Ngày tàn cuộc chiến tại Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ và VN
Chiến tranh đi cùng với lịch sử nhân loại. Nhưng khi kết thúc cuộc chiến, sự đối xử của kẻ chiến thắng với người chiến bại thường khác nhau và thể hiện trình độ văn minh, văn hóa của kẻ chiến thắng. Cuộc nội chiến Nam-Bắc Việt Nam kết thúc đã 40 năm, nhiều biện pháp của người miền Bắc chiến thắng áp dụng đối với người miền Nam chiến bại đã và đang được thực hiện. So sánh các biện pháp hành xử của người Miền Bắc chiến thắng với cách hành xử của kẻ chiến thắng trong Thế chiến thứ I tại Thổ Nhĩ Kỳ cũng như trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ (U.S Civil War) sẽ giúp người Việt Nam nhận biết về trình độ văn minh, văn hóa của một thành phần dân tộc mình.
Hè 2014, khi du lịch Thổ Nhĩ Kỳ, tôi tò mò viếng thăm khu vực các nghĩa trang. Lúc đầu tôi không hiểu ở đó có gì hấp dẫn mà họ đưa du khách đến. Tôi được xe đưa tới vùng bán đảo Gallipoli có vài nghĩa trang rất “hoành tráng”. Nghĩa trang được chăm sóc đẹp đẽ và sạch. Mầu vôi còn mới. Các nghĩa trang nằm sát bờ biển. Sâu phía trong là những ngọn núi cao.
Các trận tấn công từ biển của liên quân Anh, Úc, và Tân Tây Lan đụng phải sự chống trả quyết liệt của đế quốc Ottoman Empire (sau này là nước Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ) với sự hỗ trợ của Đức. Đến khi nghe hướng dẫn viên giới thiệu các nghĩa trang này tưởng niệm và vinh danh, tôi xin nhấn mạnh: VINH DANH (IN HONOUR OF…), hàng ngàn binh sĩ Úc, Tân Tây Lan hy sinh trong khi tấn công Thổ Nhĩ Kỳ, tôi hoàn toàn sửng sốt. Tại sao người Thổ Nhĩ Kỳ lại xây những nghĩa trang “hoành tráng” như thế để tưởng niệm và VINH DANH, địch quân của họ? Từ đó tôi đi tới từng tượng đài, từng ngôi mộ, đọc từng bảng tưởng niệm.
Tuy không kéo dài như cuộc nội chiến Nam Bắc Việt Nam 1954-1975, nhưng những trận đánh giữa liên quân Anh, Úc, Tân Tây Lan và quân Thổ Nhĩ Kỳ trên giải đất Gallipoli của Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất là đẫm máu. Chỉ trong 5 tiếng đồng hồ của ngày 19-5-1915, quân Thổ thiệt hại hơn 4000 quân nhân. Tuy vậy, khi tường thuật chiến trận, lời lẽ của quân Thổ Nhĩ Kỳ rất trung dung (neutral); không thóa mạ mà trái lại tỏ ra rất kính trọng đối phương. Hình dưới đây chụp bảng tưởng niệm ghi:
VÙNG JOHNSTON’S JOLLY
“Phần phía tây của cao nguyên cao 124 mét này…chạy gần tới bờ biển. Vùng này được đặt theo tên của Trung tá George Jameson Johnston, tư lệnh lữ đoàn 2 pháo binh Úc, trực thuộc liên quân ANZACS.
Các đơn vị thuộc ANZAC đổ bộ tại Ariburnu đã tiến dễ dàng về những ngọn đồi không được phòng thủ này trong 4, 5 tiếng đồng hồ cho tới khi trung đoàn 27 Thổ Nhĩ Kỳ phản công vào lúc 8 giờ sáng ngày 25-4-1915.
………………….Trong màn giao chiến đầu tiên, phòng tuyến của quân Thổ thành lập tại vùng đất này….đã tiến tới cách giao thông hào của ANZAC chỉ khoảng từ 40 tới 70 mét…. Hai phòng tuyến giao thông hào của hai bên không thay đổi nhiều cho tới khi chiến dịch kết thúc.
