WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nguyễn Tường Tam Nhà chính trị- và sự thất bại của các đảng phái Quốc Gia[1]

Nhất Linh


“Riêng trường hợp Nguyễn Tường Tam là một người không có duyên với chính trị, vì ông không nắm được thời cơ nên đã để lỡ nhiều cơ hội. (Đúng ra là thiếu viễn kiến chính trị). Ông còn là loại người chính trị thiếu nhạy bén chính trị, “cố chấp” (intransigeant) nên không thể tìm được những thỏa thuận (compromis) trong một xã hội hợp quần (société inclusive), cho nên ông đi tới cùng của mục đích và đi tới điều mà tôi gọi là cực đoan tuyệt vọng (Extrémiste désespéré). Cuối cùng ông không có đường lùi, ông mang chính cái chết ra như sự trả giá và đánh cuộc với thời cuộc. Vì chính bản thân ông thì bệnh tật mệt mỏi và tinh thần suy nhược nên cái chết là một giải pháp dễ dãi và thanh thoát nhất cho ông”. NVL

Nếu nói về một Nhất Linh nhà văn, một người nghệ sĩ thì tương đối không mấy khó khăn gì. Nhưng nói về một Nguyễn Tường Tam, nhà “cách mạng”, ” chiến sĩ”, “lãnh tụ đảng phái” thì khó vì nó không mấy sáng tỏ. Từ người trong nhà như Thế Uyên hoặc các con, cháu, anh em đến người trong đảng phái, đến các bạn bè đều khó có một nhận định rõ rệt về con người làm chính trị của NTT.

Cái khó ấy bắt nguồn từ cái gì ? Và tại sao khó?

Thế Uyên, người cháu Nhất Linh có nhắc lại những kỷ niệm về ông bác đi làm cách mạng ở bên Tàu về, chỉ thấy ông lúc ẩn, lúc hiện trong bộ đồ da lạ mắt. Ấn tượng để lại là hình ảnh một nhà “cách mạng oai dũng” đem lại niềm hãnh diện và thán phục cho họ hàng. Nhưng ông làm gì thì không biết.

Luật sư Trần Thanh Hiệp nhận xét:

Còn Nguyễn Tường Tam? Hành trình của con người “làm cách mạng” này không sáng tỏ như hành trình của Nhất Linh. Chẳng những ngoài xã hội mà cả trong gia đình ông, các bạn bè ông, văn hữu của Nguyễn Tường Tam cũng không ai biết đích xác về những hoạt động chính trị của ông”1

Không ai biết đích xác về những hoạt động chính trị của ông nó như thế nào? Đường lối hoạt động ra sao? Có những lời tuyên bố, những phát biểu liên quan đến tình thế chính trị, đến thời cuộc ra sao? Hoạt động đảng phái cụ thể như thế nào? Đạt được những thành quả nào?

Ai có thể trong nhóm người đảng phái của NTT còn sót lại cho thấy rõ được các chủ trương, đường lối kế hoạch bằng những lời tuyên bố rõ ràng của NTT? Ông lập Đảng, lập Hội, rồi bôn ba nhiều năm bên Tàu, tham gia vào đảo chánh rồi trốn vào tòa đại sứ Trung Hoa. Nhưng kết quả ra sao không ai biết rõ ràng.

Võ Phiến cũng có đưa ra nhận xét như sau:

Nhất Linh có làm chính trị, làm một lãnh tụ chính trị, nhưng suốt đời chưa thấy ông hệ thống hóa tư tưởng chính trị của mình để đưa ra một chủ thuyết nào2

Nhật Thịnh chỉ đưa nhận xét vắn vỏi sau đây, nhưng tưởng cũng đã đủ:

Ông hoạt động chính trị nhưng lập trường vẫn không “rõ rệt”3

Về mặt tài liệu liên quan đến hoạt động chính trị của NTT.

Xét về mặt tài liệu, hầu như không có một cuốn sách nào viết đầy đủ về hoạt động chính trị đảng phái của NTT. Một vài cuốn, nhất là Hồi ký thì có nhắc đến ít nhiều- có khi chỉ vài dòng-.. Chẳng hạn Ký về Hội nghị ĐàLạt của Hoàng Xuân Hãn, của Nguyễn Xuân Chữ, Nghiêm Kế Tổ, Trần Trọng Kim. Nhưng cũng có những cuốn như của Đoàn Thêm, Hồi ký Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký Bảo Đại và nhất là các sách nghiên cứu lịch sử, chính trị của Pháp, Mỹ thì theo những gì tôi được biết thì ngay cả cái tên NTT cũng không được nhắc tới.

Sự nghèo nàn về tài liệu ấy chứng tỏ về thực chất, những nhà chính trị đảng phái như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh chưa đủ tầm vóc, hoặc thiếu những hành động chính trị có liên quan đến vận mệnh lịch sử quốc gia, dân tộc?

Họ như thể không có duyên với chính trị. Người ta nói nhiều đến chuyện đi làm cách mạng, nhưng làm những gì cụ thể thì không mấy ai rõ.

Phía miền Bắc trái lại có rất nhiều tài liệu- do kinh nghiệm tranh đấu thực tiễn- họ viết nhiều về giai đoạn kháng chiến như các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Khắc Viện, Lê Quốc Sử, Hoàng Văn Thái, Trường Chinh, Nguyễn Kiên Giang, Hoàng Văn Hoan, Vương Thừa Vũ, Hồ Chí Minh, Ngô Văn Chiêu vv. Chưa kể đến các sách Hồi ký và các bài nhận định đủ loại của các tác giả không trực tiếp liên quan đến giai đoạn lịch sử ấy.

Dù tài liệu của miền Bắc còn nặng tính phê phán, tính đảng và tuyên truyền, nhưng những tài liệu ấy vẫn có chỗ để dùng được.

Cạnh đó các tài liệu sách vở ngoại quốc -Pháp và Mỹ- viết về hai cuộc chiến, viết về Hồ Chí Minh, về Ngô Đình Diệm thì lại khá đầy đủ, lên đến cả 6000 tài liệu. Ngay cả những người mà vai vế chính trị ở bậc thứ yếu như Võ Nguyên Giáp cũng chiếm một vị trí quan trọng về mặt tài liệu của các tác giả ngoại quốc.

Cuối cùng may ra còn có thể một số ít tài liệu còn nằm trong văn khố Pháp đã đề cập đến các đảng phái Quốc Gia mà thực sự ra cũng chẳng đáng là bao.

Điều đó càng chứng tỏ cái thế yếu chính trị của các chính trị gia miền Nam trước 1954 và cả sau 1954 như quý ông Nguyễn Văn Lực, Vũ Hồng Khanh, Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Trần Văn Hương, Trần Văn Đỗ, Phan Huy Quát, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tiến Hỷ, Vũ Tam Anh, Trần Văn Lý vv.

Những người vừa kể trên phần đông đều có cơ hội tham gia chính quyền trong một thời gian dài ngắn mà nào đã làm được gì? Có người đã làm đến thủ tướng, tổng thống, bộ trưởng ngoại giao một hai lần hoặc bộ trưởng bộ này bộ kia hết chính phủ này đến chính phủ khác. Nhưng ngồi chưa ấm chỗ đã bị đẩy xuống và không để lại một kết quả tốt đẹp nào.

Việc dở thì nhiều, đôi khi như thể đóng vai trò hề trên sân khấu chính trị miền Bắc và miền Nam sau này.

Tài liệu đã ít ỏi mà nếu có viết thì thường là những phê phán cực kỳ tiêu cực, đôi khi là những lời xỉ nhục công khai về các đảng phái Quốc Gia trong đó có NTT.

Đó là sự thất bại bẽ bàng, nhục nhã của các đảng phái Quốc Gia. Trong thời ký kháng chiến, họ thất bại vì chia rẽ và bất tài bị đẩy ra khỏi sân khấu chính trị.

Sau 1954, họ trở thành những thành phần “bất mãn muôn năm “. Họ chất lên đầu chính quyền những gánh nặng không gánh nổi, còn chính họ ngồi một chỗ ngón tay cũng không đụng tới.

Họ trở thành như một nhân vật được mô tả trong cuốn Ly Thân của Trần Mạnh Hảo chỉ giỏi nghề đón gió hay “buôn gió”. Khi gió đến tay, họ lộ nguyên hình là những kẻ bất tài nếu không phải là những người hèn.

Trong thời kỳ kháng chiến, sự có mặt của đảng phái là cần thiết để chống thực dân pháp và chống Việt Minh cộng sản. Nó có cái mục đích rõ ràng, ít nhiều có đường lối của nó và cái thất bại trước 1954 như thế nào như sẽ trình bày sau này .

Sau 1955, họ cũng sinh hoạt đảng phái như thời kháng chiến- nghĩa là như một Hội kín. Đường lối tranh đấu thay vì tuân thủ những nguyên tắc dân chủ như hội họp, tuyên truyền , phổ biến tài liệu báo chí, dùng nghị trường vv. Ngoài ra sinh hoạt đảng phải công khai về tổ chức về đảng tịch.

Hoạt động đấu tranh mang tính phê phán, ngay cả tố cáo nhằm thu phục quần chúng vốn là ” sức mạnh mềm” của đảng phái đối lập.

Họ không thể xử dụng những phương tiện dân chủ như trên nên đại đa số dân chúng không biết đến tên tuổi của họ, việc họ làm.

Họ đành xử dụng những phương tiện bạo động như trong thời kỳ kháng chiến như quân đội đảo chánh, âm mưu ám sát, âm mưu lật đổ.

Đó là cái thất bại đến hai lần của họ, vì mục tiêu nay không giống thời chống Pháp, chống Việt Minh nữa- nay không phải là kẻ thù mà là người Quốc gia với nhau-.

Tệ hơn nữa, họ coi việt diệt chế độ như ưu tiên hàng đầu trước khi nói đến truyện”diệt cộng sản”, họ góp phần một nửa, tiếp tay cho công việc chiếm miền Nam của cộng sản.

Rồi Cộng sản đến, họ nhanh chân te tác chạy như vịt trước mọi người.

Giai đoạn duy nhất có tạm đủ tài liệu về cuộc đời hoạt động chính trị của ông NTT là thời gian 1946, khi ông về VN rồi tham gia chính phủ Liên hiệp với chức vụ tổng trưởng ngoại giao và trưởng phái đoàn đàm phán của VN tại Đà Lạt ..Nhưng theo lời thú nhận của chính ông ông thì đây là giai đoạn khốn khổ nhất đời ông. Cái khốn khổ không nói ra chỉ vì ông chỉ được coi như một thứ bù nhìn.

Dùng Văn chương “làm chính trị”

Làm chính trị thì thất bại, NTT đành gửi gấm tâm sự vào trong các tiểu thuyết của ông. Hình như đó mới là “thế giới thực” của ông là nơi ông muốn gửi những ước vọng chính trị của mình. Đến có thể nói là ông là nhà văn”duy nhất” đem chính trị, hoạt động chính trị vào trong tiểu thuyết

Nhật Thịnh đã trích lại nhận xét của Thế Uyên như sau:

Ông lấy tên cuốn tiểu thuyết đó là ” Bèo Giạt”, sau đổi tên là “Xóm Cầu Mới”. Nó phản chiếu sự khủng hoảng tâm hồn của ông khi còn là Tổng Thư ký đảng Đại Việt và sau này là Bộ trưởng bộ ngoại giao của chính phủ Liên Hiệp Hồ Chí Minh. Đó là sự thất bại chia ly của một con người ưa thích tranh đấu mà bị giam cầm trong những cảnh tầm thường khi bị sa cơ. Nhưng sau năm 1949, ông đã qua một thời gian dưỡng bệnh và những giấc mơ kinh dị của dĩ vãng, ông tìm thấy một một sự tin tưởng mới. Vì thế cuốn “Bèo Giạt” đã được đổi là “Xóm Cầu Mới”4

Tuy nhiên, vì là tiểu thuyết nên không phải cuộc đời thực với nhiều thực tại đến bẽ bàng đến chịu nhục như tại Hội Nghị Đà Lạt, hay những cảnh chạy trốn sang Tàu thiếu thốn đủ thứ.

Cho nên truyện chính trị trong tiểu thuyết đều bàng bạc, mơ hồ, lãng mạn. Đều đẹp. Đều lý tưởng. Đều không thực. Nó gần như thể là thứ chính trị viễn mơ của ông.

Cũng vì thế mà Võ Phiến không nắm được rõ ràng những mục tiêu chính trị của ông.

Vì thế, ngay cả lúc ông tuyên bố thôi làm chính trị thì các nhân vật trong tiểu thuyết của ông vẫn tiếp tục làm chính trị trong truyện!!

Dũng trong Đoạn tuyệt, rồi tiếp theo Đôi Bạn, Thế rồi một buổi chiều đều có những nhân vật làm chính trị -một thứ làm chính trị cách mạng, lý tưởng- với những Thái, Trúc, Tạo đều giống nhau ở chỗ bỏ nhà ra đi cả. Ông Tú trong Người quay tơ.. cũng thế. Nhưng ra đi làm gì thì không ai biết thực sự họ đã làm gì?

Nguyễn Tường Tam theo Trương Bảo Sơn “có một thói xấu, được gọi là xấu lắm là ông ít sống với gia đình .. Người không ưa bảo là ông bỏ bê gia đình, có khi ba bốn năm mới về một lần…”5

Sau này, trong truyện Giòng Sông Thanh Thủy thì có khác. Các nhân vật truyện mỗi người chọn lựa một thái độ chính trị. Mà cái chính là hoặc theo đảng phái hay theo Việt Minh. Chính trị ở đây mang đầy đủ ý nghĩa của nó là có âm mưu thủ đoạn, có thanh toán, có chém giết kẻ thù như Tường, như Thanh, như Ngọc, như Tứ, như Nghệ ..

Giòng Sông Thanh Thủy phải chăng là một thứ duyệt lại và phê phán về những sinh hoạt chính trị đã xảy ra trong bối cảnh chính trị VN và bên Tàu thập niên 1940-1954.

Phải chăng những nhân vật truyện này thể hiện đúng mức quan điểm làm chính trị của ông? Và người ta có cảm tưởng chính những nhân vật truyện này cuối cùng cũng rủ Nhất Linh, Nguyễn Tường Tam cùng đi làm chính trị!!!

Nghĩa là có một điều gì đó giông giống như một mẫu số chung giữa nhân vật truyện và con người thật của Nhất Linh đời thường. “Họ” có những bận tâm, những ao ước giống nhau. “Họ” mong muốn làm một điều gì ra khỏi cuộc sống tầm thường. “Họ” đều bỏ nhà ra đi biền biệt bỏ vợ, bỏ con cho cái ước vọng thầm kín đó.

Trên thực tế, làm chính trị đối với Nguyễn Tường Tam khởi đầu là phải lập ra một đảng như bàn đạp cho những hoạt động chính trị của ông. Ông lập ra Dân Chính Đảng rồi sau sát nhập vào Quốc Dân Đảng. Nhưng vừa ló ra lập Đảng chống thực dân Pháp, rồi sợ Pháp lùng bắt, ông trốn sang Tầu.

Làm chính trị như Nguyễn Tương Tam chỉ thấy ông ” bôn ba hải ngoại”, vắng mặt những lúc cần có mặt.

Để có thể lượng định một phần nào việc làm chính trị đảng phái của ông Nguyễn Tường Tam. dựa vào những mốc lịch sử, xin chia ra những giai đoạn như sau đây:

- Giai đoạn 1940, ý định dựa vào thế lực của Nhật để khôi phục nền độc lập cho VN.

- Giai đoạn 1946, dựa vào thế lực chính trị của Trung Hoa Quốc Gia nhằm tiêu diệt Việt Minh.

- Giai đoạn tháng 9- 1947, dựa vào uy thế chính trị của Bảo Đại, muốn đứng sau lưng Bảo Đại tạo một thế chính trị Quốc Gia để đương đầu với Việt Minh cộng sản

- Giai đoạn sau 1954, dựa vào thế lực quân đội nhằm lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa. Thất bại, ông tự tử bằng độc dược.

1- Ý định dựa vào uy thế quân sự và chính trị của người Nhật để dành độc lập cho VN

Dự tính chính trị của ông NTT cũng giống như nhiều nhà chính trị lúc đó như Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Cường Để, Ngô Đình Diệm, các đảng phái chính trị như ông Hồ Văn Ngà, tôn giáo như Cao Đài mà đại diện là ông Trần Quang Vinh, Nguyễn Vĩnh Thạnh coi Nhật như một cơ hội để giải thể chế độ thực dân Pháp đã kéo dài trong 83 năm.

Tháng 9 năm 1940, quân Nhật đặt chân lên đất VN theo thỏa hiệp đã được ký kết giữa đô đốc Decoux, toàn quyền Đông Dương với đại tá tá Nhật để Nhật được đem quân vào Bắc Việt. Nhật “mượn” Hải Phòng làm căn cứ hải quân, “mượn” Gia Lâm, Lào kay, Phủ Lạng Thương làm căn cứ không quân của Hoàng gia Nhật.

Nói chung dân chúng Hà Nội lúc bấy giờ có đôi chút thiện cảm với quân lính Nhật lúc ban đầu. Đôi khi người Nhật họ đánh người Pháp để bênh vực người Việt. Vào chơi nhà dân chúng thì binh lính Nhật có cử chỉ lễ độ, cung kính trước bàn thờ tổ tiên .. Đối với trẻ con thì cho bánh, cho kẹo .. Hàng hóa Nhật được cung cấp đầy đủ thay thế cho hàng nhập cảng từ bên Pháp đã bị gián đoạn vì chiến tranh.

Người dân VN dần làm quen với những tiếng giầy đinh lệt xệt, với những cây kiếng dài lê thê. Năm năm sau, ngày 10 tháng 3/ 1945, Tổng Tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương tuyên bố:

“Người Nhật trao trả Độc Lập cho Việt Nam để cùng nhau lập khối Đại Đông Nam Á”. Lời tuyên bố ấy chấm dứt 83 năm đô hộ người Pháp.

Nhà báo Nguyễn Kỳ Nam vội về tòa báo Điển tín viết một bài với cái tít lớn đầy lạc quan là :

“Giờ lịch sử đã đến.” Phần Nhật vẫn tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á ở khắp nơi.

