt Nam đang mang một món nợ máu xương rất lớn của đồng bào Việt Nam đổ ra để đánh đổi cái vinh quang chiến thắng Điện Biên Phủ cho họ, nhưng thực chất nguồn xương máu đó của đồng bào đổ ra chỉ để trả giá cho sai lầm của ông Hồ khi cướp chính quyền Quốc Gia của chính phủ Trần Trọng Kim và sau đó ký hiệp Sơ Bộ, đón quân Pháp trở lại. Vấn đề này chúng tôi xin được trình bày trong một bài viết tiếp theo.
Trở lại với chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương, cách đây 60 năm, vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, và cứ tạm tin rằng Việt Nam chỉ mới giành được độc lập từ thực dân Pháp sau chiến thắng này, thì tính ra từ năm Giáp Ngọ 1954 đến năm Giáp Ngọ 2014 là vừa tròn một “Thập Lục Hoa Giáp”, tức là đúng một chu kỳ chuyển luân của đất trời theo lịch Đông Phương. Với lịch sử của một dân tộc thì 60 năm chưa phải là quá dài, nhưng so với đời người thì 60 năm là quá đủ để cho con người ta chiêm nghiệm được những thăng trầm của đất nước, của lịch sử giống nòi. 60 năm cũng là khoảng thời gian đủ dài để người ta đưa ra những nhận định đúng đắn về các triều đại, các thể chế chính trị hay những cá nhân có những ảnh hưởng, những hệ lụy đối với tương lai của đất nước và tiền đồ của dân tộc. Và tất nhiên 60 năm cũng là một khoảng thời gian đủ dài, trong xây dựng, để người ta vực dậy nền kinh tế đổ nát do chiến tranh hay do tình trạng nô lệ kìm hãm.
Để minh chứng điều này, trước hết, chúng ta hãy xem xét nền kinh tế của Nhật Bản sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Hẳn mọi người đều còn nhớ rõ là khi kết thúc cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ hai kinh tế Nhật Bản bị hoàn toàn kiệt quệ do sự tàn phá của hai quả bom nguyên tử mà Hoa Kỳ thả xuống để phá hủy hoàn toàn hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào ngày 6 tháng 8 và ngày 9 tháng 8 năm 1945. Tuy nhiên, chỉ 8 năm sau đó, tức là vào năm 1953 thì kinh tế của Nhật Bản đã hoàn toàn hồi phục và trở thành một siêu cường kinh tế thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Hoa Kỳ vớ tổng thu nhập GDP bình quân trên đầu người là 38.500 Mỹ kim, trong khi so với Việt Nam thì Nhật Bản là một quốc gia có nhiều khó khăn, bất lợi hơn về mặt thiên nhiên, với diện tích không lớn hơn Việt Nam là mấy, đồi núi chiếm đến 70% diện tích nhưng lòng đất lại hầu như không có khoáng sản. Nhật Bản là một đảo quốc bao bọc chung quanh là biển, nhưng thềm lục địa hầu như không có dầu mỏ như Việt Nam hay các quốc gia khác. Tệ hại hơn nữa là hằng năm Nhật Bản phải hứng chịu hơn 1.500 cơn địa chấn, và trên toàn lãnh thổ của Nhật Bản, chỉ có 16% diện tích đất đai là phù hợp cho đời sống dân sinh mà thôi. Vậy mà Nhật Bản phát đã triển kinh tế lên mức siêu cường từ một đống đổ nát, chỉ trong vòng chưa đầy10 năm. Đã bao giờ các giới chức lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam tìm hiểu xem nhờ đâu mà người Nhật phát triển kinh tế xã hội và dân sinh thần kỳ đến vậy hay không?
…Và sau 60 năm thoát ách nô lệ Việt Nam đã đạt được những gì?
Xin được trở lại với Việt Nam thời Pháp thuộc từ 1858 đến 1885: Đây là thời kì mà Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, với một nền kinh tế thực dân và bảo hộ, thời gian đó tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chỉ ở mức 2,5% đến 3%, sau khi Pháp chiếm được lục tỉnh Nam Kỳ, tăng trưởng của Nam Kỳ lúc này đã lên tới 6%. Tiếp đến việc chiếm nốt Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tăng trưởng của cả Việt Nam đã lên khoảng 6% đều đặn cho đến khi Lào và Cambodge bị Pháp thôn tính, lúc này kinh tế Việt Nam lên mức trên 8% … Với tinh thần chống mọi sự đô hộ của ngoại bang, chúng ta từng cho rằng để dễ bề cai trị thuộc người dân thuộc địa, thực dân Pháp đã áp dụng chính sách ngu dân, khiến cho có đến 95% người dân Việt Nam thời đó bị mù chữ. Điều này, hư thực ra sao?
Chính nhờ cuộc cải cách giáo dục trong thời kỳ Pháp thuộc đã xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho Học từ chương với chữ Hán cả nghìn năm trong chế độ phong kiến Việt Nam để thay thế bằng phong trào tân học theo chữ quốc ngữ đã tạo ra một tầng lớp trí thức mới, đó là những người xuất thân từ truyền thống nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hóa phương Tây. Đại diện tiêu biểu cho giới này là các cụ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã mở đầu cho phong trào Duy Tân và phong trào Đông Du vận động tăng cường dân trí, dân chủ, nhân quyền và cải cách xã hội cho người Việt trước sự cai trị của Thực dân Pháp.
Tuy nhiên, do tư tưởng thủ cựu từ vua quan nhà Nguyễn cho đến nhiều tầng lớp dân chúng tiếp tục sùng bái Nho học, Hán học và bài Pháp, bài xích văn hóa phương Tây là nguyên nhân chính yếu khiến cho có đến 95% dân chúng mù chữ, chứ thực ra chính quyền Bảo Hộ chẳng những không áp dụng bất cứ chính sách ngu dân, không hề chủ trương “địa hào trí phú đào tận gốc, trốc tận rễ” như chủ trương của Hồ Chí Minh và chế độ Cộng Sản sau này, mà ngược lại, chính phủ Pháp còn mở cả trường Thuộc địa và cấp học bổng cho học sinh các nước thuộc địa đến Pháp học hành, để nâng cao dân trí, mà ngay cả Nguyễn Tất Thành kẻ mà sau này trở thành lãnh tụ Hồ Chí Minh của Cộng Sản Việt Nam cũng từng làm đơn xin vào học, trong thời gian ông tha phương cầu thực tại Pháp. Rủi thay, vì những thành tích bất hảo trong suốt thời niên thiếu mà Nguyễn Tất Thành đã bị từ chối, không được nhận vào học trường thuộc địa, để rồi ông tiếp tục lang thang và cuối cùng phải đi làm tay sai cho Đệ tam Quốc Tế, để du nhập chủ nghĩa cộng sản về để tàn hại giống nòi.
Và cũng nhờ chính sách khuyến học của Pháp lúc bấy giờ mà Việt Nam đã có được một số các nhà bác học, các học giả như Lưu Văn Lang, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường…
Ngoài ra, dẫu là một nước thực dân đang cai trị nước thuộc địa Việt Nam, nhưng chính phủ bảo hộ cũng không hề ngăn cấm các quyền tự do căn bản của con người, bao gồm tự do lập hội, tự do ngôn luận hay tự do báo chí, nhờ đó mà lúc bấy giờ ở Việt Nam đã tồn tại các đảng phái chính trị hoạt động công khai như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, Tân Việt Cách Mạng Đảng.