Hai phòng tuyến giao thông hào không thay đổi như quí vị (du khách, N.T.Tâm) thấy giao thông hào của ANZAC ở phía trái con đường và giao thông hào của quân Thổ cách khoảng 30; 40 mét ở bên phải chỗ quí khách đang đứng bây giờ.
……….Trong cuộc tổng tấn công của quân Thổ kéo dài 4, 5 tiếng đồng hồ ngày 19-5-1915, Sư đoàn 2 của quân Thổ…..thiệt hại nặng nề do cuộc tấn công anh dũng của họ. Sư đoàn 2 đã thiệt hại 4,267 binh sĩ trong đó tử thương 1,479 và bị thương 2,788.
Trong thời gian hưu chiến ngày 24-5, hầu hết các quân nhân tử thương của Sư đoàn 2 của quân Thổ được chôn cất gần nơi họ đã ngã xuống, trên mảnh đất này, chính xác là nơi quí vị đang đứng.”
Hình dưới đây chụp tấm bia đá kỷ niệm ghi:
“Vị trí chủ chốt này, được bảo vệ mạnh mẽ bởi cả hai phía đối địch, đã chứng kiến những cuộc tấn công liên tiếp xuyên đôi bờ hẹp. Những phòng tuyến của liên quân Úc và Tân Tây Lan (ANZAC) nằm ở gần khu nghĩa trang. Phòng tuyến của Thổ Nhĩ Kỳ xuất phát từ gần tấm bia đá đen tưởng niệm ở bên phải quí khách và chạy lên tới đỉnh đồi. Một cuộc tấn công dũng cảm nhưng thất bại của quân Úc được thực hiện vào ngày 7-8-1915 khi hơn 300 quân nhân hy sinh trên khu vực ngay trước mặt quí khách.”
Dĩ nhiên những quân nhân thuộc liên quân Úc và Tân Tây Lan hy sinh thì không kịp chôn cất đàng hoàng. Nhưng khi hòa bình lập lại, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt những bia tưởng niệm tại những nơi mà các cựu thù đã hy sinh. hình dưới đây chụp tấm bia đá tưởng niệm ghi:
“Nơi đây được nghĩ là đã chôn cất 857 quân nhân thuộc lực lượng khinh kỵ (light horse) số 8 của Úc, hy sinh ngày 7-8-1915, 20 tuổi.
Những anh hùng đã ra đi.
Những linh hồn đã về phương tây.”
Ngoài vài tấm bia tưởng niệm ở những ngôi mộ nhỏ như vậy, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ còn xây một đài tưởng niệm thật “vĩ đại” để tưởng niệm chung các quân nhân Úc và Tân Tây Lan tử trận với danh tánh từng người. Dưới đây là hình chụp phần chân tượng đài ghi danh tánh 3724 quân nhân Úc và Tân Tây Lan hy sinh trong cuộc đổ bộ tại bán đảo Gallipoli.
Sau khi thăm hết các nghĩa trang tưởng niệm các quân nhân hai bên xung đột trong Thế Chiến Thứ Nhất tại bán đảo Gallipoli, Thổ Nhĩ Kỳ, tôi sửng sốt và buồn khi nghĩ tới cách Bắc quân chiến thắng đối xử với nghĩa trang của Nam Quân chiến bại tại Biên Hòa. Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa của Nam Quân đã bị hủy hoại bằng cách để hoang phế, phá biểu tượng là tác phẩm điêu khắc Thương Tiếc, phá bảng đề và cấm thăm viếng. Mãi hơn 15 năm sau, vì muốn dụ dỗ để kiếm tiền của những người chiến bại năm xưa đang sinh sống, làm ăn phát đạt tại hải ngoại, Cộng Sản mới cho phép người dân miền Nam tới thăm viếng và chăm sóc các ngôi mộ của thân nhân họ tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Nhưng các biện pháp cho tới nay vẫn còn rất nhiều hạn chế và tên gọi nghĩa trang cũng bắt buộc thay đổi. Theo hình chụp dưới đây thì nghĩa trang đã bị đổi tên thành “Nghĩa Trang Nhân Dân Bình An”; và ai muốn vào thăm viếng, chăm sóc, đều phải xin phép.