Dân chúng quay nhìn quân đội Thiên Hoàng với ánh mắt thiện cảm, -mặc dầu có đôi chút nghi ngờ người Nhật- .

Nhưng trước mắt, Nhật là một lá bài giúp VN dành lại được độc lập với giá rẻ.

Chính khách của Thiên Hoàng bắt đầu tiếp xúc và giúp đỡ các đảng phái như Đại Việt, Việt Nam Phục Quốc và Cao Đài, Hòa Hảo.

Vì thế các đảng phái chính trị như Phục Quốc, Đại Việt, Cao Đài, Hòa Hảo công khai hoạt động dựa vào thế lực Nhật Bản.

Nhiều khẩu hiệu sau đây lần đầu tiên dân chúng được nghe biết:

Đại Đông Á vạn tuế

Đại Nippon toàn thắng

Tân Việt Nam độc lập

Sau mấy năm “sống chung” với Pháp, người Nhật quyết định làm đảo chánh Pháp vỏn vẹn mất vài tiếng đồng hồ và xin ghi lại tình cảnh dân VN lúc bấy giờ theo ông Đoàn Thêm:
“Tổng Tư lệnh Nhật báo cho dân chúng biết rằng quân đội Thiên Hoàng đã đánh đổ Pháp, thiết quân luật để giữ trật tự, và giúp cho VN độc lập.

Phía thanh niên rất phấn khởi vì tin rằng thời cơ đã đến. Hàng vạn thanh niên đã tham gia một cuộc biểu tình khổng lồ vào một ngày chủ nhật. Đáng tiếc là khí thế thanh niên như thế mà không có một lãnh tụ Quốc gia nào ra mặt cổ võ và hướng dẫn giới thanh niên !!!!

Ở một chỗ khác, một vài thanh niên vỗ tay hoan hô, còn hàng chục người khác thì sửng sốt và bàn tán sôi nổi:

-Thế là nghĩa gì?

-Là độc lập, hết Pháp rồi còn gì?

-Độc lập thật à? Sao mau thế ?

- Ai cai trị mình bây giờ?

- Nhật chớ ai?

-Độc lập mà Nhật cai trị sao được?

-Hãy biết là Pháp đổ đã, thế là mừng rồi!!

Nay thì có những tên thuộc giới lãnh đạo Nhật được nhiều người nhắc tới như: Komatsu, Konagaya, Koraké, Watanabé, Ischihawa vv.. …

Nhưng chẳng bao lâu sau, niềm vui và hy vọng chứa chan sau ngày 9-3-45 đã nhường chỗ cho sự hoang mang và lo ngại »6

Trong đoạn văn trên, ông Đoàn Thêm nhấn mạnh là không có một lãnh tụ đảng phái Quốc Gia nào có mặt và lãnh đạo giới thanh niên!

Đó là một nhận xét rất thực tế bi đát và rõ ràng về sự “vô tích sự” của các đảng phái Quốc Gia. Phần đông đón gió nhưng khi gió đến lại không bắt kịp thời.

Sau đây một lần nữa là nhận xét sâu sắc của một thanh niên trí thức Hà Nội -ông Đoàn Thêm- đã phê phán các lãnh tụ đảng phái Quốc Gia, trong đó có Nguyễn Tường Tam như sau:

Các đảng phái quốc gia không đủ thu hút quần chúng vì những lẽ sau đây:

Không thu hút, theo bạn S. là vì mấy lẽ rất quan trọng đối với đại đa số: về nước quá chậm. Khi VM đã ở địa vị chính quyền, nên các lãnh tụ đối lập ở thế kém của kẻ đến sau và đòi chia xẻ: lại về nước giữa lúc quân đội trung hoa kéo sang giải giáp Nhật, nên dễ mang tiếng, là theo Tàu, dựa vào thế lực ngoại quốc, một điều tối kỵ khi tinh thần quốc gia đương bồng bột lên cao»7

Về chậm, đến sau là một tính toán sai lầm mà lại đòi chia phần !!!

Trong khi đó Việt Minh lập các chiến khu và các đội võ trang tuyên truyền đi sâu vào các làng mạc để tuyên truyền Cách mạng.

Lập trường của Việt Minh vẫn là chống Nhật với khẩu hiệu: Bài Phong, Phản Đế, Diệt Phát Xít, tiêu diệt thực dân và Đế quốc chủ nghĩa.

* Nạn đói năm Ất Dậu và vai trò của đảng phái Quốc Gia và Việt Minh

Trận đói là một thảm trạng. Nhưng làm chính trị thì ít nhất phải chìa tay ra. Nếu không thì cũng có một lời nói -lên tiếng hay xoa dịu- .

Việt Minh đã công khai tố giác tội ác của Nhật Bản độc ác như mua thóc, khuyến khích trồng đay, thay cho ngô lúa..

Nạn đói đã xảy ra và người Nhật quả thật có trách nhiệm phần lớn giết hại hàng triệu người.

Các đảng phái Quốc gia vì đang dựa thế Nhật nên “hy sinh” hàng triệu người. Đại Việt, Quốc Dân Đảng của NTT im lặng và bất động. Trận đói cũng do một phần tình báo Pháp và cả Việt Minh ở các nơi lén lút gửi tin tức về các chuyến xe lửa, các tàu chạy trên sông, trên biển của Nhật để cho đồng minh Anh Mỹ ném bom làm trở ngại việc chuyên chở lúa gạo ra Bắc.

Về nạn đói giết hàng triệu người ở Bắc Việt thì chính phủ Trần Trọng Kim bằng những nỗ lực tuyệt vọng đã chỉ thị cho Khâm Sai Phan Kế Toại tích cực chống nạn đói bằng cách lập Ban Cứu Tế. Thủ tướng Kim cử bộ trưởng Tiếp tế Nguyễn Hữu Thí vào Sài Gòn tổ chức việc chuyên chở gạo ra Bắc. Chính phủ cũng yêu cầu Nhật bỏ lệ bó buộc bán thóc ở Trung bộ và Bắc bộ, tổ chức quyên gióp tiền bạc để cứu đói ..Trong Nam, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh tổ chức tải gạo cứu tế cho đồng bào Trung và Bắc.

Những nỗ lực cứu đói của chính phủ Trần Trọng Kim một phần nào giảm thiểu số người chết đói tại miền Bắc không ít.

Phần Việt Minh họ tổ chức cứu đói bằng nhiều phương tiện, bằng nhiều cách như chống thuế hoặc cướp kho thóc để cứu đói. Việt Minh chỉ cần hai ba người có súng, hoặc chỉ có dao và gậy gộc lẻn vào cướp kho gạo, hoặc tổ chức quần chúng đám đông đi hôi gạo, hoặc khi máy bay đồng minh bỏ bom, người canh gác kho lo đi trốn thì cho dân chúng đến chở gạo, hoặc chặn bắt các xe gạo. Các hình thức đánh cướp kho gạo như thế xảy ra ở nhiều nơi, nhiều tỉnh như ở Hưng Yên, Hà Đông, Hải Dương, Thanh Hóa đến tận Yên Báy.

Tỉnh Hưng Yên đã có thể cứu đói cho 40.000 dân chúng bằng cách thu góp được 600 tấn gạo.

Đặc biệt trong một đồn điền của ông Hoàng Trọng Phu tại Kiến An, một nhân vật tiêu biểu tay sai của tây đã phải nhượng cho dân chúng lấy đi 3000 ngàn phương thóc (tương đương với 90.000 lít gạo) để cứu đói cho 3000 dân chúng.

Tại Thái Bình, một số cán bộ và dân chúng chỉ với mã tấu và gậy gộc đã ăn cướp được hai thuyền đinh chở 50 chục tấn gạo để phân phát cho dân chúng…8

Cho dù những công việc như trên một phần chỉ có tính cách tuyên truyền và không giải quyết được nạn đói nói chung, nhưng điều đó gây được một ấn tượng tốt của dân chúng đối với Việt Minh.

Ít ra họ có quần chúng sau lưng họ. Ít ra quần chúng thấy Việt Minh tử tế với họ.

Còn đảng phái Quốc Gia thì như nhận xét của ông Đoàn Thêm là không có quần chúng.

Trong khi đó, các đảng phái Quốc Gia đã làm được gì để cứu đói? Họ không thể làm gì vì họ không có cán bộ. Vì thế họ không được sự hỗ trợ của những người nông dân .. Họ đành tìm chỗ tựa dựa vào các thế lực bên ngoài, ở trên cao khi thì Nhật và sau này dựa vào Trung Hoa Dân Quốc ở Trùng Khánh để chống lại Việt Minh.

Về mặt chính trị, nhờ trận đói ấy cho phép Việt Minh trở nên được quần chúng biết đến và ưa chuộng. Họ xâm nhập vào các vùng thôn quê đang tuyệt vọng vì sự “bất lực một phần”của chính quyền và nó là mầm mống cho việc nổi dậy của nông dân đi theo Việt Minh.9

Nhờ những trận cứu đói ấy của Việt Minh mà họ được lòng dân chúng hơn bất cứ đảng phái quốc gia nào.

* Đại Việt Dân Chính của NTT ngả theo Nhật

Phần tài liệu tiếp theo sau đây cho thấy, đảng Đại Việt Dân Chính của NTT đã ngả theo Nhật như thế nào. Theo Nguyên Vũ, trong bài Khái Hưng, Trần Khánh Giư cho hay :
“Từ khoảng năm 1939-1940, nhóm TLVĐ ngả về khuynh hướng thân Nhật. Môi giới có thể là Lý Đông A, Vũ Đình Dy. Và cuối cùng tổ chức thành đảng Đại Việt Dân Chính do Nguyễn Tường Tam làm Tổng Thư Ký. Người ta không biết nhiều về chủ thuyết của đảng này. Cán bộ vỏn vẹn ít chục người, phần lớn cư trú ở các thành thị, nhất là Hà Nội. Nó mới chỉ có tính cách một nhóm chính trị, với những quan điểm tương đồng, hơn là một đảng cách mạng. Đây là đặc tính chung của các đảng phái Việt Nam trong thập niên 1930-1940- tức sự thiếu vắng một tổ chức chặt chẽ, một lực lượng vũ trang, và thế tựa quần chúng”10

Đến tháng 10/1940, dưới áp lực của mật thám Pháp NTT phải nhờ đại tá tá Nhật tên là Koike đưa đi trốn sang Quảng Châu (Canton).

Cũng theo Nguyên Vũ, sau một thời gian tá túc với nhóm Kiến Quốc Quân của Hoàng Lương và Lương Văn Ý. Dựa theo tài liệu của Pháp, Nguyên Vũ cho rằng NTT có liên hệ đến vụ ám sát Trần Phước An. (Shibata hay Trần Hy Thánh) ngày 22/7/1943 nên đã trốn qua Quảng Tây còn do chính phủ Tưởng Giới Thạch kiểm soát.11

Quân đội Nhật vào Lạng Sơn ngày 26-9-1940 mang theo khoảng 1000 Phục Quốc Quân VN dưới quyền chỉ huy của Trần Phước An. Sau khi nhật thua trận thì nhân vật Trần Phước An biến mất?

Nguồn tài liệu trên tương đối là mới mẻ và có thể nhiều người bán tin, bán nghi đặt nghi vấn một nhà văn như Nhất Linh có thể nào dính dáng trong việc thanh toán, ám sát một người?

Theo chi tiết đọc được trong sách Đảng cộng sản Việt Nam của Cao Thế Dung thì Trần Phước An (còn gọi là Trần Hy Thánh, giữ Ngoại vụ trong Phong trào Đông Du. Ông An ở lại Nhật, lấy tên Nhật là Shibata, năm 1939 mang quân hàm Trung tá…12

Nhận xét về giai đoạn các đảng phái hợp tác với Nhật trong giai đoạn này còn nhiều điều nghi hoặc vì lập trường của các đảng phái quốc gia mỗi người mỗi khác.

Cùng một đảng, nhưng người này chống Nhật, người kia theo Nhật.

Riêng nhóm Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn từ Vân Nam trở về thì hợp tác công khai với Nhật. Mặc dầu Nguyên Vũ khẳng định nhóm Khái Hưng, NTT theo Nhật … Nhưng theo thế nào, trực tiếp nhận được sự hỗ trợ nào của Nhật thì thực sự không biết. Lại có dư luận cho rằng Hải ngoại bộ VNQDD chủ trương hợp tác với Đồng Minh chống Nhật ở Đông Dương?

Bằng chứng, Trung ương đảng bộ VNQDD đã bí mật gửi Phan Trần, tức bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ tiếp xúc với đồng minh ở Trùng Khánh.

Nhưng nếu nói về mặt tiếp xúc và hợp tác thực sự với Nhật thì phải nói tới Bảo Đại-Trần Trọng Kim, Cường Để- Ngô Đình Diệm và Cao Đài.

Nguyễn Tường Tam bôn tẩu sang Tầu từ năm 1940 nên khó có thể có những móc nối cụ thể với những đại diện của chính phủ Nhật như Đặc sứ Matsumoto, Ohta chủ bút tờ Domei, Suziki, giám đốc cơ quan tuyên truyền của báo Nhựt, Kimura, giám đốc sở tuyên truyền Nhật, lãnh sự Kohno, Minoda thay thế thống đốc Pháp ở Nam Kỳ, Yokyoama, khâm sứ Trung Kỳ, nhất là Tsukamoto, khâm sứ Bắc Kỳ.

Ít lắm thì các đảng phái Quốc Gia như Quốc Dân Đảng phải có những tiếp xúc trực tiếp với khâm sứ Tsukamoto ở Bắc Kỳ. Không có tài liệu nào cho phép khẳng định rõ rệt về những tiếp xúc hay giúp đỡ như súng đạn hay tiền bạc?

Trong khi đó, người ta bắt đầu nhận thức được những ngày tàn của Nhật Bản không còn xa ..

Cho dù người Nhật giải giới người Pháp ở Đông Dương, cho dù một số đảng phái Quốc gia tin tưởng vào quân đội Nhật thì thật ra ngay trên đất Nhật họ đang chứng kiến những giờ phút hấp hối mà không mấy người của đảng phái nắm rõ được tình hình.

Sự tham dự của Mỹ vào chiến tranh thứ hai đã là yếu tố báo hiệu một sự thua trận không tránh khỏi của Nhật. Ông Nguyễn Kỳ Nam đưa ra những nhận xét chi tiết mà ngày nay cần đọc để hiểu rõ tình hình lúc bấy giờ:

Những đoàn phi pháo bay ngang dọc trên đất Nhật, ở cao độ 10 ngàn thước, thả hàng vạn tấn bom, đốt hàng vạn nhà cây, vách giấy như vào chỗ không người. Không một súng cao xạ nào của Nhật bắn quá 8000 thước!!

Sau này có những chuyến oanh tạc hàng 300 pháo đài bay B.29, mỗi chiếc chở 8 tấn bom có chất dẫn hỏa M.29 thả xuống Đông Kinh. Từ 12 giờ đêm đến 3 giờ sáng, đoàn pháo đài bay thả xuống Đông Kinh tất cả 700 ngàn tấn bom, 10 lần nhiều hơn máy bay Đức thả xuống Luân Đôn.. Chỉ nội đêm 9-3, có 197 ngàn người Nhật chết vì máy bay Mỹ (bom nguyên tử thả xuống Hiroshima chết 65.000 người). Trong số 300 pháo đài bay Mỹ, chỉ có 2 chiếc không trở về căn cứ”13

Không có những tiếp xúc với đại diện chính quyền Nhật ở trên, có thể nói gì đến chuyện hợp tác và giúp đỡ? Tóm lại, rất có thế VNQDD cũng vừa có thể tìm một hỗ trợ nào đấy của Nhật lúc bấy giờ, mặt khác khi thấy Nhật suy yếu thì họ quay về phía đồng minh mà đại diện là Trung Hoa Dân Quốc.

Riêng cá nhân NTT dù được Nhật giúp đỡ trốn tránh sự lùng bắt của Pháp, nhưng sự hợp tác cụ thể như thế nào, thật sự không rõ ràng.

* Ý định dựa vào Trung Hoa Quốc Gia để đối đầu với Việt Minh cộng sản

Đây cũng là giai đoạn hoạt động cụ thể và quan trọng nhất trong cuộc đời làm chính trị của ông NTT, mặc dầu thời gian chỉ kéo dài trong  khoảng 3 tháng .. Nó cũng đồng thời cho thấy sự yếu kém về vị thế của kẻ đến muộn và không có khả năng của các nhà lãnh đạo chính trị Quốc Gia như thế nào?

Trước viễn ảnh chẳng bao lâu nữa Nhật sẽ bại trận, ngày 12/4/1945, một phái đoàn do bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ đã sang Trung Hoa. Ở đây y sĩ Nguyễn Tiến Hỷ cùng với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam đồng thỏa thuận lập ra Quốc Dân Đảng và họ yêu cầu được Trung Hoa Dân Quốc giúp đỡ.

Trung Hoa Dân Quốc đã có lúc quân số lên đến 8 triệu người tưởng rằng sẽ làm chủ Trung Hoa cuối cùng cũng để mất vào tay Mao Trạch Đông.

Phái đoàn của bác sĩ Hỷ, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam đã được Trung Hoa Quốc Dân Đảng khoản đãi nồng hậu ở Trùng Khánh.

Nhiều người cho rằng nếu chính phủ Trùng Khánh sang sớm hơn một vài tuần thì làm gì có chuyện Cách mạng tháng 8 !! Và nếu có thì nó đã hướng sang một ngã khác.

Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng. Chính phủ Trần Trọng Kim được cải danh thành chính phủ Lâm thời.

Đây là một khoảng trống chính trị đáng giá ngàn vàng cũng không dễ mua được. Vậy mà các đảng phái Quốc Gia đã bỏ lỡ cơ hội. Họ còn nằm bẹp dí ở bên Tầu.

Ngày 17 tháng 8, thị trưởng Trần Văn Lai cho phép công chức biểu tình tại Hà Nội. Cuộc biểu tình bị Việt Minh lợi dụng cướp đoạt chính quyền ..Chỉ trong vòng 10 ngày, từ Bắc vào Nam, cả một giải giang sơn đất nước bỗng chốc đổi chủ.