Trong lĩnh vực báo chí, ngôn luận thì khắp trên ba kỳ của đất nước đều có các tòa soạn báo tư nhân hoạt động công khai như Gia Định Báo ra đời từ năm 1865, Phan Yên báo ra đời từ năm 1868, Nam Kỳ Địa Phận Báo ra đời năm 1883 và cứ thế các tòa báo tư nhân cứ tiếp tục xuất hiện như Nông Cổ Mín Đàm, Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo, Đại Việt Tân Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí. Đến năm 1907 lại xuất hiện thêm tờ Lục Tỉnh Tân Văn do Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Là một người cầm đầu phong trào Minh Tân nên Trần Chánh Chiếu và LỤC TỈNH TÂN VĂN hoạt động rất mạnh để cổ súy phong trào này. Đây là một trong những tờ báo có mối quan hệ đặc biệt với phong trào Đông Du, và Duy Tân của hai nhà cách mạng Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Một số trí thức khoa bảng hoạt động trong lĩnh vực báo chí lúc bấy giờ có thể kể đến như Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu… Tiếp đến, vào tháng 1 năm1915 Báo Trung Bắc Tân Văn xuất hiện ở Hà Nội do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Đây là một diễn đàn quan trọng thu hút nhiều cây bút nổi tiếng đương thời trên các lĩnh vực văn hoá, chính trị, xã hội Việt Nam vào thời gian đó.
Sang thập niên 1930s, báo chí Tiếng Việt tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh khoảng 30 tờ báo và tạp chí có từ trước vẫn đang tiếp tục lưu hành thì có khoảng 180 tờ báo và tạp chí mới ra đời. Đặc biệt bên cạnh báo chí hợp pháp phát hành công khai còn xuất hiện dòng báo bí mật của Đảng Cộng sản Việt Nam và dòng báo lưu hành trong các nhà tù của thực dân.
Báo chí thời kì này phản ánh khá rõ nét tình hình kinh tế xã hội và chính trị tư tưởng đương thời. Đó là bên cạnh trào lưu Âu hoá và lối sống tư sản trong các đô thị, là tin tức về các hoạt động cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, các cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng như cuộc thảo luận của Hải Triều và Thiếu Sơn về “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”, cuộc thảo luận của Hải Triều và Phan Khôi về “Duy vật và Duy tâm”; cuộc thảo luận của Phan Khôi và Nguyễn Thị Chính về “Vấn đề giải phóng phụ nữ với nhân sinh quan”, và cuộc tranh luận về “Phổ thông đầu phiếu” trên báo Công Luận năm 1932 và các bài về quyền bầu cử của phụ nữ…
Đó là sơ lược về kinh tế chính trị, văn hóa xã hội và nhân văn nước Việt Nam dưới ách đô hộ của thức dân Pháp kể từ khi tiếng súng đại bác đầu tiên bắn vào Đà Nẵng, báo hiệu sự khởi đầu một thời kỳ nô lệ mới của Việt Nam cho đến khi chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương vào năm 1954.
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn của nước Việt Nam mới, sau khi kết thúc thời kỳ Pháp thuộc.
Sau hiệp định Geneva, khoảng 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh họa cộng sản. Đây là một khó khăn lớn đối với chính phủ Quốc Gia Việt Nam trong việc ổn định an sinh xã hội cho một khối lượng quá lớn đồng bào vừa đến nơi ở mới. Nhưng lại là một thuận lợi lớn cho chính phủ của Hồ Chí Minh ở miền Bắc bởi sau khi 1 triệu người bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn để đi tìm tự do ở Miền Nam, thì số ruộng đất dôi dư ra rất nhiều, nhất là đối với Miền Bắc lúc bấy giờ kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cuộc “Cải Cách Ruộng Đất” từ năm 1949 đến năm 1956 với hàng chục ngàn nông dân bị hành quyết, do bị quy là địa chủ, với 810.000 hécta ruộng đất, hơn 106.448 trâu bò và 148.565 căn nhà bị tịch thu và quốc hữu hóa và tiếp nối với giai đoạn thứ hai “tiến lên chủ nghĩa xã hội” của nông nghiệp, bắt đầu từ năm 1958, mà theo đó, các tư liệu sản xuất như ruộng đất, trâu bò, cày bừa đều là của chung. Đây là sai lầm lớn nhất của chế độ cộng sản khi vận dụng học thuyết kinh tế chính trị của Karl Marx, để xây dựng CNXH, bởi học thuyết đó trong thực tế đã đi ngược lại với quy luật phát triển chung của xã hội loài người, và mâu thuẫn với bản năng gốc của con người là bản năng sở hữu. Hệ lụy của sai lầm này đã khiến cho cả Miền Bắc Việt Nam trở nên điêu tàn, đói rách trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Một bức tranh toàn cảnh của Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa lúc bấy giờ cũng không khác mấy so với xã hội Bắc Triều Tiên hiện nay. Chỉ có giới quan phương thì luôn được no đủ, còn lại thì toàn dân Miền Bắc luôn phải sống trong đói rách triền miên. Cả Miền Bắc XHCN lúc bấy giờ tồn tại được nhờ vào nguồn viên trợ của Nga Sô và Trung Cộng từ bom đạn, khí tài cho đến lương thực thực phẩm. Chính vì điều này mà sau khi cưỡng chiếm được Miền Nam vào tháng 4 năm 1975 Bộ Chính Trị Trung Ương đảng cộng sản Việt Nam đã xác định rằng, để Hà Nội tiến kịp Sài Gòn thì phải mất đến 30 năm, nhưng để Sài Gòn lùi kịp Hà Nội thì chỉ cần 3 năm thôi, và Bộ Chính Trị đã chọn giải pháp 3 năm, làm cho Sài Gòn lùi kịp Hà Nội, bằng các chính sách cấm chợ, ngăn sông khiến cho nhân dân cả nước đều trở nên đói rách lầm than hơn cả thời nô lệ thực dân Pháp.
Có một thực tế rất nhạy cảm nên ít ai dám đề cập một cách công khai ở Việt Nam đó là từ sau khi quân xâm lược Pháp rút đi, thì các quyền tự do căn bản của toàn dân Miền bắc XHCN cũng theo đó mà biến mất. Và rồi sau sự sụp đổ toàn diện của nền Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam vào năm 1975 thì các quyền tự do, dân chủ căn bản của nhân dân Miền Nam cũng bị bức tử, để hòa cùng cả với nước, người dân Việt Nam hoàn toàn không còn bất cứ một quyền tự do nào trong tư tưởng, trong ngôn luận, trong tín ngưỡng hay trong lập hội nữa. Tất cả mọi tư tưởng của nhân dân đều được định hướng bởi đảng và nhà nước qua tổ chức Tuyên Giáo Trung Ương, tất cả các hội đoàn đều thuộc về nhà nước, và người dân phải có bổn phận tham gia để được củng cố quan điểm lập trường chính trị, để thấm nhuần tư tưởng xuyên suốt rằng, “yêu nước là phải yêu chủ nghĩa xã hội, phải luôn ca ngợi bác, đảng và các lãnh tụ khác của cộng sản“, nhưng hoàn toàn cấm chỉ mọi phát ngôn theo nhận thức riêng của cá nhân. Cũng vậy, tôn giáo, tín ngưỡng được đánh giá lại theo quan điểm của Karl Marx, là thuốc phiện của nhân dân, cho nên những nhà hoạt động tôn giáo cũng bị xem như là những kẻ buôn lậu thuốc phiện do vậy mà nhiều lãnh đạo tinh thần, tôn giáo phải bị tù đày lao lý với những bản án hết sức nặng nề, những cơ sở tôn giáo bị trưng thu và mọi hoạt động tôn giáo thuần túy đều bị ngăn cản, nghiêm cấm bằng pháp lệnh, nghị định của chính phủ.