Cảnh hoang phế của Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hiện nay đã được tác giả Ngân Sơn ghi nhận qua ống kính và cảm đề mấy câu thơ sau:
Bảng lảng chiều hôm cảnh nghĩa trang
Mộ bia lớp lớp ngả nghiêng hàng
Hình xưa hoang phế cùng cây cỏ
Đài cũ điêu tàn vắng khói nhang
Ngân Sơn ( HNPĐ )
Để biết sự đối xử của Bắc Quân đối với Nghĩa trang của Nam Quân, người đọc có thể theo dõi cuốn phim dài 10 phút về nơi trước kia là “Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa” của Nam Quân được thu hình bởi một du khách Hoa Kỳ năm 1994 trong trang mạng này: (http://namrom64.blogspot.com/2013/06/video-nghia-trang-quan-oi-bien-hoa-quay.html). Tường thuật của du khách Hoa Kỳ trong đoạn phim trên được lược dịch như sau: “sau 1975, Nghĩa Trang của Nam Quân đã bị Bắc Quân phá hủy. Khu nghĩa trang bị cấm thăm viếng và gắn một tấm biển nhục mạ Nam Quân có nội dung “Nơi đây các binh sĩ Cộng Hòa bị trừng phạt vì là những tội phạm”. Tấm biển này chỉ bị gỡ bỏ vào đầu thập niên 1990 và từ đó khu nghĩa trang mới được cho phép thăm viếng. Khu nghĩa trang bị phủ bởi những bụi cây hoang rậm rạp. Bảng đề Nghĩa Trang Quân Đội đã bị phá bỏ. Mộ bia của Đài Chiến Sĩ Vô Danh đã bị phá bỏ và bị nhục mạ (desecrated)…các ngôi mộ đã bị bỏ hoang và các tấm bia bị phá hủy (defaced). Sau 1990, một số ngôi mộ đã được thân nhân sửa sang, một số đã được thân nhân di chuyển. Năm 1991 nhà chức trách cho xây một ngôi chùa bằng tiền của Người Việt Hải Ngoại, để coi như lòng nhân đạo của nhà chức trách…Vị sư trù trì ngôi chùa trao cho tôi vài nén nhang. Tôi khấn những binh sĩ đã khuất, mặc dù tôi không biết họ. Tôi cũng đã từng là quân nhân và tôi cũng thường khấn nguyện như vậy. Tất cả mọi quân nhân đều đáng được kính trọng. Tôi buồn rằng chính phủ hiện nay đã không kính trọng những quân nhân này. Tôi hy vọng một ngày kia các tử sĩ này sẽ được kính trọng.”
Buổi chiều, trở về thành phố nhỏ Gallipoli, tôi lại bàng hoàng lần nữa trước tinh thần nhân hậu của quân dân Thổ Nhĩ Kỳ khi thăm viếng chùm tượng đài tại trung tâm thành phố tưởng niệm các trận đánh hồi Đệ Nhất Thế Chiến. Trung tâm chùm tượng đài là một cụm tượng gồm nhiều tượng được giải thích theo tấm bảng tôi chụp dưới đây. Hình chụp cụm tượng đài. (nhờ ban biên tập xoay lại tấm hình thẳng đứng)
“Người Mẹ của tất cả mọi cuộc chiến tranh cũng được đề cập trong văn bản của Cha Già Dân Tộc (Ataturk, một ngôi vị cao quí nhất được Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ dành cho Mustafa Kemal). Trong cụm tượng đài này (this composition), một người mẹ Thổ Nhĩ Kỳ được dùng làm biểu tượng cho tất cả các bà mẹ. Hình ảnh này biểu tượng một người mẹ cứng cỏi (a strong mother) chịu đựng nỗi đau (pain) với lòng dũng cảm (fortitude) nhưng buồn (sad), cũng đau khổ (grief) nhưng anh hùng. Tượng đài tưởng niệm này cũng biểu tượng cho mong ước của tất cả mọi người rằng “Một Thế giới hòa bình, mọi nhà yên ấm” (Peace in the World, Peace at Home) sẽ được thực hiện như lời của Cha Già Dân Tộc để tất cả những đau khổ này sẽ không bao giờ xảy ra một lần nữa. Đây không phải là đài tưởng niệm sự thù hận (hostility), mà là đài tưởng niệm tình hữu nghị và chúng ta phải học bài học từ kinh nghiệm đó bởi vì bài học đó dạy chúng ta nhiều điều. Chúng ta phải rút ra bài học từ kinh nghiệm đó.”