Cuối cùng Việt Minh cướp chính quyền vào ngày 19 tháng 8-1945. Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị ngày 22 tháng 8 trao Bửu kiếm và Ngọc Tỷ- tiêu biểu uy quyền ngai vàng và bệ ngọc- trao cho cho đại diện Việt Minh là Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.

Họ cướp xong chính quyền rồi các lãnh tụ đảng phái mới “chuẩn bị” kéo nhau về!!!

Khi sang VN để giải giới Nhật, tướng lãnh Tầu còn được mật lệnh kín đáo giúp thành lập một chính quyền Quốc Gia VN do những lãnh tụ Quốc Gia chống Cộng thân Trùng Khánh.

Nhưng hình ảnh quân đội “Tàu ô” đến Hà Nội để lại những ấn tượng rất xấu đối với dân chúng lúc bấy giờ.

Những người nào đã sống ở Hà Nội năm 1945 sẽ chỉ thấy một đoàn quân ô hợp, áo len bông xù-xù, sà cạp lỏng lẻo, đi đứng khệnh khạng mệt mỏi, ốm đói ..Chưa kể người nào người nấy khệ nệ khiêng nồi niêu, song chảo. Có những cái chảo đường kính một thước tám dùng để đun nấu cho đội quân. Mỗi sáng sớm, từng đoàn xe cam nhông tới các chợ Đồng Xuân, Chợ Hôm chở vợi các đống chuối, rồi rau về những doanh trại do Nhật chuyển lại..

Cái cảnh bát nháo ấy khác hẳn cung cách của quân đội Phù Tang. Họ thua trận, nhưng cũng vẫn tỏ ra nghiêm chỉnh, có kỷ luật và có khí phách ..

Rồi từ đó dân chúng “ghét lây” các ông lãnh tụ đảng phái Quốc Gia thân Tàu như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh .. Dân chúng cho rằng dựa vào ai chứ dựa vào mấy Ông Vân Nam, Quảng Đông phát phù hay sâu quảng thì quả là dại dột

Đó là lời đồn qua của miệng dân chúng vào hồi 1945-1946 ..

Dưới đây là những bài hát chế diễu quân Tàu chắc do Việt Minh đặt ra mà nay nhiều người còn thuộc lòng :

Đoàn quân Tàu ô đi.

Sao mà ốm đói

Bước chân phù lang thang trên đường VN

Sau đây là lời kể lại của ông Đoàn Thêm, người đã chứng kiến tại chổ hoạt canh/ đoàn quân Tầu ô:

Trên các đường phố như hàng Nón, hàng Đào, Cửa Nam, quân Tàu của tướng Lư Hán thổ phí bất cứ cái gì cũng mang ra chợ trời bán .. Từ những bộ luật, công báo, tài liệu mật của Phủ Toàn quyền, lá thư của một bà Hoàng phi xin tăng trợ cấp đều bị ăn cắp mang ra bán. Cứ 3 đồng/một ký. Vớ được gì mang đem bán đó. Ngay các tướng Tàu như Lư Hán hay Tiêu Văn nghe đồn nhận hối lộ từ giới Hoa Kiều trước đây thân Nhật. Họ chở hàng xe đồng Quan Kim từ Tàu sang Hà Nội và đổi ra tiền Đông Dương, rồi dùng tiền đó mua hàng hóa hay đồ quý chuyển về Tàu”.14

Xin ghi lại nhận định của Nghiêm Kế Tổ:

“Từ ngày 9 tháng 9 năm 1945, quân đội Tưởng Gới Thạch do tướng Lư Hán đổ bộ lên Bắc Việt để tước khí giới quân đội Nhật, nhiều nhà Cách Mạng Quốc Gia như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh cùng đi theo về .. Trên đường hành quân của quân đội Trung Hoa, lực lượng cách mạng quốc gia, nhờ sự giúp đỡ, thiết lập luôn các các căn cứ suốt dọc Lào Kay và Vĩnh Yên. Đến Hà Nội, phong trào Quốc Gia mạnh bạo lên tiếng phả tuyên truyền Việt Minh, tố giác hành động cộng sản của Việt Minh và thành lập các trụ sở, xuất bản báo chí tạo thành một mối nguy hại lớn cho phe Việt Minh”15

Đoàn quân Trung Hoa với hơn 150.000 đã là lá chắn bảo vệ sinh mệnh cho cán bộ Đại Việt và VNQDĐ bớt khỏi cái cảnh bị Việt Minh thủ tiêu ám sát. Nhờ cái thế của Trung Hoa Quốc Gia mà Việt Nam Quốc Dân Đảng mới có thế đối đầu với Việt Minh.

Nói về việc quân đội Trung Hoa Quốc Gia vào VN, trong hồi ký, Bảo Đại gọi đây là một cuộc “xâm lăng” của Trung Hoa Quốc Gia (Invasion Chinoise), ông viết:

Các lãnh tụ VNQDD và Đồng Minh Hội đã lợi dụng uy thế được bao che bởi quân đội Trung Hoa Quốc Gia, tìm cách giải giới và thay thế các cán bộ Việt Minh tại các vùng quê. Tại Hà Nội nhiều cuộc đụng độ đã nổ ra giữa các nhóm Viet Minh và VNQDĐ”16

Võ Nguyên Giáp đã lợi dụng cơ hội việc NTT theo đoàn quân Trung Hoa này để đẩy tất cả trách nhiệm theo Tàu” tay sai của quân Tưởng” cho các lãnh tụ đảng phái Quốc gia như sau trong cuốn: Về Những năm tháng không thể nào quên:

Bọn quân Phiệt Quốc Dân Đảng Trung Hoa sắp sẵn những con bài gồm những tên tay sai người Việt ở Trung Hoa như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam .. Chúng tự nhận là người Việt Nam theo chủ nghĩa Quốc Gia, nhưng thực ra là một bọn phản động mưu toan dựa vào mũi súng quân Tưởng để kiếm sống”17

Quan điểm của Võ Nguyên Giáp thì kẻ thù chưa hẳn là người Pháp, mà chính là quân Tưởng và các đảng phái Quốc gia. Ông viết:

Hơn một vạn quân Pháp vào thì gần hai chục vạn quân Tưởng phải ra đi- Đẩy ra khỏi đất nước mười tám vạn tên chống Cộng khét tiếng.. Cách mạng đã gạt đi một kẻ thù hết sức nguy hiểm, trút đi một gánh nặng cả vật chất lẫn tinh thần”18

Cũng chính vì vậy, Võ Nguyên Giáp là người chỉ huy các lực lượng võ trang khám xét, thanh toán các lực lượng đảng phái như trong vụ Ôn Như Hầu :

“7 giờ sáng. Công An Bắc Bộ cùng một lúc khám xét nhiều trụ sở của VNQDĐ ở Hà Nội .. Tại căn nhà số 7 phố, Ôn Như Hầu, ta tìm thấy một nơi làm giấy bạc giả và một căn buồng có nhiều dụng cụ tra tấn như máy phát điện, kìm, búa cùng với những vết máu trên tường. Công an ta đào ở vườn sau lên bảy xác chết. Có những xác bị chặt thành nhiều khúc .. Tại trụ sở Trung Ương của VNQD Đ ở phố Đỗ Hữu Vị (nay là phố Cửa Bắc) Ta còn tìm thêm được nhiều xác đàn ông, đàn bà và cả tử thi của binh lính Pháp .. Trong sổ kế hoạch tịch thu, chúng ta tìm được một bản kế hoạch ám sát và bắt cóc “19

Xin ghi lại thêm một hoạt cảnh nữa xảy ra ở Thanh Hóa với cảnh hai bên Việt Minh, Việt Cách “đấu đá” như thế nào qua ngòi bút của nhà văn Vũ Bảo :

“Tháng 9 năm 1945, một sư đoàn quân Tầu Tưởng vào Thanh Hóa kéo theo bọn phản động tay sai nhằm cướp lại chính quyền của ta: Bọn Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng) đóng trụ sở ở khách sạn Tứ Dân, bọn Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội) đóng trụ sở ở Cổng Hậu. Ngoài ra Việt Quốc còn lập chiến khu ở đồn điền Di Linh (Thọ Xuân), Việt Cách cũng lập chiến khu ở Nga Sơn. Bọn Việt Quốc và Việt Cách đều tổ chức lực lượng vũ trang riêng, chúng sử dụng súng trường Môde, tiểu liên Tômsơn, lựu đạn chày và súng ngắn pàkhoọc do Tàu Tưởng cung cấp.(…)

. Tôi được phát một “súng ám sát” – loại súng của công binh xưởng Phan Đình Phùng chế tạo trông giống cái bút máy Parker, trong buồng đạn nạp sẵn một viên đạn súng lục 6,35mm. Tôi chưa có cơ hội xử dụng “súng ám sát” – nghĩa là phải đến sát thằng phản động rồi bóp cò.

Trụ sở Đội Thiếu niên Tiền phong Thanh Hóa khi ấy vừa chuyển đến nhà dòng Phờrăngxitcanh, chúng tôi ở chung với đội Tự vệ xung phong thị xã Thanh Hóa. Đêm đêm vẫn có tiếng súng trường, tiếng tiểu liên, tiếng trung liên, tiếng lựu đạn nổ trong thị xã. Bọn Tàu Tưởng bố trí cho bọn Việt Quốc, Việt Cách cố tìm cách khiêu khích quân ta để quân Tàu Tưởng kiếm cớ tước vũ khí lực lượng vũ trang cách mạng và đòi quyền giữ trật tự công cộng trong thị xã. Đôi ba lần quân Tàu Tưởng kéo đến bao vây nhà dòng Phơrăngxitcanh đòi Tự vệ Xung phong nộp vũ khí và rút khỏi vị trí đóng quân. Quân ta không chịu, bèn nổ súng cảnh cáo buộc quân Tàu Tưởng phải rút lui.

Tình hình ngày càng căng thẳng hơn. Lợi dụng Tàu Tưởng canh gác các ngã tư đường phố, bọn Việt Quốc và bọn Việt Cách đeo súng Tômsơn đi bán báo Việt Nam, Liên hiệp, Nói thật… Tại khách sạn Tứ Dân, bọn Việt Quốc còn dùng loa phóng thanh có công suất lớn chửi rủa Việt Minh – Cộng sản, công kích đường lối chính sách của Việt Minh và xuyên tạc chủ trương của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Có lần bọn Việt Quốc ở khách sạn Tứ Dân hô khẩu hiệu: “Đả đảo Việt Minh!” Nhân dân không ai hưởng ứng cả. Tức quá thằng Việt Quốc ấy làu bàu chửi: “Đ. m. đồng bào”. Ai ngờ tiếng nó vọng qua loa làm những người nghe bực mình vứt vỏ chuối, ném ống bơ gỉ vào trụ sở chúng.(…)

Hình như đạn tránh người, bao nhiêu lần đi theo tự vệ tấn công các trụ sở Việt Quốc, Việt Cách, chẳng đứa nào dính đạn. Trinh sát của ta bắt được mật lệnh của Việt Quốc sẽ đánh úp một số cơ quan đầu não ở Thanh Hóa và dựa vào lực lượng Tàu Tưởng yểm hộ sẽ cùng Việt Cách cướp chính quyền”20

Mặc dù hai bên tìm cách sát hại nhau, nhưng Việt Minh cộng sản Đông Dương còn yếu nên lùi hai ba bước. Trước hết, về danh xưng, Hồ Chí Minh dằn lòng tuyên bố giải tán đảng cộng sản để hợp tác với Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh. Họ dùng Hồ Học Lãm làm cái mũ Quốc Gia đội lên đầu để che dấu cái gốc Việt Minh cộng sản. Đó là Việt Nam độc lập Đồng Minh hội gọi tắt là Việt Minh.

Đảng cộng sản VN triệu tập Trung ương Đảng kỳ VIII, tại Pac Bo. Sau Hội nghi, HCM trở thành chủ tịch Mặt trận Việt Minh. Nhưng theo Lê Quảng Ba trong sách Bác Hồ về nước, cho thấy ngay từ rất sớm, 1936, Hồ đã ý thức được việc tạm thời hợp tác với phe Quốc Gia khi lực lượng còn yếu:

Từ năm 1936, để tạo điều kiện cho các đồng chí ta ở hải ngoại sang hoạt động thuận tiện trên đất nước Trung Quốc, một số đồng chí ta được đảng giao cho nhiệm vụ tạm thời hợp tác với một số đảng viên Quốc dân đảng, tổ chức ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội ở Nam Kinh”21

Thứ hai về tổ chức chính quyền, HCM tuyên bố giải tán chính phủ Lâm Thời mới được thành lập ngày 2-9 bằng chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia với sự tham gia chính quyền của các đảng phái. Nguyễn Hải Thần nhận chức Phó chủ tịch, Nguyễn Tường Tam nắm ngoại giao, Phan Anh nắm Quốc Phòng, Nghiêm Kế Tổ nắm thứ trưởng ngoại giao ..

Cũng do áp lực của nhóm lãnh tụ Quốc gia, Việt Minh còn “dành” 70 ghế cho phe đối lập. Trong số 70 ghế này, Việt Nam Quốc Dân đảng được 50 ghế, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội 20 ghế.

Liệu một chính phủ Liên Hiệp có tồn tại được lâu không và vai trò tham dự của các đảng phái Quốc Gia làm được trò trống gì hay chỉ là một thứ bù nhìn, làm cảnh?

Phải nhìn nhận là những người như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam đã bị lừa, tạo thế mạnh và thế chính đáng cho Ho Chi Minh.

Theo như William J. Duiker trong The communist Road to power thì việc liên minh với các đảng phái Quốc Gia đã tạo tính chính đáng (legitimacy) của một chính quyền để HCM có thể thương lượng với các nước Tàu, Pháp, Anh và Mỹ.

Và sau này điều này càng cho thấy rõ không ai khác hơn là Hồ Chí Minh, đại diện chính thức của VN để thương lượng với đồng minh.22

Cùng một nhận xét như trên về chính phủ Liên Hiệp, thứ trưởng ngoại giao Nghiêm Kế Tổ viết :

” Nhìn qua thành phần Chính phủ cải tổ, về hình thức thì hoàn toàn đoàn kết nhưng bên trong khác hẳn. Cụ Nguyễn Hải Thần già yếu nhu nhược, giữ ghế phó chủ tịch làm gì? Địa vị ngoại trưởng của Nguyễn Tường Tam, nào có ngoại giao gì đâu, ngoại giao với Pháp thì đường lối chính đã do Việt Minh vạch sẵn rồi, chỉ còn có ngoại giao với Trung Hoa thì cái thế anh em nhà của Nguyễn ngoại tướng với Lư Hán, Tiêu Văn lại là một điều lợi cho Việt Minh quá. Về nội vụ, cụ già Huỳnh thúc Kháng chỉ còn dư gân sức ký những sắc lệnh đã được thảo sẵn. Riêng bộ Quốc Phòng của Phan Anh thì chỉ làm nhiệm vụ kiến quân, dưỡng quân và huấn quân còn việc dụng quân lại thuộc Võ Nguyên Giáp”23

Trong Hồi ký Một cơn gió bụi, cụ Trần Trọng Kim cũng đưa ra những nhận xét tương tự như Nghiêm Kế Tổ.

Kể từ tháng 8/1946, đại diện Pháp là Sainteny đã có mặt ở Hà Nội để thương lượng với Hồ Chí Minh một giải pháp chính trị. Giải pháp đó là Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp.

Giải pháp đó đã bị nhóm Quốc Gia phản đối giữ dội.. Hồ Chí Minh phải làm thế nào thuyết phục được Tổng bộ Việt Minh đồng thời thuyết phục được các đảng phái Quốc Gia mới mong điều đình được với Pháp.

Lại một lần nữa Hồ Chí Minh thỏa thuận với các đảng phái Quốc Gia lập một Chính phủ Liên hiệp kháng chiến- một hình thức bề ngoài để cho phép HCM có đủ thời giờ thương lượng với Pháp. Ngày 6-3, Hồ Chí Minh và Sainteny ký một hiệp ước giữa Việt Minh và Pháp mang xưng hiệu Hiệp Định sơ bộ mồng 6 tháng 3 .. Hiệp Định sơ bộ này mở đầu cho các cuộc đàm phán giữa Pháp-Việt tại Đà Lạt, (địa điểm do Pháp chỉ định) được gọi là Hội Nghị trừ bị Đà Lạt do Nguyễn Tường Tam là trưởng phái đoàn của VN, Võ Nguyên Giáp làm phó.

* Nguyễn Tường Tam, trưởng đoàn đàm phán của Việt Nam tại Đà Lạt

Nhận chức bộ trưởng ngoại giao nói cho cùng là nhận vai trò bù nhin. Tôi rất thích chữ dùng của luật sư Trần Văn Tuyên gọi đây là 3 tháng “quyền rơm vạ đá” của cuộc đời làm chnh trị NTT như nhận xét của cụ Trần Trọng Kim. Chỉ cần 3 người cộng sản trong chính phủ đủ mắm trọn vẹn toàn thể chính phủ:

“Xét thành phần chính phủ liên hiệp lúc ấy, kể cả những người không đảng phái, có thể gọi là năm đảng nhưng chỉ có đảng Việt Minh cộng sản là có chương trình chính trị rõ ràng và có thế lực hơn cả. Còn các đảng khác thì chỉ có tên nêu ra mà thôi, chứ không có chương trình phân minh. Xã hội đảng và Dân chủ đảng là những đảng phụ thuộc của Việt Minh và không có thế lực gì. Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội tuy có thế lực là nhờ có quân đội Tàu bênh vực, nhưng không có tính cách thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ. Bởi vậy đảng Cộng sản chỉ có ba người trong chính phủ nhưng quyền bính vẫn ở cả Cộng sản”24

Trong hồi ký: Một vài ký vãng về Hội nghị Đà Lạt, xin ghi lại một vài chi tiết quan trọng sau đây cho thấy ai là người chủ trì và quyết định mọi vấn đề của phái đoàn Việt Nam. Võ Nguyên Giáp hay Nguyễn Tường Tam?

- Phái đoàn gồm 12 đại biểu và 12 cố vấn, phần chủ chốt là người của Việt Minh cộng sản do Việt Minh tuyển lựa.