Về lĩnh vực báo chí và truyền thông, ngay từ những ngày đầu nắm quyền cai trị đất nước, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã ra sức trấn áp giới nhân sỹ trí thức hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là những người chủ trương đòi tự do ngôn luận và tự do báo chí, với vụ án nhân văn giai phẩm, hàng trăm nhân sỹ trí thức bị hạ phóng, bị giam cầm cho đến chết, tất cả các tòa soạn báo không thuộc nhà nước cộng sản đều bị đóng cửa vĩnh viễn. Cho đến nay đã 60 năm kể từ ngày độc lập, Việt Nam vẫn chưa tồn tại một tờ báo tư nhân nào. Gần đây, để khẳng định lại cho quốc dân đồng bào rõ về độc quyền báo chí và ngôn luận chỉ thuộc về đảng và nhà nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ra chỉ thị “nghiêm cấm tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức”. Ông cũng khẳng định rằng Pháp luật Việt Nam cấm báo chí tư nhân, và Nguyễn Tấn Dũng cũng đã chỉ thị cho các cơ quan an ninh lập tường lửa để ngăn chặn người dân Việt Nam truy cập vào hệ thống báo chí tự do của Phương Tây. Cùng với đó là nhiều chiến dịch trấn áp những người có tư tưởng tự do, dân chủ, nhiều blogger bị bắt bớ, bị truy tố theo điều 88 Bộ Luật Hình Sự về tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tệ hại hơn nữa là chiến dịch trấn áp đó còn kéo vào tận các các nhà tù, nơi những nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền, những nhà báo tự do bị giam giữ, bằng nhiều hình thức vô cùng dã man, như giam chung các tù nhân lương tâm này với những người mắc bệnh lao, bệnh Aids, hoặc tổ chức cho các đại bàng là các tù hình sự trong các nhà tù đó đánh đập hành hung những tù nhân chính trị. Tàn bạo hơn nữa là việc hoán chuyển tù nhân chính trị người Miền Nam ra Bắc, người Miền Bắc vào Nam, xa cách hàng ngàn cây số nơi quê hương bản quán của họ, để vừa tạo sự khó khăn cho sự thích nghi của tù nhân với môi trường sống mới, với khí hậu, với sương lam chướng khí, vừa gây khó khăn cho gia đình, thân nhân của họ trong việc thăm nuôi và chăm sóc khi đau ốm. Đây là cái tinh vi của chế độ cộng sản trong việc trấn áp các tiếng nói đối lập, mà các chế độ thực dân, phát xít trước đây không thể nào sánh kịp.
Về đời sống xã hội…
Thật khó mà hình dung được rằng khi nhân loại bước vào thiên niên kỷ thứ 3 đã hơn 10 năm rồi mà người dân Việt Nam vẫn tiếp tục sống trong đói nghèo, cơ hàn. Ngoài cái hào nhoáng của các khu đô thị, do có sự đầu tư của các doanh nhân ngoại quốc, thì còn lại dân chúng các vùng nông thôn vẫn sống dưới mức nghèo khổ và hằng năm vẫn đói ăn nhiều tháng trời trong mùa giáp hạt, để đến nỗi mỗi năm, hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam vẫn phải tiếp tục rời bỏ quê hương để đi làm lao nô khắp thế giới với mỹ từ “Xuất Khẩu Lao Động”, và cũng thế, mỗi năm cũng hàng trăm ngàn thiếu nữ Việt phải lìa bỏ quê nhà để đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc theo các dịch vụ môi giới lấy chồng ngoại quốc, với mong muốn cha mẹ, anh em còn ở lại quê nhà không còn phải đói ăn trong những ngày giáp hạt, không còn phải thiếu mặc trong những ngày giá lạnh tiết Đông. Chắc chắn đây là những điều chưa từng tồn tại trong xã hội Việt Nam ngay cả trong suốt gần một trăm năm nô lệ giặc Tây.
Còn nhớ, vào dịp tết nguyên đán năm 1976, một lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam là Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã long trọng tuyên bố với toàn dân rằng, “Với đường lối lãnh đạo sáng suốt của đảng và nhà nước, chỉ 10 năm nữa là mỗi gia đình người Việt Nam sẽ sở hữu một radio, một TV và một tủ lạnh”. Khi nghe phát ngôn này của một lãnh đạo tối cao của đảng CSVN, nhiều người dân Miền Nam đã cười cợt cho cái não trạng đó của một đầu đảng – Ấy vậy mà đến nay, đã gần 4 thập niên rồi, tức là đã 4 lần cái mười năm của Lê Duẩn rồi mà hàng chục triệu người Việt vẫn khố rách áo ôm, vẫn đang sống dưới mực đói nghèo, cơm vẫn chưa đủ no, áo vẫn chưa đủ ấm, thì TiVi, Tủ lạnh quả là quá xa vời! Đã 60 năm rồi kể từ ngày đất nước Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ thực dân Pháp, xin hỏi người dân Việt chúng ta đã được những gì và đã bị mất đi mất những gì? Não trạng của các lãnh tụ cộng sản sẽ còn khiến cho đất nước Việt Nam tàn lụi đến mức nào nữa? Sự xuẩn động của SANG TRỌNG HÙNG DŨNG, những kẻ nô lệ cộng sản Nga Tàu sẽ còn làm cho người dân Việt Nam u tối, điêu linh, cơ lại đến bao giờ nữa?
00 giờ, ngày 01 tháng 01 năm 2014
© Nguyễn Thu Trâm
© Đàn Chim Việt
Bộ lạc nào mà vẫn còn có cảnh người cày thay trâu ở thế kỷ 21 đây ?
Trả lời : Việt nam dưới chế độ Việt cộng đần độn, ngu dốt đấy
30/01/2012
‘Khai ruộng’, người kéo bừa thay trâu
TPO – Trong khi nhiều người vẫn còn đang ăn Tết, du xuân… thì nông dân ở nhiều nơi phải ra đồng làm việc. Không trâu, không tiền thuê máy, một số hộ nông dân ở Hưng Yên phải dùng sức người kéo bừa.
Sáng mùng 6 Tết, ông Phạm Văn Kháng, 47 tuổi (xã Lạc Hồng, Văn Lâm, Hưng Yên) cùng con trai ra bừa khoảnh ruộng nhỏ ngay giáp quốc lộ 5. Sợi dây thừng được buộc vào hai đầu chiếc bừa, con trai ông Kháng vòng qua bụng, hai tay nắm chặt dây, kéo bừa đi. Đằng sau, ông Kháng lựa chiếc bừa đi theo bước chân con trai.