Giáo sư Tankut Oktem (tháng 7/2007)
Hình dưới đây chụp tấm bảng tưởng niệm ghi chú như sau:
“Cha Già Dân Tộc ở Anafartalar
Cạnh của đài tưởng niệm bày tỏ vai trò tích cực của Mustafa Kemal trong các cuộc giao tranh ở Canakkale. Bức tượng có một binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ bế một anh hùng thương binh Úc là một hình ảnh kép (a double figure) trình bày sự kiện các binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ đã xúc động trước cái chết của địch quân. Trong cụm tượng đài tưởng niệm, ngoài một quân nhân Anh, một quân nhân Tân Tây Lan, một quân nhân Úc, và một quân nhân Ấn Độ, còn có nhiều tượng quân nhân Thổ Nhĩ Kỳ. Những hình tượng này không chỉ làm tăng ý nghĩa tổng quát của tổng thể tượng, mà còn tạo cho chúng một vị trí trong lịch sử vĩnh cửu.” Như vậy cụm tượng đài này tưởng niệm các tử sĩ của cả hai phía với người mẹ đau khổ là người mẹ chung được gọi là Người Mẹ của Chiến Tranh. Trái lại, Quân Bắc Việt đã dựng tại Quảng Nam một cụm tượng không lồ mang tên gọi “Mẹ Việt Nam Anh Hùng” nhưng nội dung lại là “mẹ của một đạo quân xâm lăng, ăn cướp.”
Sau khi thăm viếng các nghĩa trang và thành phố nhỏ Gallipoli của Thổ Nhĩ Kỳ, tôi kính phục tinh thần mã thượng của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ và cũng cảm động trước tinh thần nhân hậu của quân dân nước này…Trong ánh chiều tà, ngồi trong quán nước, nhìn ra các tượng đài la liệt bên bờ sông trước mặt, tôi chạnh nghĩ tới các “đồng bào” tôi tới từ phương Bắc xâm chiếm quê hương miền Nam yêu dấu của tôi cách nay đúng 40 năm.
Phương cách kết thúc cuộc nội chiến Nam-Bắc Hoa Kỳ cách nay đúng 150 năm cũng khiến người Việt Nam suy nghĩ về ngày 30-4-1975. Cuộc nội chiến Hoa Kỳ kéo dài chỉ có 4 năm và kết thúc với sự đầu hàng của Nam Quân. Cuộc thương thuyết đầu hàng chấm dứt cuộc Nam-Bắc Phân Tranh của Hoa Kỳ diễn ra vào ngày mùng 9 tháng 4 năm 1865 tại tòa nhà the McLean House, là ngôi nhà của tướng McLean, một tướng thuộc bên thua cuộc Nam Quân. Đó chỉ là một tòa nhà bằng gạch đỏ ở một ngã tư nhỏ tại miền nam tiểu bang Virginia. Nhưng ngọn gió chiến tranh đã biến tòa nhà này thành một trong những địa điểm quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Ngôi nhà McLean House nằm trong khu vực Appomattox Court House. Appomattox Court House là một vùng đất thuộc tiểu bang Virginia. Ngày nay Appomattox Court House là công viên quốc gia Appomattox. Trận chiến xảy ra tại vùng này là một trong những trận đánh cuối cùng của cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ. Chỉ huy bên Thắng Cuộc là tướng Bắc quân Ulysses S. Grant. Chỉ huy bên Nam quân thua cuộc là tướng Robert E. Lee. Vào giờ phút cuối, tại chiến trường Appomattox Court House, Bắc quân có 120,000 quân. Nam quân có 30,000 quân. Bắc quân thiệt hại 260 quân sĩ. Nam quân thiệt hại 440 quân sĩ và 27,000 quân còn lại đầu hàng.