- Phái đoàn được Pháp trở từ Hà Nội lên Đà Lạt bằng máy bay Junker, 3 động cơ mà Pháp tịch thu được của Đức. Tốc độ 200 km/giờ và độ cao ở 3000 mét.

-Trên máy bay cạnh Võ Nguyên Giáp là một sĩ quan”ngồi kèm” Võ Nguyên Giáp, mặc binh phục màu vàng, mang nhãn hiệu sao vàng ở mũ và khẩu tiểu liên làm phồng to các bao da áp đùi. Mỗi người chỉ đem đi một cái vali nhỏ. Võ Nguyên Giáp có cái cặp da căng bởi giấy tờ. Đặc biệt nữa là có cái hòm to dài nặng; đó là cái máy vô tuyến điện thu phát tin tức mà kỹ sư Tình phụ trách mang theo.

-Trong anh em phái bộ, bây giờ Nguyễn Tường Tam đứng địa vị rất khó. Danh là Bộ trưởng Ngoại giao cầmđầu phái bộ điều đình. Nếu phải nhượng bộ những điều mà từ trước trong đảng mình đã gọi là là việc bán nước của Việt Minh thì đồ đảng không theo, nếu phải dùng cản lực để che chở độc lập thì đảng mình lẻ loi; mà nếu muốn bám vào sức quần chúng thì phải tranh thủ với Mặt trận Việt Minh, như thế cũng không làm được . Vì thế, tuy ra Hội trường, ảnh làm trọn phận sự, nhưng ảnh ít dự vào những sự soạn bàn. Có hôm tôi sang thăm ảnh đang bị ốm. Tôi nói đến chuyện chính trị, thì anh nói:

” Những việc chính trị, thôi để các anh làm. Còn tôi thì về Văn hóa mà thôi”.

- Trong chuyến về, ông Hoàng Xuân Hãn viết như sau: “Rồi các hành nhân ngủ gà ngủ gật. Tiếng chong chóng tầu như sấm bão, làm cho không nghe người ngồi bên cạnh nói. Cửa sổ gương mờ, chỉ có một lỗ nhỏ ở giữa. Phải ghé gần sát mới thấy mây, đất, núi, sông. Gió lọt qua khe hở thổi lạnh cả lưng.

Đây là nhận xét có ý nghĩa nhất có thể dành cho Nguyễn Tường Tam, trưởng đoàn đàm phán tại Đà Lạt.

“Trong lúc tai không bưng mà điếc, mắt không bịt mà mù, tôi chỉ còn cách nhìn quanh trong tàu mà ngắm các anh em: anh ngủ ngon lành, anh đọc nhật trình, anh ra vẻ mơ màng, anh ra dáng mệt mỏi. Lại có bốn anh quây quần đánh bài ở phía sau tàu`”25

Phùng Thế Tài, một cận vệ của Hồ Chín Minh những năm 40-45 có viết lại Hội Nghị Đà lạt như sau :

“Nguyễn Tường Tam lúc bấy giờ là Bộ trưởng Ngoại Giao làm trưởng đoàn. Nhưng thực chất mọi công việc đều do đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm..”. Có lần Bác kéo tôi lại gần và nói nhỏ:” Lần này bác cử chú đi theo đoàn với 2 nhiệm vụ là bảo vệ anh Văn(tức Võ Nguyên Giáp). Kẻ địch nham hiểm lắm, không được coi thường. Nhiệm vụ thứ hai là chú tìm mọi cách để Bác và anh Văn thường xuyên liên lạc kịp thời. Mọi diễn biến hội nghị Bác phải nắm được ngay trong ngày và chuyển gấp những ý kiến của Bác đến tận anh Văn và chỉ riêng anh Văn thôi”26

Như vậy chức bộ trưởng bộ ngoại giao của NTT chỉ là hư vị và việc làm Trưởng đoàn đàm phán chỉ là công việc bù nhìn mà HCM nhằm vuốt ve, thao túng và cuối cùng loại bỏ các đảng phái khi không cần thiết nữa. Đối với Trung Hoa Quốc Gia thì HCM đã dùng vàng bạc quyên góp trong “Tuần lễ vàng” để mua vũ khí lậu để trang bị cho bộ đội Việt Minh.

Vì lòng tham lam của tướng Tầu, Việt Minh đã mua đứt được họ…

Đoàn Thêm viết:

Tướng Tiêu Văn muốn giúp, nhưng tướng Lư Hán bị mua nên để mặc cho Việt Minh rộng tay đối phó với các nhóm Quốc Gia.

Những nhóm này lại chia rẽ và không lôi cuốn nổi quần chúng. Họ Tưởng thấy có can thiệp cũng vô ích, nhưng không lẽ để VN rơi vào tay cộng sản, thà để cho Pháp trở lại như thế thì miền Hoa Nam cũng sẽ được yên như suốt trong thời kỳ Pháp bảo hộ Bắc Kỳ “27

* Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam lần lượt sang Tàu

Sau Hội nghị Đà Lạt thì tình hình tỏ ra rất bất lợi cho các đảng phái. Nhiều vụ ám sát các đảng phái xảy ra sau khi quân đội Trung Hoa rút đi vào hạ tuần tháng sáu 1946.

Thoạt tiên HCM mời khéo cố vấn Bảo Đại đi Côn Minh cho khuất mắt. Trong hồi ký, Bao Đai cho hay ông rời Hà Nội ngày 16-3-1946 trên chiếc máy bay DC.3 chất đầy hàng hóa của các tướng lãnh Tầu. Ngày 15 tháng tư, ông nhận được điện tín của Hồ Chí Minh ghi:

“Thưa hoàng thượng.

Mọi chuyện ở nhà tốt đẹp, ngài ngự cứ thong thả ở bên đó. Đàng khác, sự có mặt của ngài ở bên Tầu rất là có ích lợi cho chúng tôi. Ngài yên tâm, khi nào cần Ngài trở về, tôi sẽ thông báo. Ngài cứ yên tâm nghỉ ngơi trước những trách nhiệm đang chờ đợi chúng ta. Gửi đến Ngài những cái hôn huynh đệ. Ký tên Ho Chi Minh”28

Đến tháng 7 thì đến lượt các lãnh tụ đảng phái quốc gia, lục tục rời bỏ VN thoát thân . Nguyễn Tường Tam sang Nam Kinh, Vũ Hồng Khanh trở lại Vân Nam, cụ Nguyễn Hải Thần đi Quảng Châu, cụ Trần Trọng Kim đi theo đoàn xe Quốc Dân đảng sang Trung Hoa quốc gia đến Lạng Sơn. Trong Hồi ký một cơn gió bụi, cụ viết:

“Lạng Sơn bấy giờ thuộc quyền đội quân phục quốc đóng giữ mà chung quanh thì bị quân Việt Minh bao vây. Ðội quân phục quốc do một người thổ hào tên là Nông Quốc Long cai quản. Cả đội quân ấy độ vài trăm người có đủ súng ống, nhưng không hòa hợp với các đội quân khác của Quốc dân đảng.

Chúng tôi lên đến Lạng Sơn, nghe nói ông Nguyễn Hải Thần ở Nam Kinh đã trở về đấy. Tôi tìm cách gặp ông ấy. Từ trước tôi chưa gặp ông ấy bao giờ, chỉ biết ông và những người Quốc dân đảng khác theo quân Tàu về nước, tuyên truyền huyên thuyên mà không thấy làm được việc gì ra trò. Những người trong đám Phục quốc quân ở Lạng Sơn vì không có lương thực cũng tìm cách lấy tiền chi dụng cho qua ngày. Tôi biết những người ấy không làm nỗi việc gì, nhưng có những người đi theo ông Nguyễn Hải Thần ở bên Tàu đã lâu quen biết nhiều người Tàu, tôi muốn gặp ông và rủ ông đi lên Nam Kinh để gặp ông Bảo Ðại, vì lúc ấy mọi người đều yên chí ông Bảo Ðại đã ở Nam Kinh rồi. Trước là để tụ họp hết các đảng phái làm một cho có tính cách duy nhất trong việc hành động, sau là để khi làm việc gì, có tổ chức chắc chắn, không đến nỗi rời rạc như mọi người đã trông thấy.”29

Mất chân đứng, mất thế tựa vào Trung Hoa dân Quốc, phải đối đầu một bên là Pháp và nguy hiểm hơn cả là vời Việt Minh mà riêng Võ Nguyên Giáp rất căm thù các đảng viên Quốc dân đảng. Nhiều lãnh tụ quốc gia tìm đường thoát thân để lại cán bộ bơ vơ không có lãnh đạo.

Hoàn cảnh các đảng phái quốc gia là hoàn cảnh gái “ngồi phải cọc”. Vận hội đầy mỉa mai và trớ chêu: thân Nhật thì Nhật thua, thân Tàu thì Tàu cuốn gói, chẳng lẽ nào lại thân Pháp. Vậy mà sau này quay trở lại “thân Pháp” đấy.

Kết quả sau đó là 8 giờ rưỡi tối ngày 19 tháng 12, tiếng súng mở đầu cuộc chiến tranh Việt-Pháp.

* Ý định dùng lá bài Bảo Đại- như giải pháp Quốc Gia- để đương đầu với Việt Minh cộng sản.

Ngay từ khi rời Việt Nam thì cụ Trần Trọng Kim đã có ý định tập họp các lãnh tụ đảng phái đứng sau Bảo Đại. Cụ đã mang việc này ra bàn với Nguyễn hải Thần khi họ gặp nhau ở Lạng Sơn.

Phần Bảo Đại từ khi sang Hồng Kông, cựu hoàng bày tỏ một lập trường dứt khoát với Việt Minh. Ông tuyên bố với báo chí: ” Nếu tất cả dân chúng VN đặt tín nhiệm vào tôi, nếu sự hiện diện của tôi có lợi ích cho sự giao thiệp hòa hảo Việt-Pháp, tôi sẽ sung sướng mà trở lại Việt Nam. Tôi không hoạt động cho Việt Minh, không hoạt động cho đảng phái nào cả, tôi chỉ tranh đấu cho tổ quốc30

Nhưng mãi đến tháng 9 năm 1947, người ta mới có thể tập họp các chính trị gia và đảng phái lại. Mọi người đều kỳ vọng lá bài Bảo Đại như một giải pháp chính trị nhằm tiến tới độc lập” Không đổ máu với Pháp”, nhiều đại biểu của các đảng phái trước đây chống Pháp họp nhau lại ở Hồng Kông để yết kiến và ủng hộ Bảo Đại.(trừ ông Ngô Đình Diệm)

Người phát ngôn viên của Bảo Đại là luật sư Trần Văn Tuyên còn nói thêm là : Nếu mai đây, nước Pháp thương thuyết với Hồ Chí Minh thì tất cả những người Quốc Gia sẽ nhất tề nổi dậy chống cả Pháp lẫn Hồ Chí Minh. Ông Tuyên đã ra Hà Nội rồi Huế, tiếp xúc với các giới và thay mặt cựu hoàng lên tiếng phủ nhận Cựu Hoàng không phải là cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh.

Lập trường Quốc Gia của cựu hoàng đã được một số đông trí thức và chính trị gia tại ba miền ủng hộ.

Phải nhìn nhận là cựu hoàng có “cái thế chính trị”, cái thế có thể triệu tập chung quanh ông mà không một lãnh tụ đảng phái nào có được:

Đó là cái thế có thể thương lượng với người Pháp và thế để đương đầu với Việt Minh cộng sản.

Vì thế trong năm 1947 đã có nhiều nỗ lực từ phía các đảng phái kết hợp lại thành lập một Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất Toàn Quốc với các đảng Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn, Cao Đài, Đoàn Thể Dân Chúng và Liên Đoàn Công Giáo ..

Mục đích của Măt Trận này là thống nhất các đảng phái để đấu tranh dành độc lập. Những người như Nguyễn Tường Tam, Trần Trọng Kim, Hộ pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài một lần nữa muốn lôi kéo Bảo Đại ra khỏi cảnh về hưu non ở tuổi 33.

Theo Nghiêm Kế Tổ, ngày 9 thàng 9 năm 1947, hàng đoàn đại biểu từ trong nước đã bay sang Hồng Kông yết kiến, tham khảo cựu hoàng.

Đại biểu miền Nam có Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Săm Mặt trận Liên Hiệp Quốc Gia), Nguyễn Phan Long( viết báo), Trần Quang Vinh( Cao Đài) .

Đại diện miền Trung có có: Trần Thanh Đạt (nguyên thượng thư bộ giáo dục), Trần Văn Lý ( Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh Huế), Cao Văn Chiểu Nguyễn Khoa Toàn, tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên, dược sĩ Phan Văn Giáo ..

Đại diện miền Bắc có Lương Văn Phúc, Đỗ Văn Bình, Nguyễn Bá Chính, Đặng Vũ Lạc, Lê Thăng, Đỗ Văn Năng, Nhượng Tống,Ngô Thúc Định vv.

Ngoài ra thì có Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long vv.. thuộc thành phần Hải Ngoại….31

Nhận xét về sự quy tụ chung quanh cựu hoàng, người ta nhận thấy những trí thức thân tây có phần ảnh hưởng quyết định trên những chọn lựa chính trị của cựu hoàng. Bảo Đại xem ra không mặn mà với các đảng phái. Ý kiến của họ cũng ít được quan tâm.

Nếu cần chọn lựa một người lãnh đạo quốc gia thì là Ngô Đình Diệm.

Trong nước, tại miền Nam, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân hoạt động tích cực hậu thuẫn cho Bảo Đại.

Trong khi đó, ông Ngô Đình Diệm chống đối kịch liệt giải pháp Bảo Đại cho đến khi nào một số thỏa thuận ngoại giao đạt được. Bảo Đại đã ghi lại như sau:

“Khi tôi trở về, tôi có nói chuyện lâu dài với Ngô Đình Diệm. Ông này chống đối mạnh mẽ tất cả mọi tiếp xúc với Cao Ủy Pháp cho đến khi nào vấn đề thủ tục ngoại giao chưa được giải quyết. Ông ta cho rằng việc tôi có mặt ở Pháp không đem lại được yếu tố gì mới mẻ .. Tôi yêu cầu ông về Sài Gòn và tìm hiểu ý kiến của Cao Ủy ..Ông ta đã tiếp kiến Bollaert ngày 22 tháng 3.

Ngay ngày 24,. ông trở lại Hồng Kông. Sự thất vọng của ông ta là hoàn toàn … Với Diệm, ông chủ trương nên chờ đợi …

Thái độ của Diệm không giống với đa số các chính khách đã có mặt tại Hông Kông .. nhiều người còn cho rằng phải để cho người Pháp có cơ hội hhành động…”32

Ba tháng sau, ngày 6 tháng 12 năm 1947 có cuộc gặp gỡ đầu tiên công khai Việt Pháp giữa cựu hoàng và cao ủy Bollaert trên chiến hạm Trouin tại vịnh Hạ Long.

Cuộc gặp gỡ thăm dò này mở đầu cho những thăm dò mở đường cho một ” Giải Pháp Bảo Đại” thành hình sau đó vào ngày 8 tháng ba, năm 1949 bất kể sự bất bình chống đối của một số người của đảng phái.

Bảo Đại sau đó dưới sự bảo trợ của Pháp đã rời Hông Kông sang ở Âu Châu. Các đảng phái phái nay chẳng còn vai trò gì nữa, chống Việt Minh không nổi, chống Pháp không có đường lối đều rút lui nằm chờ thời. Có lẽ đây là nỗ lực cuối cùng của các đảng phái quy tụ lại đã không đem lại kết quả mong muốn ..

Phần Nguyễn Tường Tam đã về VN và tuyên bố từ bỏ làm chính trị. Sau đó tháng tư năm 1951, ông bỏ Hà Nội vào sài Gòn cùng với gia đình người anh, ông Nguyễn Tường Thụy ..Cho đến nay, không ai biết lý do tại sao ông đã bỏ Hà Nội vào Sài Gòn? Khi cả gia đình di cư vào Nam năm 1954 thì ông lại sách gói lên ở Đà Lạt vào năm 1955.

* Cuộc binh biến lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm năm 1960 đã thất bại và sau đó cái chết của Nhất Linh năm 1963

Biến cố 11-11-1960 là một thử nghiệm đặt lại vai trò của TT, Ngô Đình Diệm trong chính quyền Quốc Gia miền Nam và vai trò của Mỹ khi tham gia trực tiếp vào chiến trường VN. Theo tướng Tôn Thất Đính nhận định:

Về bản chất của chính biến thì đến nay ai cũng đã rõ đó là sự dàn xếp của Hoa Thịnh Đốn để thu quyền hành ở miền Nam VN về trong tay của Mỹ. Mỹ dàn cuộc đảo chính này ra nhiều mặt, từ nội bộ gia đình Tổng thống, đến nội bộ của các tổ chức tham dự vào chính biến này, và phía quân sự thì kết hợp với phòng Nhì của Pháp để vận động các sĩ quan dưới quyền của đại tá Nguyễn Chánh Thi hành động theo Tình báo của Hoa Kỳ..(..)Các phe theo Pháp chạy gấp trước trong đó có Vương Văn Đông, các phe theo Mỹ được chính Mỹ trở lên máy bay chạy trốn trong đó có Hoàng Cơ Thụy”…33

Sự tham gia của các đảng phái trong cuộc binh biến này chỉ nắm vai trò hỗ trợ. Vai trò của Vương Văn Đông( quân sự) và Hoàng Cơ Thụy(dân sự,) là hai nhân vật chủ chốt với sự thỏa thuận ngấm ngầm của người Mỹ( Không có tính cách chính thức của tòa đại sứ Mỹ và đại sứ Durbrow).

Bằng chứng là người của các đảng phái không được thông báo chi tiết về kế hoạch đảo chánh sẽ xảy ra như thế nào. Đã thế, phía Hoàng Cơ Thụy, Vương Văn Đông đã có kế hoạch tẩu thoát do người Mỹ lo liệu một khi cuộc đảo chánh bất thành.

Thất bại, họ lo chạy thoát thân mặc kệ những vị nhân sĩ ở lại.

Không lạ gì sau đó 35 bị can dân sự đều bị bắt cầm tù, trừ Nguyễn Tường Tam đã chuẩn bị trước tìm đường chạy thoát vào tòa Đại sứ Trung Hoa Dân Quốc.