Cách ruộng của ông Kháng vài khoảnh, dù ruộng khá rộng, nhưng cô Hòe (Lạc Hồng, Văn Lâm, Hưng Yên) cùng ba con gái cũng đang bừa ruộng bằng sức người. Cô Hòe cầm bừa, trong khi ba cô con gái ra sức kéo chiếc bừa trên ruộng cạn.
Ông Kháng cho biết, với những cánh đồng lớn, cả làng thường thuê máy cày, máy bừa, nhưng với những khoảnh ruộng nhỏ, làm riêng rẽ từng hộ… do không có trâu, bò, tiết kiệm tiền thuê máy, nên thường tận dụng sức người để cuốc, bừa ruộng.
Ngày xưa ông Hồ bảo: “Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, còn hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu”. Nhưng ngày nay đảng CSVN lại bảo ; “Thà suốt đời ăn cứt thằng Tàu còn hơn ngửi cứt thằng Tây ” vì vậy mà CSVN mới đánh Tây đuổi Mỹ.
Nay bọn Tàu không muốn để cho CSVN ăn cứt cả đời, chúng lại tìm đến với My với Tây để ngửi cứt?
KTĐT – Ông Trần Thiện Hải, Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, năm 2013 là một năm thành công bất ngờ đối với con tôm Việt Nam khi lần đầu tiên giá trị xuất khẩu đạt trên 3 tỷ USD (trong khi những dự báo đầu năm 2013 cho rằng xuất khẩu tôm đạt 2,4 tỷ USD), chiếm tới 44% trong tổng giá trị xuất khẩu 6,7 tỷ USD của ngành thủy sản.
Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!
15/05/2013 08:01 (GMT + 7)- TuoiTreonline
TT – Đó là nhận xét của Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tại phiên họp ngày 14-5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính – ngân sách về tình hình kinh tế – xã hội và thu ngân sách những tháng đầu năm 2013.
Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
Bà Doan đề nghị: “Phải nhìn thẳng vào tình hình khó khăn của đất nước để giải quyết vấn đề. Nếu kỳ họp Quốc hội này mà không đưa ra được giải pháp đủ mạnh thì những khó khăn sẽ thêm trầm trọng”.
Khó khăn ngày càng lớn
“Dấu hiệu suy giảm kinh tế ngày càng rõ nét hơn, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn; nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của khu vực sản xuất chưa được cải thiện” – Ủy ban Kinh tế đánh giá.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu, việc thực hiện tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đem lại kết quả rõ rệt, chính sách kích thích tăng trưởng bị giới hạn bởi thâm hụt ngân sách, trong khi thị trường vốn và tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn ở mức quá thấp.
Ông Nguyễn Xuân Cường – phó trưởng Ban Kinh tế trung ương – nói: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phán đoán: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới một trăm nghìn doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
83 năm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt nam đầu trâu mặt ngựa là 83 năm ngập ngụa máu của người dân Việt, 83 năm của những cái chết cực kỳ bi thảm, hãi hùng :
***Chuyến Bay Định Mạng “ -24/11/2012 – Đỗ Minh Đức : Thiếu Tá Nguyễn Du bị cột quỵ xuống đất, người Thiếu Tá tài giỏi, và trẻ nhứt của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã bị đám Cộng Sản ác ôn và đồng bào nơi đây xẻo thịt, lóc da cho đến chết! Nghĩ đến thì man rợ đấy nhưng có người dân nào có đủ can đảm không nghe theo lịnh của Việt Cộng. Nếu người dân nào không tuân lịnh cầm dao xẻo thịt Thiếu Tá Nguyễn Du thì sẽ bị đám Việt Cộng lôi ra bắn chết ngay. Bởi thế, cứ mỗi người bước qua chỗ Thiếu Tá Nguyễn Du thì họ cắt tai, cắt mũi, xẻ thịt, lớn tiếng xỉ vả …
*** “Vụ Tết Mậu Thân, bóng tối lịch sử đã sáng dần ? “- Nguyễn Đức Cung : Có trường hợp nạn nhân bị tùng xẻo như Thiếu tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh Đoàn trưởng Tỉnh đoàn Xây dựng Nông thôn Thừa Thiên, đảng viên Đại Việt Cách Mạng trốn trên mái nhà nên vợ con ông bị đe dọa nếu ông không ra trình diện thì vợ con sẽ bị bắn ngay. Thiếu Tá Kháng bèn ra hàng. Ông bị cột vào một chiếc cọc đóng giữa sân nhà và bị Cộng Sản dùng dao cắt tai, xẻo mũi cho đến khi nạn nhân chết.
*** “NHỮNG LÁ THƯ TỪ TUYẾN ĐẦU TỔ QUỐC “ -TQLC LÊ CÔNG TRUYỀN :
-Thiếu Tá Huỳnh Túy Viên, cựu sinh viên sĩ quan Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, quận trưởng quận Ðầm Dơi, bị VC giết bằng cách cho người móc mắt ngay tại quận lỵ vào đầu tháng 5 năm 1975.
-Khi chi khu Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên thất thủ, Thiếu tá Chi Khu Trưởng Trần Vũ bị VC giết bằng cách lấy đũa tre vót nhọn đâm mù cả đôi mắt rồi cột ở chuồng bò cho đến chết!
-Thiếu Tá Bùi Văn Ba, quận trưởng quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long bị VC dùng dao phát cỏ chặt đầu.
*** Trong cuốn sách “Real War” của tổng thống R. Nixon, ông đã viết lại câu chuyện:
…Uwe Siemon-Netto , ký giả nỗi tiếng người Đức sau khi đi theo một tiễu đoàn Miền Nam vào ngôi làng bị Việt cộng bố ráp năm 1965 kể lại :
Lủng lẳng trên các cành cây và sào trong sân làng là thân xác ông xã trưởng , nguời vợ và 12 đưá con vừa trai, vưà gái kể cả cháu bé, tất cã những người nam đều bị cắt cu dái nhét vào mồm, còn những người nữ bị cắt rời vú. Dân làng bị tập trung chứng kiến cảnh tàn sát. Việt cộng bắt đầu giết em bé, rồi một cách chậm rãi giết các em lớn, giết nguời mẹ và sau cùng là giết nguời cha. Việt cộng đã giết cã nhà 14 nguời một cách lạnh lùng như bấm cò đại liên bắn máy bay ”
***Tạp chí lớn ở Hoa kỳReader’s Digest số tháng 11/1968 :
…Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng. Một trong các đứa con của hai người , một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày qua. Quá sợ hãi, họ tìm đến trung tướng Lewis Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị Việt Cộng băt cóc. Rồi thì đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy về làng. Mẹ nó chạy ra, ôm lấy nó vào lòng. Cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặtđứt, và trên cổ đeo một cái bảng có ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó. Nếu ông ta hay bất kỳ người nào trong làng cả gan đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử tới, sẽ chịu những gì còn tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.