Đạo quân của miền Nam dưới quyền tướng Lee lại có tên khiến người đọc dễ lẫn lộn là Quân đoàn Bắc Virginia (Army of Northern Virginia). Sau chiến dịch 10 tháng tại Petersburg (10-month Battle of Petersburg) tướng Lee không có đường rút tại Appomattox. Sau một ngày và đêm di hành (marching), tướng Lee với Quân đoàn Northern Virginia kiệt sức dừng quân tại ngay phía đông của vùng Appomattox Court House vào ngày mùng 8 tháng 4. Trước đó, vào đêm mùng 7-4, sau những cuộc đụng độ giữa lực lượng hai bên, Tướng Bắc quân Ulysses S. Grant đã gửi cho tướng Lee một thư kêu gọi đầu hàng. Tướng Lee từ chối. Tướng Grant lại gửi tiếp thư nữa kêu gọi đầu hàng để chấm dứt đổ máu. Tướng Lee trả lời trong đó có câu, “Tôi không nghĩ tình hình đã nguy cấp tới độ phải đầu hàng,” và ông đề nghị gặp tướng Grant vào 10 giờ sáng tại giới tuyến giữa hai bên vào hôm sau để thương thuyết hòa bình. Để chuẩn bị cho buổi họp đó, tướng Nam quân Lee báo cho bộ tham mưu của ông rằng ông sẽ phớt lờ chuyện đầu hàng và cố gắng ngăn chặn quân kỵ binh của tướng Sheridan thuộc Bắc quân để một bộ phận lực lượng của ông có thể tiến về Lynchburg, với ý nghĩ lực lượng chính của Bắc quân (Union) chỉ có kỵ binh (cavalry). Tuy nhiên, ông yêu cầu bộ tham mưu báo cho ông biết nếu thấy có hiện diện của bộ binh Bắc quân; bởi vì như thế có nghĩa là đối phương đã đông quân hơn và khi đó ông sẽ phải đầu hàng.
Trong tuần lễ trước đó, tướng Bắc quân Grant đã truy đuổi và bao vây tướng Lee trong chiến dịch Appomattox (Appomattox Campaign). Tướng Lee đã bị bao vây ba mặt bắc, nam và tây. Ở Bắc sông Appomattox tướng George G. Meade với hai quân đoàn VI và II truy đuổi tướng Lee. Trong khi kỵ binh của tướng Philip H. Sheridan đã truy đuổi và bao vây tướng Lee ở hai mặt tây và nam.
Vào sáng sớm mùng 9 tháng 4, quân đoàn của tướng John B. Gordon của Nam quân (Confederate) đã tấn công và ngăn chặn được lực lượng kỵ binh của Bắc quân (Union). Nhưng rồi bộ binh của Bắc quân tới, khiến tướng Gordon không tiến thêm được. Vào khoảng 8:30 sáng, tướng Gordon gửi thư cho tướng Lee cho biết ông cần tướng James Longstreet yểm trợ để tiến thêm.
Ngay khi nhận được thỉnh cầu của thuộc tướng Gordon, và sau khi quan sát chiến trường, tướng Lee nói, “Như thế thì tôi không còn có thể làm gì ngoài việc đi gặp tướng Grant, và tôi thà chết một ngàn lần hơn.” (I would rather die a thousand deaths.)
Sáng ấy, sau khi mặc bộ quân phục đẹp nhất của ông, tướng Lee cưỡi ngựa tới nơi mà ông nghĩ ông và tướng Grant sẽ gặp nhau giữa phòng tuyến hai bên. Tại đây ông nhận được thư của tướng Grant viết vào đêm trước, trong đó tướng Grant từ chối gặp để hòa đàm.