Mặc dầu đây là một biến cố chính trị mở đầu cho những rối loạn sau đó, nhiều sách vở tài liệu chỉ nhắc tới như một sự kiện mà không đi vào chi tiết . Tướng Trần Văn Đôn trong Les guerres du Viet Nam, không có đề cập đến biến cố chính trị này.

Việc Nguyễn Tường Tam có dính dáng vào cuộc đảo chính này như thế nào thì rất là lỏng lẻo và sơ sài.

Công việc đảo chính được giao phó giản dị chỉ là trách nhiệm viết truyền đơn và đề tên ai. Không biết kế hoạch trước đảo chính, không biết chương trình sau đảo chính!! Cứ như theo lời kể lại của ông Trương Bảo Sơn như sau:

Ở đây, tôi xin mở dấu ngoặc để nói về việc làm truyền đơn trong biến cố này . Khi thẻo truyền đơn, trong danh sách những người ký tên, chúng tôi đã để tên Nguyễn Tường Tam lên đầu, rồi mới tới tên các cụ Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Văn, Nguyễn Xuân Chữ vv..Ông Tam đã sửa lại để tên sau tên ông Chữ . Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông giải thích:” Anh đừng quên người ta vẫn nói miền Nam của người miền Nam, mình là người Bắc di cư, phải lưu tâm và tôn trọng điều đó” .

Cuộc đảo chính thất bại, các đồng chí của ông Tam bị bắt gần hết .. Ngoài ra, ông Diệm còn cho bắt giam hết các nhân sĩ và lãnh tụ đảng phái và giáo phái khác và giáo phái khác, không trừ một ai, nhưng trừ… Nguyễn tường Tam “.

Sao có sự lạ lùng như vậy?

- Phải chăng vì Ngô Đình Diệm kính nể Nguyễn Tường Tam?

-Phải chăng Ngô Đình Diệm cho rằng đã chặt hết tay chân của ông Tam đi rồi thì ông Tam không còn làm gì được nữa?”34

Về những thành phần nhân sĩ tham dự thì theo ông Đỗ Mậu, “Ngoài những sĩ quan trẻ như Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Huy Lợi còn có các tổ chức dân sự như Liên Minh Dân Chủ, Mặt trận Quốc Gia Đoàn Kết. Lực Lượng Nghiệp Đoàn của ông Bùi Lượng và nhiều nhân vật thuộc các đảng phái chính trị khác như các ông Lê Vinh( Duy Dân), Phan Bá Cầm, Nguyễn Bảo Toàn (Hòa Hảo), Vũ Hồng Khanh, Xuân Tùng ( Việt Quốc) cầm đầu, ” Mặt Trận Quốc Gia Đoàn Kết” do các ông Nguyễn Tường Tam và các ông Phan Khắc Sửu( Cao Đài), Nguyễn Thành Vinh, Trương Bảo Sơn (Việt Quốc) lãnh đạo .. Tất cả có hàng trăm nhân vật chính trị dân sự đại diện cho các đảng phái trực tiếp hay gián tiếp tham dự cuộc đảo chánh của Nhảy dù”35

Việc thiếu tá Phan Phụng Tiên dùng phi cơ C.47 đào thoát sang Campuchia, theo tướng Nguyễn Cao Kỳ trong Budddha ‘s Child là do sự đồng ý của ông NCK. Ông viết là đại tá Nguyễn Chánh Thi đã chạy vào sân bay Tân Sơn Nhứt cùng với khoảng 15 đồng đội của ông năn nỉ một cách sợ hãi xin cho một máy bay để sang Campuchia và nhờ đó thiếu tá Phan Phụng Tiên đã chở đám người của đại tá Thi một cách an toàn sang Campuchia.36

Trong việc binh biến này, chỉ nội việc đứng tên chung cho thấy không biết ai là nhân vật chủ chốt trong đám vài chục nhân sĩ như ông Đỗ Mậu viết? Giả dụ rằng cuộc binh biến thành công, ai sẽ là nhân vật chủ chốt? Về dân sự, nhóm Hoàng Cơ Thụy hay nhóm các ông Nguyễn Tường Tam, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương ai sẽ là chủ chốt? Về nhóm quân sự thì Vương Văn Đông hay Nguyễn Chánh Thi? Người ta sắp xếp vị trị của các tướng lãnh như Dương Văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn Thất Đính vv sao cho ổn và vừa lòng mọi người? Giữa Nguyễn Tường Tam và Hoàng Cơ Thuy, ai là người đủ tư cách lãnh đạo chính quyền?

Qua việc này cho thấy việc tổ chức đảo chánh lỏng lẻo như thế nào và giả dụ đảo chính thành công thì cuộc mặc giữa các phe nhóm cả sẽ đi đến đâu? Lúc đó sẽ có những cuộc chỉnh lý, đảo chánh chống đảo chánh và rất có thể Nhất Linh- Nguyễn Tương Tam lại rơi vào tình thế phải đối lập với những người đã từng chia xẻ trách nhiệm đảo chánh Ngô Đình Diệm?

Tình thế chính trị rối beng sẽ rút ngăn thời gian cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam sớm hơn là năm 1975!!

Cảnh xáo trộn, bát nháo chính trị vì không ai chịu ai sẽ xảy ra sớm hơn theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân !!

Nhưng chẳng may việc đảo chính thất bại, theo ông Đỗ Mậu thì tình hình trong dinh Độc Lập lúc bấy giờ như sau:

Độ 3 giờ chiều ngày 12-11-1960, tôi vào dinh Độc Lập để trấn an tổng thống Diệm. Tôi thấy chung quanh ông có ông Nhu, Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, tướng Dương Văn Minh, và một số bộ trưởng như Trần Lê Quang, Nguyễn Đình Thuần, Huỳnh Hữu Nghĩa, Ngô Trọng Hiếu .. ngoài ra còn có bác sĩ Trần Văn Thơ. (…)

Trong lúc những nhà lãnh đạo quốc gia vui cười trước những cơn đắc thắng thì nhóm lãnh đạo đảo chánh đã lên phi cơ Dakota do Đại Úy Phan Phụng Tiên lái trực chỉ Phnom Penh xin tỵ nạn chính trị, bắt theo cả tướng Thái Quang Hoàng làm con tin”37

© Nguyễn Văn Lục

© Đàn Chim Việt

——————————-

Chú thích: 

1 Trich Nhất Linh, Người nghệ sĩ- Người chiến sĩ, trang 129

2 Trich Văn Học miền Nam, tập 2, Võ Phiến, trang 1243

3 Trích Chân dung Nhất Linh, Nhật Thịnh, trang 17.

4 Trích Chân dung Nhất Linh, Nhật Thịnh, trang 160

5 Nhất Linh, người nghệ sĩ- người chiến sĩ, Trương Bảo Sơn, trang 81

6 Trích Đoàn Thêm, Ibid, trang 31-35

7 Trích Đoàn Thêm, Ibid, trang 53-54

8 Trích tóm lược trong Viet Nam 1945 ca David G. Marr, t trang 207-210

9 Xem The communist road to power, J. Duiker viết: “The appearance of famine in the countryside- a factor so familiar to students of revolutionnary process- provided the sense of desperation that gave the communists access to the villages and fueled the rural insurgency. Ibid, trang 100

10 Trích Khái Hưng, Trần Khánh Giư, Nguyên Vũ, trong tập san Hợp Lưu số 104, tháng 3&4, 2004, trang 8 .

11 Trần Phước An du học Nhật nằm trong phong trào Đông Độ. Tháng 10/1940 Trần Phước An cùng Koike giúp Nguyễn Tường Tam qua Quảng Châu 6/10/1941, Bộ trưởng thuộc địa Charles Platon yêu cầu Bộ Ngoại Giao phản đối Nhật về những hành động của An. 22/7/1943 An bị ám sát ở Quảng Châu. Nguyễn Tường Tam tự nhận sai người giết An. CAOM (Aix, GGI, 7F29, tr 1

12 Xem thêm Đảng cộng sản Việt Nam, Cao Thế Dung, trang 489

13 Xem Hồi Ký 1925-1964, Nguyễn Kỳ Nam, các trang 181-183

14 Theo Đoàn Thêm, Ibid, trang 66-68.

15 Vit Nam máu la, Nghiêm Kế T, trang 51-52

16 Trích Le Dragon D’annam, S.M. Bao Dai, trang 138

17 Trích Những năm tháng không thể nào quên, Võ Nguyên Giáp, trang 31

18 Trích Vo Nguyên Giáp, Ibid, các trang 175, 216

19 Vo Nguyen Giap, Ibid, trang 255-258

20 Trích Rễ Bèo Chân Sóng, Vũ Bảo, chương 14

21 Trích Bác Hồ về nước, Lê Quảng Ba, trang 202.

22 Trích The communist road to power, William J. Duiker, trang 87

23 Trích Việt Nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ, trang 65-66

24 Trích Trân Trọng Kim Một cơn gió bụi, Ibid

25 Trích lại Hồi ký Hoàng Xuân Hãn đăng trên Tân Văn số 10, tháng 5/2008

26 Trích Phùng Thế Tài, Bác H, nhng k niêm không quên, trang 22 và 67

27 Trích Đoàn Thêm, Ibid, trang 72

28 Trich Bao Đai, IBid, trang 156

29 Trích Hồi ký Một cơn gió bụi, Trần Trọng Kim, trên Talawas.net

30 Trích Việt nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ, trang 110

31 Trích Việt Nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ, trang 111

32 Trich sơ lược Le Dragon d’Annam, Ibid, trang 197-198

33 Trích Hồi ký của Tôn Thất Đính, 20 năm binh nghiệp, trang 204-205

34 Trích Nhất Linh, Người Nghệ sĩ- Người chiến sĩ, trang 76

35 Trích Hồi Ký Hoành Linh Đỗ Mậu, trang 357-358

36 Trích tóm lược trong Buddha ‘s Child, Nguyen Cao Ky, trang 73-75

37 Trích Hoành Linh Đỗ Mậu Ibid, trang 357-358

21 Phản hồi cho “Nguyễn Tường Tam Nhà chính trị- và sự thất bại của các đảng phái Quốc Gia[1]”

  1. thíchđủthứ says:

    Kẻ góp ý này không tin là Ông NVL hạ bệ các đảng chính trị khác hoạt đông ở miến Nam là đề đề cao NĐD và chủ thuyết CLNV của Ông Nhu .Vì trong bài viết,ông ta không lời nào ca ngợi nền Đ.I.CH cả mà chỉxét chung các đảng phái “yếu hèn” vì hết dựa dẩm vào nước này ,nước khác.Điều này gióng với VC là PCT theo Pháp,PBC theo Nhật,,và NTTam theo Tàu (Tàu tưởng),NĐDiệm theo Mỷ .Nghỉa là “đua người cửa trước ,rước người cửa sau”,nghỉa là ” cỏng rắn cắn gà nhà”,nghỉa là “đuổi rắn cửa trước,rước hỏ cửa sau”,không ai làm được việc gìngoài BÁC ,(Việt sử lớp 3,học sinh miền Nam học sau 75). Như vậy không thể nói NVL ca ngợi NĐD và Thuyết Nhân vị.Mà nếu có ,thì vớilối phê bình và trích dẩn này,thì củng chỉ đươc ngừời đọc biết là “khen vì không thể chê hết để lòi đuôi Cộng thì mần răng ?”.Hơn nửa đả hơn nửa thế kỷ ,vẩn có nhửng người dị ứng vơí nền Đê I CH và nhai đi nhai lại nhửng tuyên truyền xuyên tạc ,nhửng điều xấu xa bỉ ổi của một thời TTNĐDiệm Điều này củng chứng tỏ VC và sư sài phản loạn như ở Huế đả tuyên truyền rỉ tai bằng cả chiến thuật “trắng ,đen ,xám” và đả thành công (gióng như sự tẩy nảo thành công một phần nào,khá lớn của VC trong tầng lớp dân chúng ,có học hay không có học,cả với giới trí thức.Sách vở của ngoại nhân củng là yếu tố hạ gia đình họ Ngô vì ngườitrí thức TIN vào ,và cả người dân,củng vọng ngoại nhìều hơn.Ngay trong mục góp ý này ,củng nhắc lại luận điệu của bè lủ phản Ngô thời đó kích động lật đổ nhà Ngô đi dến mất nước như hôm nay..Nếu các đảng phái biết kiềm chế ủng hộ NĐD một tâm chông cộng trong khuôn phép và kỷ luật quốc giathì đâu nên nổi 75 phải chạy nhưgà mắc đẻ.và bây giờ mô có ngồi đây phách lác,tán dóc? Và đó là điều chứng tỏ rằng Ông Lục chẳng bênh vực gì NĐD ,vì moi người đả nói tới và Cụ theo Mỷ và sau này bị bọn tướng tá phản loạn giết đi củng do Mỷ và đồng đôla làm “magic”mà thôi. Vây ông NVL nếu có bênh vực cụ (mô thấy)thì củng chỉ là “nói vậy mà không phải vậý” .Qua trích dẩn và lối viết hạ bệ NTTđồng thới đá văng các đảng phái QG khác,với phần trích dẩn khá nhiều sách vở của phe Cộng Phỉ thì dù NVL không minh danh ra ai là đángca ngợi thì chúng ta củng biết :CA NGỢi Bác,đảng CSVN chớ AI nửa. Có phải ông ta muốn nói là ” Đó ,các đảng phái quốc gia,các nhân vật “cách mệng ” quốc gia chẳng qua là sống tong viển mơ như trong tiểu thuyết và cứ theo chân mấy Ông Tàu Nhất Pháp Mỷ mà làm CM cho vui!”
    Kẻ góp ý không chụp mủ.
    Kẻ góp ý củng đaulòng thấy người tahạ bệ NĐDiêm ,tới nay vẩn còn tìm cách “lưu xú” người yêu nước vì nhửng tên mang tội với tỏ quốc ,với cha ông phải nhai lại điều chúng nói về NĐD đẻ được yêntâm,không tội,sớm về niết bàn.(ở SJ nếu ai tiếp xúc vơi một vị sư,dù sinh sau 75,vẩn chười NĐD và Vatican.,và dù ở Mỷ củng không ngượng miệng chưởi luôn cả Mỷ).
    NL/NTT có chổ đúng của Ông trong dòng lịch sử của dân tộc…Ông là nhà văn có tài,góp vào văn học VN một cuộc CM chử nghỉa,hủ tục đổi mới cả một nước ,con người kể cả hệ tư tửơng của họ. Ông củng là nhà CMlớn trong các nhà CM cứu nước cứu dân khỏi tay thực dân Pháp.Nhưng “GIẤCMỘNGLỚN ” chưa thành. Còn việc chống chế độ NĐD,có lẻphảicó thêm nhiều thới gian mới biết là công hay tội (chính ông củng di chúc “đời tôi để cho lịch sử xử”)’
    Còn việc thành bạilà chuyện thường,đâu có thể lấy đó mà phê phán chê bai (Ong NVL chê tuốt nhửng nhà CM kể cả anh hùng NTH).
    NTTcó thể là Cao Bá Quát,nhưng thời đaị NTT và chính quyền dân chủ NĐD có là triều đaị nhà Trần hay không ?
    Nói tómlại,VủBằng,sau khi đảo chánh xong đả viết môt bài về NL. mà cái tựa bài vẩn còn nhớ được “Đa Bất Mản Hoài’” ,cho NL chỉ là nhà CM.luôn luôn muốn thay đổi xả hội theo một đường hướng tốt đẹp tuyệt đối. Nhưng trên thế giới này,có cái gì tuyệt đối ?
    Kết luân NTT là nhà CáchMạng và chỉ là nhà CM mà thôi !
    A=di=dà=phật !
    Thiện tai,!thiệdang@n tai !

  2. LẠI MẠNH CƯỜNG says:

    Thưa bà con,

    Chúng ta thử tìm hiểu thật nhanh về Nhất Linh Nguyễn Tường Tam nhé :-) !

    Nguyễn Tường Tam (chữ Hán: 阮祥叄; 1905-1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh (壹零), Đông Sơn (khi vẽ) và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20.

    SƠ YẾU LÝ LỊCH

    Tên thật Nguyễn Tường Tam, sinh ngày 25 tháng 7 năm 1906 tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Du học tại Pháp năm 1927 (Ðậu cử nhân khoa học tại Pháp), về nước năm 1930, vào Nam năm 1951. Sống tại Ðà Lạt từ 1953, về lại Sài Gòn năm 1958, mất ngày 7 tháng 7 năm 1963.

    Sinh hoạt văn học:

    Mua và tục bản báo Phong Hóa (của Giáo sư Phạm Hữu Ninh) từ 22-9-1932.
    Thành lập Tự Lực Văn Ðoàn năm 1933 (Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Ðạo, Tú Mở, Nguyễn Gia Trí, Thế Lữ)
    Làm báo Ngày Nay năm 1936.
    Mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn đoàn, năm 1951
    Làm báo Văn Hóa Ngày Nay năm1958 (phát hành được 11 số)

    Sinh hoạt chính trị:

    Hợp tác trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến và giữ vai trò Bộ Trưởng Ngoại Giao. Ông cũng tham gia Quốc hội khóa I đặc cách không qua bầu cử. Cầm đầu phái đoàn VN đi dự hội nghị tại Ðà Lạt, năm 1946. Lưu vong 4 năm tại Trung Hoa, từ n
    Lập đảng Hưng Việt, sau đổi tên Đại Việt Dân Chính năm 1939 , lánh nạn tại Quảng Châu Trung Quốc năm 1942.
    ăm 1947, trở về sống tại Hà Nội, năm 1951 tuyên bố không hoạt động chính trị, không thuộc đảng phái nào.
    Dính líu vào vụ đảo chánh chính quyền Ngô đình Diệm , ngày 11-11-1960. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.
    Ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm, để lại phát biểu nổi tiếng: “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do.”