… Tại một xã khác không cách xa Đà Nẵng là bao, Việt Cộng cũng đưa ra những lời cảnh cáo tương tự. Tất cà những người dân bi. tập trung trước nhà viên xã trưởng, kể cả vợ ông ta đang bụng mang dạ chửa và bốn đứa con để chứng kiến cảnh khủng bố dã man của bọn chúng. Lưỡi ông xã trưởng bị cắt đứt, và hạ bộ của ông ta cũng bị thiến rời ra, đem nhét vào trong mồm trầy trụa máu rồi khâu lại. Sau khi ông ta chết, bọn Việt Cộng xoay ra hành hạ bà vợ bằng cách dùng dao rạch bụng bà ta ra. Đứa trẻ chín tuổi bị chúng dùng một que nhọn xuyên qua từ tai bên này sang tai bên kia. Hai đứa kia củng bị giết chết một cách tương tự. Chỉ cõn đứa bé gái năm tuổi được bọn chúng cho thoát chết, để rồi nó chỉ còn biết cầm tay người mẹ đã chết mà gào khóc.
…Trong một trường hợp, một bé gái 15 tuổi đã cung cấp tin tức của bọn Việt Cộng cho thủy quân lục chiến của tướng Walt. Em đó sau này đã bị bọn Việt Cộng bắt cóc đem vào rừng, bị hành hạ, tra tấn, trước khi bị chặt đầu. Những kẻ giết em không ai khác hơn là người anh ruột của em, cùng với một đứa em của em bé gái, và hai “đồng chí” của họ.
…Một xã trưởng đã bị Việt Cộng siết cổ cho đến chết trước mắt người vợ đang có mang. Sau đó, chúng quay snag hành hạ người vợ. Chúng chặt cụt hai chân bà ta đi khiến bà ta phải bị sanh non. Một đưa con trai ba tuổi bị bọn Việt Cộng dùng súng tiểu liên bắn chết.
***Về cuộc Cải Cách Ruộng Đất do Hồ chí Minh phát động, sách “Công Và Tội” – Nguyễn Trân :
Một cụ già đầu bạc trắng phơ bị chém, đầu rơi xuống nhuộm máu đỏ; một anh Cao Đài không cho cột tay chân mà ngồi vòng tay để cho chém, bảo giết được thể xác anh chớ không giết được linh hồn anh! Một gương anh hùng, lẫm liệt!
Các địa chủ phú nông bị giết một cách thê thảm. Dã man nhất là khi chồng bị giết, vợ phải đưa tay lên hoan nghênh, cũng như con khi cha bị giết. Có người bị bắt nhốt trong cũi heo để dân chúng dưới sự kích thích hay hiệu lệnh của cán bộ Việt Minh dùng lao cao vót nhọn (chớ không phải gươm giáo) mà đâm cho chết, có người bị chôn vùi mà chưa chết lên tiếng cầu xin: “Tôi chưa chết xin giết tôi đã”.
v…v…
Thấy các đồng chí ồn ào cái vụ này và lịch sử của VC cũng luôn luôn nổ lớn cái vụ này nên tớ xin có chút ý kiến. Tớ chả the`m độc lập dân tộc làm gì cho mệt. Cứ để Pháp nó đô hộ mình đi, rồi thì đi học trường tây và nói tiếng tây nó sang hơn so^’ng với dân VN mình. Phap’ cai tri. du` sao cung~ thoai? mai’ ho*n ma^y’ tha*ng` Ba*c’ Ky`.
Tại sao hồi đó Pháp nó đô hộ thì 2 mien Nam Bắc VN không phải đánh nhau, nhưng đến khi vừa được độc lập rồi thì người VN lại đánh nhau? Tại sao khi VN chưa có XHCN thì dân VN không bị chiến tranh, nhưng tới khi đảng CS lên nắm chính quyền thì thanh niên phải sinh Bắc tử Nam; dân mien Nam tự do lại bị chính những kẻ cùng chủng tộc ở ngoài Bắc vào ăn cướp. Quý vị đánh đuổi Mỹ thế tại sao bây giờ lại cưóp đất của dân để xây khách sạn, tiệm đấm bóp để phục vụ Mỹ và những kẻ chạy theo Mỹ?
ĐCK là dân ở miền Nam, sau 75 đã thấy VC đuổi Mỹ rồi lại mời Mỹ và những kẻ theo Mỹ trở về và bắt dân phục vụ họ. Ở Nhà Van Hóa Thanh Niên tp HCM hồi đó, ĐCK thấy có một phòng đóng cửa, nhìn vào cửa sổ ĐCK trông trhấy mấy nghệ sĩ đàn dân tộc đang trình diễn cho 1 khán giả coi. Hỏi cô thư ký Bắc Kỳ đứng ngoài ngó bên cạnh thì cô ta trả lời “VK đấy”
Thấy chán cho đất nước độc lập của mình quá. ĐCK cũng cố gắng chuồn qua đây làm VK. Nhu*ng khi về VN (kie^’m gai’) thì đi đâu cũng giả dạng làm thường dân đâu dám để lộ ra mình là VK. DDi VN, co’ 1 thu*’ de^~ kie^’m va` re? nha^’t the^’ gio*i’, ddo’ la` gai’. Tu*o*ng ddu*o*ng vo*i’ 1 to^ pho*? o*? My~
Tất cả mọi thảm hoạ ở vn trong 60 năm qua là do cáo Hồ và đám đầu gấu CSVN.
VN muốn tiến triển, điều duy nhất là phải diệt cái Đảng thổ tả nầy thôi.
Cái mà Việt Nam được là lối cai trị, cư xử theo lối quyền mưu, thủ đoạn và sức mạnh. Cái mà Việt Nam mất là lối cư xử theo luật pháp và đạo đức.
Chế độ VNCH dù độc tài nhiều thời ông Diệm hay độc tài ít hơn thời ông Thiệu thì vẫn là xã hội có luật pháp. Chính quyền dù độc tài nhưng sinh hoạt của dân cũng vẫn theo luật pháp, các luật sư, thẩm phán vẫn có sự độc lập. Các chế độ độc tài thân Mỹ, dù là giết ít người như Chile hay giết nhiều người như Indonesia thì cũng vẫn là xã hội cai trị theo luật lệ, vẫn gửi người đến các nước Tây phương để học và về nước cai trị hay làm ăn theo lối Tây phương.
Còn tại các xứ cộng sản thì từ Nga, cho đến Trung Quốc và Việt Nam thì bây giờ dù là còn dùng chủ nghĩa Mác Lê để tuyên truyền nhiều hay ít thì cũng vẫn có chung đặc điểm là cư xử không theo luật lệ, bất chấp công lý. Đó là hậu quả của văn hóa Nga tràn lan theo làn Sóng Đỏ.
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 chỉ là một hòa ước Patenotre, hòa ước Patenotre đệ nhị.
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 đặt VNDCCH vào vòng “Liên Hiệp Pháp” tương đương với hòa ước Patenotre Giáp Thân 1884 đặt VN dưới sự “bảo hộ” của Pháp.
Hòa ước Patenotre đã bị Hoàng Đế bảo Đại tuyên bố xé bỏ trong bản tuyên Ngôn độc lập ngày 11-3-1945, thì vào ngày 6-3-1946 lại bị Hồ chí minh ký lại với thực dân Pháp.