Tướng Lee của Nam quân mau chóng viết hồi âm cho biết nay ông sẵn sàng đầu hàng; và ông tiếp tục cưỡi ngựa đi tới để tìm gặp đối phương. Hãy còn nghe tiếng giao tranh, tướng Lee đã gửi một thư cho thuộc tướng Meade yêu cầu ông này đình chiến ngay dọc theo phòng tuyến. Tướng Meade hồi âm rằng ông không tiếp xúc được với tướng Grant của Bắc quân, nhưng ông sẽ gửi một thông điệp cho tướng Grant đồng thời ông cũng đề nghị tướng Lee gửi một thư nữa cho tướng Grant qua tướng Sheridan (của Bắc quân). Thêm vào đó, tướng Lee cũng bảo thuộc tướng Gordon treo những lá cờ đầu hàng (flags of truce) dọc theo chiến tuyến.
Tướng Grant của Bắc quân nhận thư đầu hàng của tướng Lee bên Nam quân ngay trước buổi trưa. Ông hồi âm và cho biết chi tiết vị trí của ông đang đóng quân trên đường tiến về vùng Appomattox Court House, và yêu cầu tướng Lee chọn địa điểm gặp gỡ.
Tướng Lee và bộ tham mưu trong lúc đang đi tìm nơi gặp gỡ cho cuộc họp đầu hàng thì gặp tướng Whilmer McLean. Ông này chỉ một tòa nhà trống trơn không có bàn ghế gì cả. Khi nhận thấy tòa nhà đó không thích hợp, tướng Lee đề nghị chọn căn nhà của chính tướng McLean cho cuộc họp. Tướng thắng cuộc Grant tới vùng Appomattox vào khoảng 1:30 chiều và tiến tới tòa nhà của tướng McLean.
Hình ảnh tướng thắng cuộc Ulysses S. Grant trong bộ chiến phục đầy bùn đất tương phản mạnh mẽ với tướng Robert E. Lee Lee, kẻ chiến bại, trong bộ nhung phục tươm tất. Hai người trao đổi xã giao (chat) một lúc rồi bắt đầu thảo luận và soạn thảo điều kiện đầu hàng. Binh sĩ bên chiến bại của tướng Lee sẽ buông súng. Họ sẽ được tự do trở về quê nhà chứ không bị cầm tù. Tất cả các khí tài của Nam quân thua cuộc sẽ được kiểm kê và giao nạp. Những binh sĩ thua cuộc nào có ngựa, lừa của riêng họ sẽ được mang về quê để trồng trọt, cầy cấy. Tướng Lee cũng yêu cầu bên Bắc quân chiến thắng cung cấp lương thực cho quân sĩ của ông, vì đã nhiều ngày họ không có gì ăn. Những yêu cầu này được tướng Grant, kẻ chiến thắng, đồng ý. Sau khi văn kiện đầu hàng chính thức được hai vị tướng ký, hai vị tướng chia tay. Sau một cuộc chiến lâu dài đẫm máu, văn kiện đầu hàng của Nam quân được mọi người gọi là “Văn kiện thỏa thuận giữa hai người mã thượng” (“The Gentlemen’s Agreement,”), một biểu tượng của cá tính của hai nhân vật vĩ đại (a testament to the character of these two great men.)