    Các tác phẩm:
    Nho Phong (1924) , Người Quay Tơ (1926) , Anh Phải Sống (cùng Khái Hưng, 1932-1933), Gánh Hàng Hoa (cùng Khái Hưng,1934), Ðời Mưa Gió (cùng Khái Hưng, 1934) , Nắng Thu (1934) , Ðoạn Tuyệt (1934-1935), Ði Tây (1935) , Lạnh Lùng (1935-1936) , Hai Buổi Chiều Vàng (1934-1937) , Thế Rồi Một Chiều (1934-1937), Ðôi Bạn (1936-1937), Bướm Trắng (1938-1939), Xóm Cầu Mới (1949-1957) …

    NHẤT LINH VỚI TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ

    Thời CS vào ngay sau thời mở cửa đã cho quay thành phim một số tác phẩm hay thời tiền chiến, trong đó có GÁNH HÀNG HOA mà Nhất Linh viết chung với Khái Hưng vào năm 1934. Vừa rồi tra cứu trong internet tôi thấy trong nước có cho in lại tác phẩm ĐÔI BẠN. Tác phẩm này ra mắt khoảng năm 1936-37, nghĩa là sau hai tác phẩm ĐOẠN TUYỆT (1934-1935) và LẠNH LÙNG (1935-1936)

    Thưa ở đây tôi muốn bàn sơ qua về ĐOẠN TUYỆT, tác phẩm làm nên danh vọng cho Nhất Linh, bởi thời tôi đi học nói tới ông là nghĩ ngay đến Đoạn Tuyệt (chả khác gì tên tuổi Khái Hưng dính liền với Hồn Bướm Mơ Tiên; Hoàng Đạo với Bùn Lầy Nước Đọng và Mười Điều Tâm Niệm)

    1/
    Tài liệu từ Internet:
    Đoạn Tuyệt xuất bản năm 1936 là một tiểu thuyết luận đề, thuật chuyện một người phụ nữ đã tiêm nhiễm những tư tưởng mới về tự do, về giá trị và quyền sống của cá nhân trong xã hội. Vì không chịu nổi những ràng buộc vô lí của chế độ đại gia đình, những tập tục hủ lậu của lớp người cũ, nàng phải “đoạn tuyệt” với gia đình để thoát li mọi áp bức và sống tự lập.

    2/
    Trọng Đạt, một cây bút quen thuộc chuyên phê bình văn học nghệ thuật (phim ảnh) lẫn Việt sử hiện đại (chiến tranh Đông Dương lần hai), đã nhận xét trong một bài viết đăng trên web trường trung học Trần Lục ở thuộc quận Ba (Nhất) như sau:

    - Khái Hưng và Nhất Linh đã được dư luận các nhà phê bình và dư luận độc giả coi như hai tác giả lớn nhất của nền văn chương Việt Nam, Nhất Linh may mắn hơn Khái Hưng, ông còn sống sót sau những trận tấn công của Việt minh nhằm tiêu diệt Việt Nam Quốc Dân đảng nên đường văn nghiệp của ông dài hơn (…)

    - Mãi đến năm 1935, hai năm sau sự thành công của Khái Hưng, Nhất Linh mới có được địa vị vững chắc khi ông hoàn thành Đoạn Tuyệt, một truyện dài gần ba trăm trang đã được nhắc tới nhiều nhất. Tên tuổi của Nhất Linh như gắn liền với tác phẩm, nó đã làm sống lại cả một xã hội hủ lậu, hà khắc của một thới phong kiến đã qua, đó là tấn thảm kịch đầy nước mắt của một người phụ nữ tân thời vùng lên chống lại sự áp bức của nền luân lý cổ. Đoạn Tuyệt đã đánh dấu một bước tiến dài của nền văn chương Việt Nam, nó cũng đánh dấu một khúc quành trong công cuộc cải cách xã hội và đấu tranh cho tự do, nhân phẩm cũng như quyền sống của con người chống lại một chế độ hủ lậu hà khắc, tàn dư của phong kiến đã một thời tác yêu tác quái tại xã hội Việt Nam chúng ta.

    Truyện cũng đã bị búa rìu dư luận chỉ trích một thời, Ông Phạm Thế Ngũ cho rằng các nhân vật của tác phẩm như bà Án, cậu ấm Thân, cô Loan . . .chỉ là những nhân vật nộm, có người cho ông là quá khích chống lại tất cả nền tảng xã hội cũ, nhiều nhà văn ở thập niên 60, 70 . .chỉ trích lối tiểu thuyết luận đề giả tạo của Đoạn Tuyệt. Mặc dầu nhân vật do ông nặn ra nhưng nó cũng đã phản ảnh được khá đầy đủ thực trạng xã hội thời ấy, một xã hội quá hủ lậu, phản văn minh, phản tiến bộ đã kìm kẹp đất nước ta trong vòng lạc hậu. Hồi thập niên 30, 40 . . . nó đã là sách gối đầu giường của giới phụ nữ thời ấy, sự kiện chứng tỏ người ta đã muốn cởi bỏ cái ách nô lệ của nền tảng gia đình cũ kỹ tự mấy ngàn năm, mặc nhiên chúng ta phải công nhận nó có giá trị hiện thực xã hội. Trên thực tế, những nhà văn đã chỉ trích tác phẩm là giả tạo nhưng lại ít thấy ai viết được hơn thế.

    Đoạn Tuyệt đã đóng góp lớn lao cả về hai phương diện văn chương và cải cách xã hội, được sáng tác từ hơn nửa thế kỷ qua, Đoạn Tuyệt vẫn sống và sẽ còn sống mãi trong lòng dân tộc.

    Năm 1936, Nhất Linh viết Lạnh Lùng, đây cũng là một tác phẩm thành công, truyện một goá phụ trẻ đẹp, có con nhỏ, yêu một anh thầy giáo, họ lén lút sống với nhau. Chàng và nàng đã định trốn đi xây tổ uyên ương vì sợ gia đình không cho phép lấy nhau. Nàng về nhà thú thực với mẹ và xin cụ tác hợp cho đôi trẻ nhưng bà không thuận, bắt nàng phải thủ tiết thờ chồng để giữ tiếng thơm cho hai ho. Nàng định cùng người yêu trốn đi nhưng lại thôi vì thương mẹ quá, nàng vẫn lén lút gặp người yêu và vẫn phải ở giá thủ tiết thờ chồng.

    Lạnh Lùng, một truyện tình bi thảm của Nhất Linh, nó cũng là một tiểu thuyết luận đề như Đoạn Tuyệt và đã đóng góp cả về phương diện văn chương cũng như cải cách xã hội nước nhà, bố cục gọn gàng, sáng sủa, tình tiết lãng mạn, cảm động đầy nước mắt, tác giả đã vô cùng khéo léo phơi bầy cho chúng ta thấy một cách thấm thía bộ mặt trái tàn nhẫn của nền luân lý cổ, nó lạnh lùng như gió heo may trước hạnh phúc của con người. Sắc đẹp, hạnh phúc của người góa phụ chỉ là sự vô nghĩa trước danh giá thủ tiết thờ chồng, một hư danh hão huyền mà nền luân lý hủ lậu đã bắt nàng phải chấp nhận.

    Năm 1937 Nhất Linh viết Đôi Bạn, tiểu thuyết xã hội, lãng mạn, dài bằng Đoạn Tuyệt, nhẹ nhàng, tế nhị, đã được dư luận chung coi như hay nhất trong văn nghiệp của ông. Bố cục có phần lỏng lẻo, rời rạc song ý nghĩa sâu sắc hơn Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng. Đôi Bạn diễn lại những tấn bi kịch xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc với những thanh niên thoát ly gia đình, vượt biên giới sang Tầu dấn thân vào cuộc đời gió bụi làm cách mạng, những cảnh đời bi thảm lồng trong những mối tình lãng mạn, éo le, ngang trái, vấn đề giai cấp, bất công xã hội . . . Hành văn chau chuốt, nhẹ nhàng, bi thảm đã tả chân hiện thực một giai đoạn lịch sử cận đại nước nhà với những thành kiến hủ lậu, độc đoán đã trói buộc cả một lớp thế hệ thanh niên. Dũng một thanh niên con quan, nhưng khác với anh em trong nhà, chàng có tư tưởng cấp tiến, xấu hổ vì giai cấp quan lại của mình, bạn bè chàng toàn là những người nghèo khó, nhiều người dấn thân làm cách mạng. Dũng yêu Loan, cô gái nghèo hàng xóm, biết là gia đình sẽ không cho lấy nhưng vẫn cứ yêu, gia đình ép Dũng lấy một tiểu thư xinh đẹp con một ông quan to, Dũng không chấp nhận sự gò ép, chàng phản đối tiêu cực, lẳng lặng cùng một người bạn thân trốn sang Tầu dấn thân vào cuộc đời cách mệnh.

    Đôi Bạn cũng có thể coi là cuốn tiểu thuyết luận đề, một tác phẩm cách mạng dấn thân với hình ảnh hiên ngang hào hùng của những chàng thanh niên yêu nước như Thái, Tạo . . . thoát ly gia đình để bước vào cuộc đời gió bụi làm cách mạng, và hình ảnh của một chàng yêu nước lãng mạn như Dũng. Đôi Bạn là một trong những truyện tình lãng mạn tuyệt diệu nhất trong văn chương Việt nam, những kẻ chỉ yêu nhau bằng ánh mắt và những lời bóng gió đẹp như thơ. (…)

    • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

      Thưa bà con,

      Tuy nhiên theo tôi, Trọng Đạt chưa đi sâu trong phân tích, như vai trò của Nhất Linh trong Tự Lực văn đoàn, đối với xã hội trong chủ trương cải tạo theo mới, cũng như về tâm lý các nhân vật trong tác phẩm của ông.

      Xin thú thực là tôi rất tâm đắc với TRƯƠNG CHÍNH, trong bài phân tích tựa đề NHÀ VĂN NHẤT LINH như sau đây.
      (Mở ngoặc đơn, biết mình tài hèn sức mọn, xin Ban Biên Tập ĐCV thể tất cho tôi trích đăng một đoạn dài bài viết này)

      [trích]
      Điều đặc biệt là Nhất Linh viết tiểu thuyết hay viết truyện ngắn đều ký thác ít nhiều tâm sự. Đó là tâm sự của một người đau khổ phải xung đột với những người thân nhất của mình để giải phóng cho cá nhân; tâm sự của một người đã nhìn thấy chế độ cũ, có nhiều chỗ chưa hợp lý, muốn hành động cho đời mình và đời kẻ khác đẹp đẽ hơn, tươi sáng hơn. Đành rằng đó là tâm sự của nhiều nhà văn khác trong Tự Lực Văn Đoàn, nhưng ở ông, tâm sự ấy sâu sắc, thành thực hơn. Chưa bàn đến con đường ông theo đuổi để thực hiện lý tưởng đó ra sao, nhưng nội điều đó đã cho thấy tính chất tiến bộ rõ rệt, phù hợp với thanh niên trí thức tiểu tư sản sống khoảng các năm 1934-1940. Quan niệm giải phóng cá nhân, giải phóng phụ nữ khỏi vòng lễ giáo phong kiến, dứt khoát sống theo đời mới, ông đã bày tỏ trong hai cuốn Đoạn Tuyệt và Lạnh Lùng. Trong Đoạn Tuyệt, không những ông làm cho người đọc có cảm tình với Loan, người con gái cương quyết sống đoạn tuyệt với cái cũ, ông còn bố trí cho Loan giết chồng để có dịp đưa Loan ra tòa và chánh án có cơ hội thay thế ông nói lên ý kiến riêng của ông. Sang Lạnh Lùng ông để cho sự việc nói nhiều hơn. Cuối truyện chưa thấy Nhung ngã ngũ ra sao, nhưng mối tình vụng trộm giữa Nhung và Nghĩa cùng hình ảnh tấm biển“Tiết hạnh khả phong”đã làm mọi người thấy nền đạo đức luân lý cũ đã trói buộc con người, khiến họ trở thành giả dối, cần phải phá bỏ.

      Đó là những chủ đề Nhất Linh đã trình bày rành mạch trong tiểu thuyết của ông, còn có một chủ đề khác, tuy ông không đưa ra làm đề tài chính, nhưng đã ám ảnh ông nhiều, tức việc cải tạo xã hội, việc giải quyết mâu thuẫn giữa người giàu và nghèo trong xã hội, giữa giai cấp thống trị và bất trị. Dũng trong Đoạn Tuyệt, Dũng trong Thế rồi một buổi chiều, rồi Dũng trong Đôi bạn không phải chỉ là những nhân vật đóng một vai trò nào đó trong cuộc tình duyên lãng mạn, mà còn là những người theo đuổi một lý tưởng, hoạt động cho một tổ chức cách mạng bí mật. Trong Đôi Bạn, ngoài Dũng, ông còn sáng tạo một số nhân vật khác cũng hoạt động cách mạng như Tạo, Thái, Cận … Người ta có thể nghi rằng tổ chức cách mạng ông muốn ám chỉ đây là Việt Nam Quốc Dân Đảng đã hoạt động thật sự trong thời kỳ 1929-1930. Cuối cùng, Dũng và Trúc bỏ nhà trốn lên Lạng Sơn để sang Tàu, sang Nga. Vì nhiều lý do ông không tiện nói rõ chủ trương của họ như thế nào, nhưng ở đây người ta đã gặp những con người có chí khí, có tâm hồn, biết thắc mắc về chế độ xã hội hiện tại và hành động hòng thay đổi chế độ đó.

      Đi sâu hơn, qua các nhân vật của ông, ông có những ý kiến rõ ràng về xã hội. Dũng sinh trưởng trong một gia đình phong kiến, giàu có nhưng chàng lại đau khổ cho cảnh giàu sang không chính đáng của mình:“Tôi chỉ thấy sự giàu sang của tôi, của cả nhà tôi như là một cái nhục.” Chàng nhìn thấy mọi người trong nhà, trong họ đều sống bám vào cá nhân ông Tuần và cho thế là một sự tự nhiên, một cái phúc. Chàng nhận thấy không có một người nào làm một việc gì, một nghề gì, mà đều sống phong lưu, sang trọng, chàng đã thấy cảnh ngồi mát ăn bát vàng của giai cấp địa chủ phong kiến trong xã hội phong kiến thời Pháp thuộc. Tuy không mô tả rõ sự bóc lột của bọn địa chủ, nhưng trong một truyện vừa, Hai Vẻ Đẹp, Nhất Linh cũng đã nói được những điều đáng nói. Doãn, nhân vật chính, con nuôi bà Thượng, được nuôi cho ăn học, trở thành họa sĩ. Chàng thấy tiền ăn học của mình trong bao năm chỉ là tiền của những người nhà quê đói khổ ngồi kia hay ở nơi khác, chỗ cha nuôi chàng làm quan. Trước kia, chàng cũng biết thế nhưng không để tâm nghĩ đến, nhất là không lúc nào chàng cảm thấy sự xấu xa của điều đó mãnh liệt, sâu xa bằng lúc này. Nhìn các cô em gái của chàng Doãn nghĩ: “Giá mà họ (những người nhà quê) biết rằng ba cô em mình được sang, đẹp, và sống nhàn rỗi là nhờ ở số tiền lãi bao nhiêu năm súc tích lại! ” Như thế đủ thấy rằng cách đây 50 năm về trước, Nhất Linh đã hé nhìn thấy những điều mà có người thuộc giai cấp tiểu tư sản mãi về sau mới chịu công nhận. Trong truyện còn thể hiện quan niệm của ông về nghệ thuật. Đó là quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh, ông đã diễn tả tâm sự của mình qua tâm sự của Doãn.

      Chính vì có một ý nghĩ về xã hội vậy nên các nhân vật chính của ông đều là những người hoạt động để làm cho những người nghèo khổ cũng được như mình. So sánh với những nhân vật của các nhà văn khác, kể cả những nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn, chỉ biết nghĩ đến mình và người yêu của mình, thấy họ đáng mến biết mấy. Nhưng cái nhìn của Nhất Linh là cái nhìn của người trong giai cấp tiểu tư sản thành thị, do đó ông không đánh giá đúng lực lượng quần chúng đông đảo. Ông chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của người nông dân, cho rằng họ sống như cây cỏ bị áp bức, không biết khổ nhục, nên không oán trách ai và không hy vọng thoát ra khỏi cảnh tối tăm ngàn đời của họ. Sự thực không phải không có như thế. Những người nông dân như Hai Lẫm trong Đôi Bạn và những tá điền đưa vịt biếu địa chủ bị cự tuyệt không nhận đâm tủi thân, như trong Hai Vẻ Đẹp, cũng nhiều. Nhưng lại có nhiều nông dân khác như chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, anh Pha trong Bước Đường Cùng của Nguyễn Công Hoan. Cuộc đấu tranh giữa nông dân và địa chủ trong xã hội ta ngày trước, thực tế là một cuộc đấu tranh âm thầm, dai dẳng, không phải lúc nào nông dân cũng thắng, nhưng cũng không phải lúc nào họ cũng nhẫn nhục đầu hàng. Nhất Linh chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề.
      Về nghệ thuật, trong Tự Lực Văn Đoàn, phải công nhận Nhất Linh là cây bút vững vàng nhất. Cách bố trí truyện, sáng tạo nhân vật, sử dụng cảnh vật xung quanh để làm nổi bật tâm lý nhân vật, các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của ông. Có một điều khác là mặc dù, tiểu thuyết của ông cũng nói đến ái tình, nhưng thứ ái tình ông tả là thứ ái tình kín đáo, tế nhị, không diễn đạt bằng lời, mà bằng cử chỉ, dáng điệu nhiều hơn. Có nói thì chỉ có thể hiểu được với nhau thôi. Thật khác xa thứ ái tình sỗ sàng hay thứ ái tình văn chương của những nhà văn lãng mạn khác.

      Đặc điểm này, ông đã có từ những tác phẩm đầu tiên và ông giữ được nguyên vẹn cho đến những tác phẩm cuối. Lê Nương [Nho Phong] cách xa Loan [Đôi Bạn] và Thu [Bướm Trắng] cả một thế hệ, nhưng ở Lê Nương, người đọc đã thấy được ít nhiều tính chất của Loan và Thu sau này. Ngay với một đề tài như Lạnh Lùng, trong đó ông diễn tả một cuộc tình duyên vụng trộm, táo bạo, xen lẫn cả nhục dục của một người đàn bà góa trẻ, ngòi bút của ông vẫn không sỗ sàng.