Thật là xấu hổ cho bọn tư xưng là “nhân sĩ & trí thức”, trước biết bao sự thật đã bạch hóa, vẫn không ngừng hùa theo bọn trí thức cộng sản chuyên nghề làm chứng gian,
tiếp tay cộng sản lừa dối người dân trong nước, gọi ngày 2-9-1945 khi Hồ chí Minh tiếp nhận chính quyền VN của nước VN vốn đã dành lại độc lập từ ngày 11-3-1945, là “ngày độc lập”, gọi bài diễn văn nhậm chức của Hồ chí Minh, nhậm chức Vua mới, Vua cộng sản, aka “chủ tịch nước”, là “tuyên ngôn độc lập”!
Nên nhớ rằng, pho tượng Bôn Be tại hà nội, tương trưng cho chế độ thục dân Pháp tại VN, đã bị lật đổ từ ngày 2-8-1945, và đã bị lật đổ giữa thanh thiên bach nhật, trong trật tự, bởi một quyết định của thị trưởng Hà nội (= “chủ tịch thành phố hà nội”, theo cách gọi của cộng sản) dưới quyền chính phủ Trần trọng Kim,
[chứ không phải bị lật đổ bởi một hành động khủng bố lén lút đánh bom quăng lưu đạn như hành động tội ác của quân khủng bố cộng sản tại Sài gòn & VNCH, do bọn cộng sản VNDCCH tổ chức & chỉ huy trong cuộc chiến tranh Hồ chí Minh tội ác, giết hại dân chúng sài gòn & giết hại dân chúng miền nam]
Điều này cho thấy VN, Đế Quốc VN, đã hoàn toàn độc lập thoát khỏi ách cai trị thực dân Pháp từ ngày 11-3-1945, rất lâu trước ngày 2-9-1945, trước ngày 19-8-1945.
Hỏi rằng nếu VN đã không đuọc độc lập từ trước 2-9-1945, hỏi rằng nếu không có chính phủ Trần trọng Kim trướdc đó, thì lấy đâu ra ngày 2-9-1945 yên tĩnh, hà nội không một bóng quân xâm lược, cho Hồ chí Minh an toàn làm lế đăng quang nhậm chức vua mới!?
Ký bản hòa ước Patenotre, đặt VN vào sự bảo hộ của Pháp, rước Pháp vào cai trị VN, Vua Tự Đức đã đầu hàng thực dân Pháp, để làm một ông Vua bù nhìn.
Ký bản Hiẹp định sơ bộ 6-3-1946, đặt Việt nam vào vòng “Liên Hiệp Pháp”, Hồ chí minh tự đặt mình vào cương vị Tự Đức, đầu hàng Pháp, làm một ông vua bù nhìn, làm “Tự Đức đệ nhị”.
Nhưng thực dân Pháp khánh kiệt sau đệ nhị thế chiến có vẻ tham lam, vội vã hơn thực dân Pháp ở thế kỷ trước, nên, sau khi đuọc đích thân Hồ chí Minh đón vào hà nội ngày 19-5-1946, được an toàn củng cố đầu mối & đồn bót tiếp tục cuộc cai trị VN, thực dân Pháp bèn đá đít Hồ chí Minh, không cho Hồ chí Minh yên vị ở hà nội làm Tự Đức đệ nhị.
Phẫn hận Pháp không cho yên vị ở Hà nội làm Tự Đức đệ nhị, Hồ chí minh & Võ Nguyên giáp kêu gọi “toàn quốc kháng chiến”, lừa gạt thanh niên hà nội không cộng sản, tạch tạch sè, hy sinh chịu chết trước quân Pháp cho Võ Nguyên giáp và bộ đội cộng sản an toàn rút khỏi hà nội
để ít năm sau đó, rước giặc tàu vào VN, Hồ chí Minh & Võ Nguyên giáp làm bung xung cho giặc tàu trong cuộc tranh dành VN giữa Tàu và Pháp, làm bình phong tuyển mộ xương máu VN dâng cho giặc tàu làm công cụ đánh nhau với Pháp, đưa đến trận Điện Biên Phủ với phần thắng nghiêng về phía tàu cộng, tạo ưu thế cho tàu cộng đuọc ngồi ngang hàng với Pháp tại hội nghị giơ ne vơ 1954, cùng nhau chia cắt VN,
giặc tàu đuọc phần miền miền bắc VN, nhờ đó Hồ chí minh & Võ Nguyên Giáp đuọc tàu cộng thưởng công, cho Hồ chí Minh & Võ Nguyên giáp đuọc thay thế quân thực dân Pháp cai trị miền bắc VN, dựng nên chế độ cộng sản VNDCCH tập 2, chuyên chính độc ác, tại miền bắc VN.
(trước khi rước giặc Pháp vào VN qua bản hòa ước Patenotre thứ hai, Hồ chí Minh đã xin với Tổng thống Truman của đế cuốc Mỹ, cho Vn làm thuộc địa của Mỹ, nhưng Truman, qua phái bộ Mỹ tại VN, hiện diện tại hà nội trong ngày Hồ chí Minh đăng quang nhậm chức Vua mới thay Vua bảo Đại, thấy rõ cái đuôi cộng sản của Hồ, đã làm lơ lời cầu xin của Hồ.
Điều này cho thấy, “hửi rắm tây” hay “ăn cứt tàu”, hay làm thuộc địa & đày tớ cho đế cuốc Mỹ…, Hồ chí minh đều làm tuốt tuồn tuột, miến sao Hồ chí Minh đuọc yên vị với chức “chủ tịch”.
Điều này [Mỹ đã từ bỏ thuộc địa Philippines, trả lại độc lập cho Philippines, từ chối thuộc địa VN] cũng cho thấy cái gọi là “đế cuôc Mỹ có dã tâm xâm lược nước ta” chỉ là luận điệu bìm bịp của bọn trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ.
Mỹ đã từ bỏ thuộc địa VN từ 1945, đã chỉ đưa tầm mắt trở lại Đông Dương sau khi năm 1950 Hồ chí Minh & Võ Nguyên Giáp đón quân tàu cộng Mao trạch Đông vào VN, sau khi 1954 Hồ chí Minh & Võ Nguyên Giáp đặt miền bắc VN làm tiền đồn của cộng sản, của tàu cộng, tình nguyện đem xương máu VN làm công cụ bảo vệ biên giới phía nam của tàu cộng, lam cong cu cho cong san quoc te Nga Hoa danh nhau voi Hoa kỳ.)
Tất cả là do dân ta ngu và hèn (trong đó có Nông Dân đào ngũ ngay khi đơn vị về tới Sài Gòn).Lãnh tụ các đảng phái quốc gia thì tự kiêu chỉ có đảng tôi là nhất .Không nắm được quyền là phá bĩnh chống đối.Không đòan kết để chống giặc ngòai thua là phải Bây giờ có nói cũng thừa.Đừng đổ tội cho Diệm và Thiệu!! .