Ngay sau khi nghe tiếng súng liên hoan của đoàn quân thắng trận phương Bắc của mình, tướng Grant đã chỉ thị quân sĩ ngừng liên hoan, và ông nói, “Chiến tranh đã kết thúc, quân chống đối lại trở lại là đồng bào của chúng ta, và dấu hiệu hay nhất để bày tỏ vui mừng chiến thắng sẽ là tránh tất cả mọi bày tỏ chiến thắng trên chiến trường (Grant instructed that his troops cease active celebration, saying, “The war is over; the Rebels are our countrymen again, and the best sign of rejoicing after the victory will be to abstain from all demonstrations in the field.”) Thái độ này tạo ra một bầu không khí tương tự trong mấy ngày tiếp theo, trong đó có nghi lễ chính thức đầu hàng diễn ra vào ngày 12 tháng 4. Tướng Joshua L. Chamberlain bên thắng trận chịu trách nhiệm đón nhận sự đầu hàng của Nam quân đã chỉ thị cho các sĩ quan thuộc cấp ở vị trí đứng nghiêm (to come to the position of “carry arms,”). Và khi mỗi đơn vị của đoàn Nam quân thất trận tiến tới, thì tiếng quân kèn (a bugle) của Bắc Quân lại vang lên và các sĩ quan thắng trận đứng nghiêm chào. Đoàn Nam quân thất trận chào lại rồi buông vũ khí cùng quân kỳ. Nghi lễ đầu hàng chính thức của hơn 27,800 quân sĩ mất gần trọn một ngày.
Hoàn toàn trái ngược với tinh thần mã thượng của người Hoa Kỳ, lực lượng miền Bắc Việt Nam vẫn hung hãn tiến quân đòi bắt cho được Tổng Thống và nội các của chính phủ miền Nam mặc dù vị lãnh đạo miền Nam đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. 9 giờ 30 phút sáng 30-4-1975, đài phát thanh Sài Gòn đã phát đi tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh như sau: “Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…Vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận Lễ bàn giao Chính quyền trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào…” (http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-republic-of-vietnam-s-last-days-04202015155428.html) Ngay sau khi nghe được tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống miền Nam, nếu có tinh thần mã thượng và hòa hợp, hòa giải dân tộc, thì đáng lẽ giới lãnh đạo Bắc Quân cũng nên ra lệnh thuộc cấp ngừng tiến công để hai bên thảo luận một lễ đầu hàng trang nghiêm như mọi kết thúc chiến tranh khác trong lịch sử cận đại của nhân loại văn minh. Đằng này giới lãnh đạo Bắc Quân từ miền Bắc đã chỉ thị lực lượng đang chiến đấu tiếp tục tiến công nhằm bắt giữ và hạ nhục giới lãnh đạo bên thua cuộc miền Nam. Bộ Chính trị của Cộng Sản ở miền Bắc đã gửi vào Nam bức điện sau: “Gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba” (Người ký tên Ba tức Lê Duẫn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản)
Với chủ trương hạ nhục Nam Quân nên khi Đại tá Bùi Tín, đại diện Quân miền Bắc vào tới Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống miền Nam và nghe Tổng Thống Miền Nam lịch sự tuyên bố , “ chúng tôi chờ quí vị tới từ sáng nay, đặng chuyển giao chính quyền….” thì Đại diện Quân Bắc Việt đã cao ngạo tuyên bố, ” tất cả chính quyền các ông không còn nữa qua cuộc tấn công của chúng tôi…cho nên không thể bàn giao cái gì đã không còn nữa…”
Sau đó là toàn bộ nội các chính phủ Miền Nam kể cả Tổng Thống Dương Văn Minh đã bị giam hai ngày trong Dinh Độc Lập. Ngày 2-5, Tướng Trần Văn Trà bên “thắng cuộc” mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà từ hôm giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở đây.