      Hơn nữa, lối hành văn của ông là một lối hành văn thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời. Ông không gọt đẽo, trau chuốt câu văn của mình như Khái Hưng, nhưng tự nó, nó có nhịp điệu, tự nó du dương vì ý bao hàm bên trong là một ý thơ. Bài Nhặt Lá Bàng ở đầu cuốn Đôi Bạn là cả một bài thơ, và cuốn Đôi Bạn cũng là một bài thơ về cái thủa ban đầu lưu luyến ấy.

      Cho nên, đọc xong một tác phẩm của ông, ít nhất người ta cũng còn giữ lại được một đôi cảnh, một đôi lời nói, một đôi dáng điệu của nhân vật, không bao giờ thể quên. Đó là điều làm cho một cuốn tiểu thuyết được lâu dài.
      [hết trích]

      • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

        Trở lại với Nguyễn Văn Lục (NVL) ở bài viết trên, tôi xin lật mặt nạ sự bất lương đến trâng tráo, khi NVL tráo trở nhận xét:
        “Làm chính trị thì thất bại, NTT đành gửi gấm tâm sự vào trong các tiểu thuyết của ông. Hình như đó mới là “thế giới thực” của ông là nơi ông muốn gửi những ước vọng chính trị của mình. Đến có thể nói là ông là nhà văn”duy nhất” đem chính trị, hoạt động chính trị vào trong tiểu thuyết.” (sic)

        Rồi NVL đưa những dẫn chứng về các tiểu thuyết Nhất Linh sáng tác sau khi di cư vào Nam, bỏ qua các tiểu thuyết luận đề ngày cũ tôi đã trình bày dẫn chứng bên trên. Phải nói NVL (cùng một số người khác đã) không thấy ra, hay đã cố tình giả mù sa mưa, không chịu công nhận sự NHẤT QUÁN trong tiểu thuyết lớn nhỏ của Nhất Linh. Đó chính là một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt sự nghiệp văn chương lẫn chính trị của ông.

        Chưa đã nư, NVL tiếp tục múa gậy vườn hoang, qua lập luận thật bỉ ổi dưới đây, để cố tình hạ bệ Nhất Linh:

        “Tuy nhiên, vì là tiểu thuyết nên không phải cuộc đời thực với nhiều thực tại đến bẽ bàng đến chịu nhục như tại Hội Nghị Đà Lạt, hay những cảnh chạy trốn sang Tàu thiếu thốn đủ thứ.

        Cho nên truyện chính trị trong tiểu thuyết đều bàng bạc, mơ hồ, lãng mạn. Đều đẹp. Đều lý tưởng. Đều không thực. Nó gần như thể là thứ chính trị viễn mơ của ông.

        Cũng vì thế mà Võ Phiến không nắm được rõ ràng những mục tiêu chính trị của ông.

        Vì thế, ngay cả lúc ông tuyên bố thôi làm chính trị thì các nhân vật trong tiểu thuyết của ông vẫn tiếp tục làm chính trị trong truyện!!” (sic)

        Khốn nạn nhất khi NVL hạ độc thủ bằng những thủ đoạn hèn hạ, bôi bẩn lung tung Nhất Linh, để nhận chìm ông vào bùn đen:

        [trích]

        Dũng trong Đoạn tuyệt, rồi tiếp theo Đôi Bạn, Thế rồi một buổi chiều đều có những nhân vật làm chính trị -một thứ làm chính trị cách mạng, lý tưởng- với những Thái, Trúc, Tạo đều giống nhau ở chỗ bỏ nhà ra đi cả. Ông Tú trong Người quay tơ.. cũng thế. NHỮNG RA ĐI LÀM GÌ THÌ KHÔNG AI BIẾT THỰC SỰ HỌ ĐÃ LÀM GÌ ? (lmc nhấn mạnh bằng viết hoa)

        Nguyễn Tường Tam theo Trương Bảo Sơn “có một thói xấu, được gọi là xấu lắm là ông ít sống với gia đình .. Người không ưa bảo là ông bỏ bê gia đình, có khi ba bốn năm mới về một lần…”

        Sau này, trong truyện Giòng Sông Thanh Thủy thì có khác. Các nhân vật truyện mỗi người chọn lựa một thái độ chính trị. Mà cái chính là hoặc theo đảng phái hay theo Việt Minh. Chính trị ở đây mang đầy đủ ý nghĩa của nó là có âm mưu thủ đoạn, có thanh toán, có chém giết kẻ thù như Tường, như Thanh, như Ngọc, như Tứ, như Nghệ ..

        Giòng Sông Thanh Thủy phải chăng là một thứ duyệt lại và phê phán về những sinh hoạt chính trị đã xảy ra trong bối cảnh chính trị VN và bên Tàu thập niên 1940-1954.

        Phải chăng những nhân vật truyện này thể hiện đúng mức quan điểm làm chính trị của ông? Và người ta có cảm tưởng chính những nhân vật truyện này cuối cùng cũng rủ Nhất Linh, Nguyễn Tường Tam cùng đi làm chính trị!!!

        Nghĩa là có một điều gì đó giông giống như một mẫu số chung giữa nhân vật truyện và con người thật của Nhất Linh đời thường. “Họ” có những bận tâm, những ao ước giống nhau. “Họ” mong muốn làm một điều gì ra khỏi cuộc sống tầm thường. “Họ” đều bỏ nhà ra đi biền biệt bỏ vợ, bỏ con cho cái ước vọng thầm kín đó.

        Trên thực tế, làm chính trị đối với Nguyễn Tường Tam khởi đầu là phải lập ra một đảng như bàn đạp cho những hoạt động chính trị của ông. Ông lập ra Dân Chính Đảng rồi sau sát nhập vào Quốc Dân Đảng. Nhưng vừa ló ra lập Đảng chống thực dân Pháp, rồi sợ Pháp lùng bắt, ông trốn sang Tầu.

        LÀM CHÍNH TRỊ NHƯ NGUYỄN TƯỜNG TAM CHỈ THẤY ÔNG “BÔN BA HẢI NGOẠI”, VẮNG MẶT NHỮNG LÚC CẦN CÓ MẶT.
        [hết trích]

        Từ đó (và dựa vào các bài khác trong quá khứ) tôi có cảm nghĩ, NVL là một tín hữu kitô giáo cực đoan, vì thù ghét Nhất Linh và các đảng phái chính trị, các quân nhân cao cấp làm đảo chính nhằm lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Diệm-Nhu, cũng như các tu sĩ Phật giáo đã tích cực tham dự vào đó, hay bất cứ ai có dính dáng đến nó. Đó là động lực chính khiến càng ngày NVL càng ra sức đánh phá thật kiên trì hàng ngũ những người quốc gia không cùng chính kiến với mình, bằng như bài viết dưới dạng khảo cứu, gửi đăng lung tung, nhất là trên Đàn Chim Việt Canada.

        Chiếu theo mạch văn toàn bài ta thấy rõ, NVL không hề đá động gì đến các nhà cách mạng VN chống Pháp có “đẻ” ra chủ thuyết đàng hoàng, như Lý Đông A của Duy Dân, Trương Tử Anh (1914-1946) của Đại Việt vởi chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn … (Cũng có khi họ đã “rất may” chết sớm, nên không có cơ hội tham gia đảo chánh chính quyền ông Diệm)
        Nghĩa là theo NVL trước tiên phải là một lý thuyết gia đại tài, phải lập thuyết, rồi mới ra đảng hành động. Chính vì thế mà NVL tỏ ra đặc biệt ưa thích trào Diệm Nhu, với thuyết Cần Lao Nhân Vị do ông cố vấn Nhu mang nặng đẻ đau, làm căn bản cho đảng Cần Lao, hợp lực bằng các tổ chức “vệ tinh”, như Phong trào Cách mạng Quốc gia, cùng các tổ chức dân sự khác (Thanh Niên Thanh Nữ Cộng hòa, Phụ Nữ Liên Đới …) tụ tập quanh đại lãnh tụ Ngô Đình Diệm, một con người cực kỳ đạo đức, thanh liêm, trong sạch, thương nước yêu dân vô bờ bến (từng “bao năm lê gót nơi quê người, cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do, người cương quyết chống Cộng, bài phong kiến bóc lột, thực dân đang rắc gieo tàn phá” quê cha đất tổ):

        NVL đã dựa vào nhận định lẻ tẻ của một số người, để cố tình bóp cho méo mó hình hài con người chính trị Nhất Linh:

        [trích]

        Luật sư Trần Thanh Hiệp nhận xét:

        “Còn Nguyễn Tường Tam? Hành trình của con người “làm cách mạng” này không sáng tỏ như hành trình của Nhất Linh. Chẳng những ngoài xã hội mà cả trong gia đình ông, các bạn bè ông, văn hữu của Nguyễn Tường Tam cũng không ai biết đích xác về những hoạt động chính trị của ông”

        Không ai biết đích xác về những hoạt động chính trị của ông nó như thế nào? Đường lối hoạt động ra sao? Có những lời tuyên bố, những phát biểu liên quan đến tình thế chính trị, đến thời cuộc ra sao? Hoạt động đảng phái cụ thể như thế nào? Đạt được những thành quả nào?

        Ai có thể trong nhóm người đảng phái của NTT còn sót lại cho thấy rõ được các chủ trương, đường lối kế hoạch bằng những lời tuyên bố rõ ràng của NTT? Ông lập Đảng, lập Hội, rồi bôn ba nhiều năm bên Tàu, tham gia vào đảo chánh rồi trốn vào tòa đại sứ Trung Hoa. Nhưng kết quả ra sao không ai biết rõ ràng.

        Võ Phiến cũng có đưa ra nhận xét như sau:

        “Nhất Linh có làm chính trị, làm một lãnh tụ chính trị, nhưng suốt đời chưa thấy ông hệ thống hóa tư tưởng chính trị của mình để đưa ra một chủ thuyết nào“

        Nhật Thịnh chỉ đưa nhận xét vắn vỏi sau đây, nhưng tưởng cũng đã đủ:
        “Ông hoạt động chính trị nhưng lập trường vẫn không “rõ rệt”
        [hết trích]

        WIKIPEDIA:
        1/
        LÝ ĐÔNG A tên thật là Nguyễn Hữu Thanh, quê ở Hà Nam, là một nhà triết học, học giả và nhà cách mạng Việt Nam. Ông quê ở Hà Nam. Ông được cho là tác giả Việt sử thông luận và là một nhân vật có tiểu sử mơ hồ, còn nhiều tranh cãi.

        Nguyễn Hữu Thanh sinh năm 1920 hoặc 1921 tại làng Yên Ðổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông tốt nghiệp sơ học yếu lược Pháp và học chữ Nho với các thầy đồ, nhà sư có học trong vùng. Cha ông là ông Nguyễn Chi Phương. Một số tài liệu trên internet nói từ nhỏ ông đã là một thần đồng, biết chữ vào năm ba tuổi.

        Trong giai đoạn 1936, Nguyễn Hữu Thanh, khi đó 15 tuổi, là người phục vụ cho Phan Bội Châu khi ông bị chính quyền thực dân Pháp quản thúc ở Huế. Sau này, ông vào tu ở chùa Yên Tử, bắt đầu xây dựng học thuyết duy dân và lấy tên hiệu là Lý Đông A, với ý nghĩa biểu tượng thời đại phụ hưng dân tộc như thời triều Lý, triều Trần (Đông A ghép lại là Trần). Ông tiếp xúc thường xuyên với các nhà cách mạng trong tổ chức Việt Nam Quang phục hội của Phan Bội Châu.

        Năm 1940, Lý Đông A làm ủy viên chính trị cho Phục quốc quân, cánh quân sự của Việt Nam Quang phục hội. Ông cùng với Ðoàn Kiểm Ðiểm và Trần Trung Lập chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở Lạng Sơn. Khởi nghĩa thất bại, Lý Đông A chạy thoát sang Trung Quốc. Ở Trung Quốc, Lý Ðông A tiếp tục liên lạc với nhà cách mạng Việt Nam thuộc nhiều phe phái, nhiều quan điểm chính trị khác nhau, bao gồm Nguyễn Hải Thần, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Tường Tam, Hồ Chí Minh…

        Trong thời gian này, Lý Đông A cũng thường lui tới các thư viện ở Liễu Châu, Trung Quốc. Ông được cho là đã viết hơn 30 tác phẩm. Ngày 1 tháng 1 năm 1943, Lý Ðông A thành lập và làm tổng thư ký Đảng Đại Việt duy dân đấu tranh chống Pháp và chống chính quyền Việt Minh tại Việt Nam. Sau hai trận Nga My (1945) và Hòa Bình (1946) thất bại, Lý Ðông A tuyên bố giải tán Đảng Đại Việt duy dân và biệt tích. Có tài liệu nói ông đã chết, nhưng cũng không có bằng chứng xác thực nào về Lý Đông A sau năm 1946.

        Lý Ðông A coi con người là căn bản trong triết lý chủ nghĩa duy dân của ông. Theo đó, ba thành phần biện chứng tạo nên quan điểm thống nhất, đại đồng, chân xác về con người là vũ trụ (duy nhiên, vô nguyên), nhân loại (duy nhân, nhất nguyên) và dân tộc (duy dân, đa nguyên tương đối).

        Tác phẩm Việt sử thông luận được cho là của ông, giải thích lịch sử Việt Nam theo cái nhìn dịch học, nặng về dị đoan.

        2/
        TRƯƠNG TỬ ANH tên thật là Trương Kháng, sinh năm 1914 tại xã Hòa Phong, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Ông nội là Trương Chính Đường, người sáng lập Hội Văn Phố Phú Yên và từng tham gia Phong trào Cần Vương. Thân phụ là ông Trương Bội Hoàng; thân mẫu là bà Nguyễn Thị Miêng. Ông là con đầu trong một gia đình có 10 người con, vì vậy, về sau khi ông lấy bí danh là Phương, ông còn được gọi là Anh Cả hay Anh Cả Phương.

        Năm 1934, ông ra Hà Nội theo học Luật khoa Viện Đại học Đông Dương. Là một người có tinh thần dân tộc, trong thời gian học tập, ông chú ý nghiên cứu nhiều về các triết thuyết, các chủ nghĩa chính trị đang thịnh hành trên thế giới thời bấy giờ. Trong các tiểu luận viết từ năm 1935, ông từng viết: “Những triết thuyết, những chủ nghĩa chính trị đương thời đều không thích hợp với dân tộc Việt Nam và đều có sai lầm”. Từ đó, ông manh nha việc xây dựng một chủ thuyết của riêng nhằm định hướng cho những hoạt động chính trị của mình về sau này.

        Ngày 10 tháng 12 năm 1938, Trương Tử Anh công bố một chủ thuyết tư tưởng về triết học và chính trị, gọi là Chủ nghĩa Dân tộc sinh tồn. Chủ thuyết này phần nào chịu ảnh hưởng của Thuyết ưu sinh, về sau được các đồng chí của ông phát triển thêm, khái quát thành những điểm chính sau:

        Con người gồm những bản năng cơ bản là Vị kỷ, Tình dục và Xã hội
        Để sinh tồn thì các bản năng này phải mạnh hơn những cá thể khác.
        Để bản năng mạnh mẽ cần có Sức mạnh, Biến cải và Hợp quần.
        [hết trích]

  3. LÃO NGOAN ĐỒNG says:

    Thưa bà con,

    1/
    Trong khoảng 5-10 năm qua, nhất là những năm gần đây nhất, Nguyễn Văn Lục (NVL) nổi lên như một nhà nghiên cứu văn học và sử (gọi tóm gọn lại văn học sử = VHS) viết nhanh, khoẻ với nhiều phát hiện bất ngờ, nhưng cũng không kém phần đáng ngờ, cần được thẩm định lại kỹ càng, nếu không sẽ bé cái nhầm ! Vì thế gọi là “hiện tượng NVL” ở hải ngoại cũng không ngoa chút nào cả.

    Với tôi chuyện này không có gì là lạ, bởi tôi đã chứng kiến khá nhiều hiện tượng như rứa. Trước đó đã có hiện tượng sử gia Vũ Ngự Chiêu, vốn là nhà văn quân đội miền Nam Nguyên Vũ. Sau khi di tản qua Mỹ ông đã cắp cặp đi học và hình như lấy được mảnh bằng tiến sĩ Sử học ở Mỹ, rồi nghiên cứu viết bài viết sách tùm lum. Tôi đã thích thú theo dõi và mua một số sách của ông để nghiên cứu học hỏi thêm. Chẳng hạn sách viết về Tết Mậu Thân 1968 dưới bút hiệu Chính Đạo; rồi Giặc Cờ Đỏ …

    Internet:
    Chính Đạo là một trong hai bút danh của Vũ Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975. Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đã có hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.

    Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có Đời Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.

    Về nghiên cứu sử học, ông đã in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo đúng yêu sách bác học.

    Ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa đề Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đình Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.
    [hết trích]

    Trước 1975 ở trong Nam thời VNCH đã có hiện tượng Phạm Công Thiện, nổi lên như một triết gia, một học giả Phật giáo …; một Bùi Giáng xuất khẩu thành chương, mà thơ ra từng chùm từng chùm, theo như Võ Phiến nhận định trong “Tổng quan 20 Năm Văn học miền Nam” trước 1975, hay một Nguyễn Đức Sơn với thơ sặc mùi … sex !

    Võ Phiến dẫn chứng nơi trg 292 một số bài thơ quái dị của Nguyễn Đức Sơn (NĐS), đại khái
    (…) ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người / em chưa đái mà hồn anh đã ướt”; hay (…) hai đứa nhìn nhau bảo phải êm ru / em sắp đái và hồn anh chết cứng” !

    Sau 1975 theo lời kể của Tiêu Dao Bảo Cự trong Nửa Đời Nhìn Lại, NĐS với bút hiệu Sao Trên Rừng rồi Mây Đầu Non, đã mang vợ và hai con trai lên sống trong rừng núi ở Bảo Lộc, sinh nhai bằng nghề mót củi đem ra chợ bán. Thi sĩ nhất quyết sống kiểu người rừng, không cho con đến trường học.

    Trên tạp chí Thế Kỷ 21 số tháng 2/1995 có cho đăng hai bài thơ sáng tác năm 1993 của ông là:

    VÔ ĐỀ: Đêm xưa núp dưới đại hồng chung / Hai đứa chơi nhau sướng phát khùng / Khí chảy thấm nhuần thân hữu hạn / Tình ra tan biến trí vô cùng / Cần gì em bấu không nghi hoặc / Rắn rết vẫn bò quanh cổ tự / Trăng mờ đồi nhỏ bóng ung dung.