Bản văn tự bán nước ngày 6-3-1946 là một chứng tích phản bội khác của cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh & Võ Nguyên giáp & Phạm văn Đồng đối với đất nước dân tộc VN, đối với đất nước dân tộc VN, diễn ra chỉ trong vòng 6 tháng sau cuộc phản bội tháng 8-1945, cướp chính quyền VN, đặt chính quyền VN vào tay cộng sản, nhằm dụng nên tại VN một nhà nước cộng sản theo con đường Mác lê tội ác
Bản văn tự bán nước ngày 6-3-1946, hòa ước Patenotre thứ 2, do Hồ chí Minh & cộng sản VNDCCH ký với thực dân Pháp đặt VN vào vòng “Liên Hiệp Pháp”, đặt VN vào vòng nô lệ Pháp lần thứ 2, dâng cho Pháp nền độc lập của VN mới dành lại đuọc từ ngày 11-3-1945, do Vua bảo lai trao lại cho Hồ chí minh gìn giữ,
Một số trí thức cộng sản thường viện dẫn bản văn tự bán nước ngày 6-3-1946 như một “bằng chứnng pháp lý” xác nhận tính “hợp pháp” của “chính phủ Hồ chí Minh” & “VNDCCH”, cho rằng qua bản văn trên, các “lãnh đạo” của “VNDCCH” của “chính phủ HCM” đã đuọc cùng với một viên chức về thuộc địa của chính quyền Pháp, dẫu chỉ là một viên chức thường chứ chẳng phải một viên chức ở cấp lãnh đạo của chính phủ Pháp, nhưng cũng là “nhà nước Đại Pháp”, cùng ký tên trên một bản văn có lô gồ của nhà nước Đại Pháp, nghĩa là, coi như chính phủ HCM đã đuọc “sắc phong”, có tính cách pháp lý “hợp pháp”!
[vi the moi co dzu bip bom goi ban van tu ban nuoc 6-3-1946 la “thang loi”]
Nhung thuc ra, neu phai noi den khia canh “phap ly”, thi, về mặt pháp lý, bản văn tự bán nước ngày 6-3-1945 la mot ban van phap ly đặt dấu chấm hết cho nhà nước & chính quyền “VNDCCH” & “chính phủ Hồ chí Minh”.
Sau khi đã tái xuất hiện như một quốc gia độc lập từ ngày 11-3-1945, kể từ bản văn tự bán nước ngày 6-3-1946 do cs HCM & cs VNG & cs PVD ky voi thuc dan Phap, Việt nam không còn là một quốc gia, VN lai vắng mặt trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới,
Vì thế sau này đã phải có bản văn ký bởi Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Hoàng Đế bảo Đại, như một bản văn pháp lý chính thức, xác nhận việc Pháp trả độc lập cho Việt nam, kể từ đấy, Việt nam lại xuất hiện như một quốc gia trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới, mang quốc hiệu mới là “Quốc gia Việt nam”.
Cũng theo bản văn này, theo đòi hỏi của Hoàng Đế bảo Đại, Pháp trả lại miền nam cho VN [trước đó, khác với miền bắc & miền trung chỉ là bị Pháp "bảo hô", miền nam bị Pháp chiếm đoạt hẳn, làm thuộc địa của Pháp, bị coi là lãnh thổ hải ngoại của Pháp]
Chính là THủ tướng Trần Văn Hữu của Quốc gia Việt nam, tiền thân của VNCH, đã thay mặt nước Việt nam dự hội nghị quốc tế San Francisco 1951 thảo luận & quyết định về hiệp ước hòa bình với Nhật [mới bị thua phe Mỹ & đồng minh trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2], và tại đây THủ tướng Trần Văn Hữu đại diện cho VN, đại diện cho Quốc Gia Việt nam đã tuyên bố, khẳng định chủ quyền của VN trên Hoàng sa & Trường sa.
Hội nghị San Francisco nói trên bao gồm trên gồm trên 50 quốc gia độc lập có chủ quyền, và VIệt nam là một trong 50 quốc gia kể trên, nói như vậy có nghĩa là Quốc Gia Việt nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền, cũng như chỉ có ở vào vị thế một quốc gia độc lập có chủ quyền, QG Việt nam mới có thể, tại diễn đàn quốc tế nói trên, tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình trên HS & TS.
Hội nghị San Francisco nói trên bao gồm trên gồm trên 50 quốc gia độc lập có chủ quyền, và VIệt nam là một trong 50 quốc gia kể trên, nói như vậy có nghĩa là Quốc Gia Việt nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền, cũng như chỉ có ở vào vị thế một quốc gia độc lập có chủ quyền, QG Việt nam mới có thể, tại diễn đàn quốc tế nói trên, tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình trên HS & TS.
Sự việc Thủ tướng TVH đại diện cho Việt nam, Quốc Gia Việt Nam, tuyên bố khẳng định chủ quyền VN trên HS & TS tại hôi nghị SF 1951 mà không có phản đối, là một bằng chứng pháp lý rất cụ thể xác định chủ quyền hợp pháp của VN trên HS & TS. Thế nhưng trong khi thuật lại thông tin trên, bọn trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ lại một lần nữa cho thấy ở chúng một cung cách làm chứng gian rất là quái dị trơ trẽn.
Tống văn Công, một “ký giả” xã nghĩa, cựu “tổng biên tập” tờ báo Lao động của báo chí “cách mạng” cộng sản, trong một bài viết về HS & TS, cũng đã nêu lên sự việc trên, nhưng với đầu óc cộng sản hẹp hòi, với cái tư duy bịp bợm quanh co lấp liếm cố hữu của bọn ký giả & trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ, TVC đã cố tình làm lơ, bỏ đi chức vụ “Thủ tướng” của TT TVH, mà chỉ dùng chữ “ông” chỏng gọng, “ông Trần văn Hữu”, để gọi Thủ tướng Trần văn Hữu khi thuật lại sự việc Thủ tướng TVH tuyên bố khẳng định chủ quyền VN trên HS & TS tại hội nghị SF 1951.
Người ta hiểu thái độ quanh co lấp liếm như trên của TVC là nằm trong cố gắng của cộng sản nhằm phủ nhận sự hiện hữu hợp pháp chính danh của chính phủ Trần văn Hữu, của Quốc Gia Việt nam.
Nhưng thử hỏi, tại một hội nghị quốc tế như trên, làm thế nào mà một “ông TVH” nào đó, không có một chức vụ lãnh đạo chính thức hợp pháp nào trong một chính quyền, không là đại diện cho một chính quyền hợp pháp của một quốc gia độc lập có chủ quyền, lại có thể bước lên diễn đàn hội nghị, tuyên bố chủ quyền của một quốc gia trên một vùng lãnh thổ?
Thử hỏi, nếu đã chối bỏ sự hiện hữu của Quốc Gia Việt Nam như một quốc gia độc lập có chủ quyền, thì làm sao, căn cứ vào đâu mà TVC và bọn trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ chuyên nghề làm chứng gian có thể đòi hỏi, nêu ra được tính cách pháp lý & hợp pháp cho lời tuyên bố của “ông TVH”, để có thể căn cứ vào đó, coi đó là một bằng chứng pháp lý hợp pháp khẳng định chủ quyền hợp pháp của VN trên HS & TS?
Chỉ có cái tư duy làm chứng gian chuyên nghiệp của bọn trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ mới có thể viết lên những luận điệu bịp bợm, lấp liếm, trơ trẽn như vậy…
Trong lúc Quốc gia Việt nam bảo vệ chủ quyền & lãnh thổ VN, thì cộng sản Hồ chí Minh và cái “chính phủ Hồ chí Minh” ở đâu, làm gì, “yêu nước” & “yêu dân” & “đấu tranh giải phóng dân tộc & dành độc lập & bảo vệ tổ quốc”… như thế nào?