    NHU CẦU BỨC XÚC CỦA THỜI ĐẠI: Có những ngày/ Sao ta không muốn làm gì cả/ Gò mả/ Hết muốn chào/ Gái nhảy ào ào/ Hết muốn tránh/ Trời có đánh/ Cũng hết muốn né/ Này cóc núi lang thang/ Lặng lẽ trở về hang/ Dạy ta ngáp

    2/
    Cá nhân tôi làm quen với các bài gọi là khảo cứu của NVL trên web Đàn Chim Việt Canada (do Ban Biên Tập ở Bắc Mỹ dưới tay xếp Lã Mạnh Hùng) cách nay khoảng vài năm có dư. Ban đầu thú thật tôi thấy thích thú ghê lắm, bởi hợp với thể tạng khoái nghiên cứu chơi chơi trong tôi lâu nay .

    Xin tạm ngưng, để đi ra ngoài giải khuây trong chốt lát, đồng thời lấy hứng viết tiếp nhé :-) !

    (còn tiếp)

    • LÃO NGOAN ĐỒNG says:

      Phải thú nhận là những bài viết thuở ban đầu giúp tôi học hỏi được nhiều điều hay, như về sinh hoạt văn học nghệ thuật thời VNCH, cuộc di cư 54 …
      Nhưng khi ông Lục bắt đầu đề cập đến những điểm nhậy cảm, điển hình như tranh đấu của Phật giáo thời ông Diệm thì ông ló mòi thiên vị ra mặt. Ông dùng đủ mọi thủ đoạn bôi nhọ sự tự thiêu của thương toạ Thích Quảng Đức, khiến tôi bắt đầu nghi ngờ sự trung thực của ông.
      Lâu dần tôi phát hiện ra những tờ bạc giả trong trò chơi chữ nghĩa của ông Lục.

      Rõ nét nhất là vụ xì-căng-đan ông bôi nhọ Nhất Linh qua việc đặt giả thuyết giữa Nhất Linh với nhà văn nữ Nguyễn Thị Vinh có thể có tình ý riêng với nhau khi Nhất Linh và gia đình bà Nguyễn Thị Vinh đang sống lưu vong bên Tàu.
      Con gái của nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh là bà Trương Kim Anh viết bài cảnh cáo, nhưng ông Lục cãi chày cái cối, không nhận tội.
      Từ đó tôi không còn tin vào những gì ông Lục viết nữa. Tôi thường chọn thái độ, hoặc ngó lơ không thèm đọc, hay đọc chơi cho biết để xem thiên hạ nghĩ sao ? Chỉ có lần này ông Lục đã “dọn ổ” khá kỹ và dường như move qua đây, vừa tìm kiếm sân chơi mới, độc giả mới, (cũng hình như ông biết tôi chỉ còn sinh hoạt nơi đây thôi). Tôi vẫn lờ đi, nhưng đến một lúc giọt nước làm tràn ly nước đầy, tôi đã phản ứng lại.

      Tài liệu từ Internet:
      Ông tên thật là Trương Cam Bỉnh.
      Sinh ngày 02 tháng 03 năm 1916, tại Hà Nội (năm Kỷ Mão).
      Tạ thế lúc 2 giờ sáng, ngày 23 tháng 05 năm 2010 tại Montreal – Canada , hưởng thọ 96 tuổi.

      Hoạt động cách mạng trong nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng dưới danh xưng Trương Bảo Sơn và văn hóa với bút hiệu Bảo Sơn. Ông còn mấy bút hiệu nữa như Cẩm Bình, Ngọc San, Trường Sơn nhưng ít dùng.

      Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, ông Bảo Sơn bắt đầu bằng nghề dạy học, rồi viết văn, làm báo.
      Thân phụ ông là cụ Trương Cam Nha, thân mẫu là cụ Đặng Thị Tuyết. Ông có người chị cả là bà Trương Thị Vinh, em trai là ông Trương Cam Lai, cả hai đã quy tiên. Người em trai út là Trương Cam Vĩnh, hiện sống với gia đình tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.

      Trước 1945 ông cùng người anh họ Đặng Đình Liêm chung nhau mở một hiệu tạp hóa khá khang trang ở Hàng Bông, Hà Nội, đặt tên hiệu là L.B., viết tắt của Liêm và Bỉnh. Cả hai gia đình chung sống ở tầng gác trên của cửa hàng này.

      Sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền, ông và một số đồng chí trong nhóm VNQDĐ phải chạy qua Hồng Kông ẩn trốn trên núi Happy Valley. Năm 1948, người vợ lúc bấy giờ của ông là bà Nguyễn Thị Vinh (sau này là nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh) mới được phép bế con thơ là Trương Kim Anh 3 tuổi, từ Hà Nội lần mò sang Hồng Kông chung sống với ông giữa cảnh núi rừng, thung lũng nên thơ… Cô bé Kim Anh lúc đó thật là may mắn được sống giữa những người có tâm hồn, có lý tưởng và chứa chan tình yêu nước…

      Vào khoảng 1952, ông lại mang vợ con về Hà Nội ở chung với một đại gia đình gồm có mẹ, gia đình các em và gia đình hai ông chú ruột là cụ Tá Chi Trương Cam Khải và cụ Trương Cam Chuật ở số 34 Hàng Đẫy. Nhưng ông cũng chỉ ở đây được một thời gian ngắn.

      Năm 1953 ông lại cùng các thành viên trong VNQDĐ được lệnh đem gia đình di chuyển vào Nam để bảo toàn an ninh. Năm 1954, trong cuộc di cư ồ ạt để chia đôi đất nước, ông bà lại mở rộng vòng tay đón đại gia đình từ Bắc vào Nam, trong một căn nhà khiêm tốn tại Phú Nhuận, Sài Gòn.

      Cuộc hôn nhân thứ nhất của ông với nhà văn Nguyễn Thị Vinh sinh được người con gái duy nhất là Trương Kim Anh. Con rể là Luật sư kiêm nhà thơ Dương Kiền. Có 4 cháu ngoại toàn con trai và đã có 3 cháu dâu với 7 chắt. Bốn cháu ngoại gồm có: Kỹ sư Dương Kim với vợ và 2 con, Bác sĩ Dương Khoa với vợ và 2 con, Kỹ sư Dương Khanh với vợ và 3 con và Nha sĩ Dương Kha.

      Cuộc hôn nhân thứ hai của ông với bà Nguyễn Nữ Nghi, không có con. Hiện cả hai ông bà cùng sống hạnh phúc bên nhau trong “Viện Lão Học thuộc Trường Đại Học Montréal” (Institut Universitaire De Gériatrie De Montréal) ở Canada.
      [hết trích]

      Bắn một mũi tên ông Lục đã cố tình giết chết một loạt đối thủ của chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, cũng như nhân đó đánh bóng tên tuổi mình lên. Nhưng thiên bất dung nhan, âm mưu đen tối bị lộ tảy ngay từ phút đầu tiên như đã thưa. Nhưng nọc độc ông Lục reo rắc cũng ít ra kiếm được một vài mảnh đất cắm dùi, nhất là ở nơi một số nhỏ tín đồ Kitô thuần thành cực đoan và những người còn hoài vọng nhà Ngô Đình, ghét thậm tệ giáo hội Phật giáo Ấn Quang, cụ thể là thượng toạ Trí Quang, một tu sĩ còn nặng lòng trần, với tham vọng che lấp mất lương tri !

  4. Minh Đức says:

    Trích: Trong khi đó Việt Minh lập các chiến khu và các đội võ trang tuyên truyền đi sâu vào các làng mạc để tuyên truyền Cách mạng.

    Vào thời 1945 thì quả thật Việt Minh có ưu thế hơn các đảng phái quốc gia về cách hành động vì họ được huấn luyện theo cách của Liên Xô. Cách thức tuyên truyền, cách tổ chức chính quyền, tổ chức cơ quan mật vụ được ông Hồ học được ở Liên Xô rồi đem về nước áp dụng. Chẳng hạn, cách tuyên truyền lôi kéo người nhắm vào các nông dân nghèo, dùng các luận điệu kích động căm thù, đó là cách mà CS Nga, CS Tàu đã áp dụng và thành công ở nước họ, đem về VN thì cũng có tác dụng tương tự. Việt Minh cũng lập ngay cơ quan công an, an ninh mật vụ nắm quyền rất lớn giống như là Lenin đã lập ngay cơ quan mật vụ Cheka để đàn áp, tiêu diệt các lực lượng không theo phe Bôn Sê Vích. Công an Việt Minh cũng thủ tiêu biết bao nhiêu người không chịu theo Việt Minh. Nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ thì các nhà lãnh đạo CSVN ngơ ngác, không biết đi đường nào, phải quay sang học Trung Quốc.

    • Ngàn Khơi says:

      HÌNH NHƯ

      Hình như người VN ít có tinh thần tự chủ, tự lập, mà thường chỉ hay bắt chước và làm theo người khác. Đây chẳng biết chỉ do hoàn cảnh đặc thù, nhất thời, hay do bản chất của dân tộc tính tạo nên. Chỉ khi nào người Việt tự thấy ra điều này và có ý thức muốn cương quyết khắc phục một cách hiệu quả và tích cực thì mới thật sự có triển vọng khá lên được.

      Non Ngàn

  5. Non Ngàn says:

    KHOA HỌC CHÍNH TRỊ VÀ KHOA HỌC LỊCH SỬ

    Mục đích của chính trị là việc nắm quyền hành và thực thi quyền hành. Lịch sử là mọi cái xảy ra và còn lại trong thực tế xã hội qua những tác động, ảnh hưởng cũng như hệ lụy của chính trị. Có thể nói chính trị là bề nổi của lịch sử còn lịch sử là ý nghĩa tiềm ẩn của chính trị. Có nghĩa chính trị và lịch sử là toàn bộ hiện thực, tức mọi cái đang, đã hoặc sẽ xảy ra trong đời sống xã hội, còn khoa học chính trị và khoa học lịch sử là việc nghiên cứu khoa học khách quan, đúng đắn, đầy đủ về những gì đã xảy ra đó về mặt chính trị cũng như về mặt lịch sử. Điều này cũng có nghĩa chính trị và lịch sử nói chung là tương đối giống nhau ở mọi thời, mọi nơi, bởi ý nghĩa chung của nó vẫn là con người và xã hội, tức bị ràng buộc bởi những yếu tố tâm lý con người và xã hội cơ bản giống nhau nói chung. Ở đây cũng cho thấy cái khác nhau giữa nhà sử học hay nhà viết sử so với nhà nghiên cứu lịch sử, đồng thời sự khác nhau giữa chính khách hay nhà chính trị với nhà khoa học chính trị tức người nghiên cứu khoa học về chính trị. Nguyễn Tường Tam là nhà văn tên tuổi mà đồng thời cũng là người hoạt động chính trị. Tất nhiên ông không thuần túy hoạt động chính trị độc lập mà khuynh hướng và đảng phái của ông là Quốc dân đảng. Như thế không thể đánh đồng nhà văn Nhất Linh và người hoạt động hay nhà chính trị Nguyễn Tường Tam. Bởi hoạt động trong giai đoạn nào, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam vẫn là thành phần tinh hoa của xã hội VN hay dân tộc VN trước kia, vào thời đại của ông, không thể khác yêu cầu hay khuynh hướng với ông mà phê phán hạ thấp ông. Thế nhưng, mỗi thời kỳ của một dân tộc, nhất là những thời kỳ đen tối nhất, luôn vẫn có những thành phần tinh hoa hoạt động chính trị theo nhiều cách khác nhau. Thành phần tinh hoa là thành phần có tài năng, có học thức hiểu biết, nhất là có tinh thần và lòng yêu nước. Bởi vậy kể từ khi Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh về sau, trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược VN, có bao nhiêu nhà ái quốc VN khác nhau, bao nhiêu nhà chính trị VN yêu nước khác nhau, không phải Nguyễn Tường Tam là duy nhất. Nhưng đến thời miền Nam của chính phủ ông Diệm, Nhất Linh đã có lần tham gia đảo chính nhưng bất thành. Đây chính là trường hợp khá đặc thù của nhà chính trị NTT vào đúng thời điểm và hoàn cảnh đất nước khi đó. Thật ra, kể từ 1930 về sau, chính trị ở VN đã phân thành hai tuyến chính yếu rõ rệt. Tuyến của Quốc tế cộng sản và tuyến của những người không phải là quốc tế Cộng sản. Đối với người CS, những người và những đảng phái chính trị nào không phải CS họ đều gọi chung là khuynh hướng tư sản hay đảng tư sản, còn nói theo tuyên truyền với người dân thường thì họ đều cho là phản động hay là địch. Trái lại những người không CS thì mệnh danh chung đó là những người hay những đảng phái quốc gia. Nhưng trong sự khác nhau giữa các đảng phái quốc gia và đảng CS quốc tế có một điều nổi bật, là đảng CS có sự thống nhất, đoàn kết, và mạnh hơn các đảng quốc gia về sau này. Bởi các đảng phái quốc gia thường có khuynh hướng tự do, bởi vậy mọi hệ lụy như trên là không tránh khỏi. Trong khi đó, đảng thuộc CS quốc tế là theo học thuyết quốc tế vô sản của Mác, nguyên lý thế giới vô sản đại đồng và đấu tranh giai cấp thường thu hút người bình dân nhiều hơn, nhất là kết hợp với các biện pháp tuyên truyền tô hồng chuốt lục. Đặc biệt Mác và Ăng-ghen đều là những người chủ trương bạo lực cách mạng và chuyên chính cách mạng, do vậy mọi đảng viên CS thì phải chịu kỹ luật sắt, không như những đảng phái tư sản hay quốc gia. Đó là lý do tại sao nhiều người chê bai đảng phái quốc gia thiếu đoàn kết, yếu đuối còn đảng CS thì mạnh mẽ và khắt nghiệt và kỹ luật hơn, cũng như mang tính cách hệ thống và hậu thuẫn quốc tế cộng sản nhiều hơn. Cho nên ý nghĩa nghiên cứu chính trị vả lịch sử là phải tìm về các ý nghĩa khoa học và nguồn gốc khách quan của nó. Phải nhìn thấy cái bao quát và sâu xa, ngầm chứa của nó, không thể chỉ nhìn hời hợt mọi hiện tượng nhất thời, giai đoạn bề ngoài. Ngày nay, sau khi thế giới chiến tranh lần thứ hai chấm dứt, sau khi chiến tranh ý thức hệ và cả chiến tranh lạnh chấm dứt, sau khi khối Liên xô và Đông Âu tan rã, sau khi thế giới đi vào nền hội nhập và hòa bình, tất cả các mặt mạnh, mặt yếu của mọi đảng phái đều đã hiện rõ. Có nghĩa làm chính trị không thể cá nhân mà phải có tính chất đảng phái để tạo nên ý nghĩa tập thể và sức mạnh. Nhưng chính trị đích thực phải mang ý nghĩa khoa học, ý thức nhân văn và tự do. Chính trị nếu xây dựng trên sự bạo lực, trên đấu tranh quyền lợi đều kém ý nghĩa nhân bản và thường chỉ có ý nghĩa nhất thời. Gandhi không cần bạo lực, với chính trị bất bạo động ông vẫn thắng được đế quốc Anh để mưu cầu độc lập, thống nhất cho Ấn độ. Trong khi đó bạo lực kiểu Mao Trạch Đông hay Pôn Pốt thường gây ác cảm và phản xã hội. Nên nói cho cùng lại, chính trị là ý nghĩa cao quý nếu thật sự nhằm đấu tranh cho xã hội ví sự thật và vì công lý. Ngược lại nếu chính trị chỉ cốt vì quyền lợi cá nhân hay giai cấp một cách thiển cận hoặc sai lầm, các loại chính trị đó thực chất chỉ là tầm thường hay có khi ngụy chính trị. Nhưng cuối cùng cái gì phê phán chính trị một cách đúng đắn nhất. Đó chính là lịch sử. Bởi lịch sử là cái bao quát nhất. Nó sàng lọc và đánh giá chính trị một cách khách quan nhất. Có nghĩa mọi chính trị mang ý nghĩa chính danh và vương đạo sẽ còn giá trị mãi với thời gian, cá nhân, tập thể cũng như đảng phái. Trái lại chính trị kiểu bá đạo, nhất thời, quyền lợi riêng của cá nhân hay phe nhóm, cuối cùng cũng bị lịch sử phơi bày một cách đúng mức và chính xác. Nghĩa vụ của người làm chính trị không thể là quyền lợi riêng. Nghĩa vụ của người nghiên cứu lịch sử và khoa học chính trị cũng chính là như thế. Đó cũng vì lý do ý nghía của chính trị thường có bốn đường, chính trị chân chính hay chính danh, chỉ vì quyền lợi thực tế của cộng đồng, đất nước, xã hội, hay của quốc gia, dân tộc đang đòi hỏi; chính trị mang tính lý tưởng sai lầm, chính trị xôi thịt, vì quyền lợi riêng tư; chính trị điếu đóm, tức lệ thuộc, xu thời, không có lập trường, mục đích độc lập tự chủ. Vì vậy, luận về chính trị, về lịch sử, không thể nói lung tung, phức tạp, mơ hồ, mà phải chắc lọc vào trong những ý thức đánh giá và chuẩn mực cụ thể nhất định, ít nhất cũng có thể phân loại hay căn cứ vào chính các tiêu chí hoặc các chiều hướng như đã nói trên, về phương diện cá nhân, nhóm, tập thể, cũng như các đảng phái chính trị nói chung. Đồng thời cũng phân biệt đâu là chính trị kiểu dân chủ theo cách nghị trường và chính trị kiểu cách mạng lật đổ và bạo động. Dầu sao chăng nữa, sự biến chuyển giữa các khuynh hướng này sang các khuynh hướng kia nhiều lúc cũng không thể tránh khỏi do hoàn cảnh lịch sử tất yếu chuyển biến hay thay đổi một cách khách quan.

    ĐẠI NGÀN
    (03/4/12)

Leave a Reply to Minh Đức