Trong lúc Quốc gia Việt nam bảo vệ chủ quyền & lãnh thổ VN thì Hồ chí Minh lại đang bận rộn theo gót cộng sản Mao sang Mát cơ va yết kiến cộng sản Sít ta lin, ông nội của bọn cộng sản VNDCCH, ông nội của cs Tố Hữu, cs Võ Nguyên giáp, cs Phạm văn Đồng, cs Trường chinh…, nhận lệnh Sit, khi về nước phải tiếp bước Sit-the serial killer Nga, làm the serial killer VN, tuyệt đối tuân lệnh cộng sản Mao, tiến hành cuộc khủng bố CCRD, thảm sát giết hại người dân VN, làm “debut” thiết lập chế độ cộng sản, phục vụ cho cuộc bành trướng “xây dựng chủ nghĩa xã hội” tội ác tại VN.
*** Sau hơn 83 năm Cộng sản có mặt tại Việt Nam, 68 năm Việt cộng cầm quyền miền Bắc và 38 năm Việt cộng đặt ách cai trị toàn cõi Việt Nam , tình trạng nhược tiểu và thê lương của đất Việt, người Việt đã được các giới chức cao cấp dân sự và quân đội , giới có học và người dân trong nước nhận định như sau ::
*** Nguyễn Hộ- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở TP.HCM.: Nhục! Đất nước như thế này là nhục! Làm công dân của Việt Nam, có lịch sử oai hùng, đến ngày nay mà không có tự do, đó là nhục nhã! Nhục! Không thay đổi điều này, không xứng đáng làm người !
*** Giáo sư Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng viện Triết học Mác-Lê: “ Cái đảng này nó đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, mà bản thân chủ nghĩa Mác-Lênin đã sai từ gốc rễ và cái đảng này nó đang xây dựng một cơ chế độc tài, độc quyền toàn trị thì làm sao cải tổ được, tự đổi mới được…Liên xô đàn áp nhân dân như thế, Liên xô đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin xây dựng một chính đảng toàn trị, thì chính nhân dân đã nổi dậy lật đổ cái chính đảng đó…”
***Nguyễn Minh Cần- Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà Nội. :Hiệp ước về biên giới ngày 30.12.1999 và Hiệp ước về lãnh hải Bắc Bộ ngày 25.12.2000 mà những kẻ cầm quyền CHXHCNVN đã tự tiện ký kết với Trung Quốc mà không công khai thảo luận dân chủ tại quốc hội, cũng như không dám công khai bàn bạc với quốc dân đồng bào, do đó đã làm cho Tổ Quốc ta mất đi hàng mấy trăm cây số vuông lãnh thổ, trong đó có vùng ải Nam Quan, thác Bản Giốc, v.v… và hơn chục ngàn cây số vuông lãnh hải trong vịnh Bắc Bộ!
*** Trung Tướng cộng sản Trần Độ: “Tại sao chiếm được miền Nam năm 1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đã đưa cả nước vào tình trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy?”
…Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả một Dân tộc, huỷ hoại tinh anh của nhiều thế hệ.
*** Đại tá công an cộng sản Lê Hồng Hà, nguyên chánh văn phòng Bộ Công an :“Đối với dân tộc Việt nam, học thuyết Mác là học thuyết ngoại nhập…Không giúp lý giải được xã hội Việt nam với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng toàn khác với Tây Âu, rất dể dẫn cách mạng VN đi chệch đường và do đó gây nên tổn thất, gây đổ vỡ, gây kiềm hãm sự phát triển…”
*** Đại Tá cộng sản Phạm Quế Dương, tổng biên tập tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Cộng sản vừa bất tài vừa bất lực, vừa bất lương”
*** Đại Tá điệp báo cộng sản Phạm Xuân Ẩn than thở : Tất cả những lời nói về giải phóng trong “hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm qua” sản xuất ra được cái này, cái xứ sở nghèo nàn, rách nát bị cai trị bởi một bọn lý thuyết gia ít học, tàn bạo và độc đoán
*** Tiến sĩ Hà sĩ Phu :Chỉ biểu tình ôn hòa chống kẻ xâm phạm bờ cõi mà phải xin phép mới được biểu tình thì đất nước này rất xứng đáng làm nô lệ, không có nhân dân anh hùng nào lại ứng xử như con giun vậy. Dân Việt Nam quyết không chấp nhận sự nô lệ ấy
*** Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: Ba mươi năm qua, chủ nghĩa Mác-Lênin đã tàn phá đất nước này về mặt kinh tế, và tàn phá cả về mặt văn hóa và tư tưởng
*** Kỹ sư Phương Nam Đỗ nam Hải : Lối ứng xử của giới cầm quyền VN đối với người dân trong nước là “lối ứng xử của kẻ côn đồ, của một chế độ côn đồ sử dụng những kẻ côn đồ để hành xử với những người yêu nước đang đứng lên đấu tranh để quyết giành lại tự do, dân chủ cho dân tộc VN… Họ là một chế độ bất chính, cho nên họ run sợ trước bất cứ một phản ứng nào của nhân dân
*** Lê Hiền Đức – cựu giáo chức chống tham nhũng: “Đã sống qua thời VN còn chịu ách cai trị của phong kiến, ách đô hộ của thực dân, phát-xít, đã hoạt động hậu địch trong kháng chiến, đã xem phim ảnh, nghe kể lại hoặc trực tiếp chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn vụ chính quyền “của dân, do dân, vì dân” cưỡng chế, thu hồi đất đai, nhà cửa, tài sản đối với người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, song tôi chưa bao giờ thấy người dân bị đàn áp một cách man rợ đến như thế, với quy mô lớn như thế”!
***- Nhà văn Thuỳ Linh, Phó giám đốc Hãng phim truyền hình VFC: “Ôi người dân quê tôi lam lũ nhiều đời sẽ còn bị bần cùng tới khi không còn nước mắt để khóc, không còn máu để chảy trong huyết quản. Ngày mai những thân phận người không còn được bú mớm dòng sữa Đất Mẹ sẽ vất vưởng ra thành phố lay lắt kiếm sống qua ngày. Những kiếp sống tàn đời không biết đến ấm no”
“…Ngút trời tiếng khóc xé vành môi bà mẹ, chị em tôi, những người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, để kiếm hạt thóc nuôi con khôn lớn đi đánh giặc giữ nước, giữ làng. Giờ Làng Nước có rồi nhưng Đất lại bị đưa vào cuộc bán buôn kiếm chác của những kẻ chức quyền tham lam vô độ, vô nhân” .
“Thà ngửi cứt thằng Tây ít lâu, còn hơn suốt đời ăn cứt thằng Tàu” , khi Hồ chí Minh nói câu này thì lúc đó Trung Hoa vẫn còn dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch .
Chớ còn sau khi Mao trạch Đông đã giật được chính quyền, thì Việt gian Hồ chí Minh ca ngợi công ơn của Mao bằng hai câu thơ :
Trăm ơn, ngàn nghĩa, vạn tình,
Tinh thần hữu nghị quang vinh muôn đời