Kể từ sau ngày 30-4-1975, hàng loạt những biện pháp man rợ được Bắc Quân áp dụng tại miền Nam. Mở đầu là chiến dịch tịch thu và đốt sách. Sau đó là cướp tài sản của người giầu dưới chiến dịch mang tên “đánh tư sản mại bản.” Chiến dịch này được thực hiện nhiều lần sau đó. Kế đó là bắt giam lâu dài toàn bộ giới tinh hoa miền Nam dưới chính sách gọi là “học tập cải tạo.” Sau đó là chiến dịch cướp tài sản của toàn bộ nhân dân miền Nam bất kể giầu nghèo qua chiến dịch đổi tiền năm 1975 với $500 đồng Việt Nam Cộng Hòa ăn $1 đồng tiền mới của miền Nam. Tới 1978 lại đổi tiền cả nước một lần nữa nhưng $1 đồng miền Bắc vẫn được bằng giá $1 đồng tiền mới; trong khi $1 đồng tiền sau 1975 của miền Nam chỉ được ăn 80 xu tiền mới mà thôi. Rồi là chiến dịch đuổi hầu hết người dân thành phố lên rừng hoang nước độc không một trợ giúp dưới mỹ từ “đi vùng kinh tế mới” để cướp nhà đất của họ. Bằng chứng của sự ăn cướp này ngày nay dễ thấy khi những căn nhà khang trang ở những vị trí tốt nhất đều do người Miền Bắc vào sau 1975 chiếm ngụ. Kế đó là chiến dịch đuổi con em miền Nam khỏi các trường học từ lớp 10 trở lên đại học dưới chính sách gọi là “cải tạo xã hội chủ nghĩa học đường.” Sau đó là tiếp tục những biện pháp trấn áp, làm nhục các gia đình miền Nam bị gọi là gia đình Ngụy trong những buổi họp phường khóm thực hiện hàng đêm. Đấy là chưa kể vợ của không ít người miền Nam bị bắt đi tù cải tạo lâu ngày bị o-ép nhục dục bởi những cán bộ miền Bắc.
Tình trạng Bắc Quân vào cướp đoạt miền Nam đã được xác minh bởi chính ông Nguyễn văn Trấn viết trong cuốn «Viết cho Mẹ và Quốc hội » – Trong cuốn sách đó ông ấy viết : nhà của người ta lấy, vợ của người ta ngủ v.v…” và theo nhà văn miền Bắc Dương Thu Hương, “tức là một sự chiếm đoạt về mặt tài sản đối với tất cả những người đã chiến bại.” Cũng nên biết ông Nguyễn Văn Trấn , còn gọi Bảy Trấn, là một nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động cách mạng chống Pháp, cựu Chính Ủy Bộ Tư Lệnh Khu 9, cựu giảng viên trường Nguyễn Ái Quốc, cựu Vụ Phó Ban Tuyên huấn Trung ương.
Cho tới ngày nay, tuy bề ngoài vì muốn dựa vào Hoa Kỳ và các nước Phương Tây để thoát nghèo đói cũng như để moi tiền của người Việt tị nạn Cộng sản trên khắp thế giới, Cộng sản tung ra chiến dịch hòa hợp hòa giải giả tạo, họ vẫn hàng năm tổ chức rầm rộ ăn mừng cái gọi là “ngày chiến thắng 30-4″, nhe những nụ cười man rợ bên những nét mặt uất hận, u sầu của nhân dân miền Nam.
© Đàn Chim Việt
————————————————–
Tham khảo:
(1) http://www.cbsnews.com/news/appomattox-the-surrender-that-ended-the-civil-war/
Appomattox: The surrender that ended the Civil War
(2) http://www.historynet.com/appomattox-court-house-battle
Appomattox Court House
(3) https://www.facebook.com/notes
BTCI. Giải Phóng Chương I: Ba Mươi Tháng Tư (#2)
(4) http://www.rfa.org/vietnamese/
Nhà văn Dương Thu Hương: 40 năm, nhìn lại về ngôn từ
(5) Các hình tại Thổ Nhĩ Kỳ do tác giả chụp
Tác giả so sánh cách đối xử hai cuộc chiến Thổ Nhĩ Kỳ và nội chiến Hoa Kỳ và nêu lên tính nhân bản và trình độ văn hóa của bên chiến thắng đối với kẻ thù mà quên rằng kẻ chiến thắng cuộc chiến VN là CỘNG SẲN – và cộng sản thì với họ nhân dân cũng là kẻ thù của chế độ thì còn nói chi kẻ địch để mà so sánh!?
Cộng sản không có tính nhân bản, và chẳng những không bao giờ có hòa hợp hay hòa giải mà cũng không có bất cứ cái gì tốt cho dân mà cộng sản làm cho dân, cho đất nước, cho dân tộc. Đối với họ, không có cái gì quan trọng bằng quyền lực, địa vị, và tiền bạc. Không có bất cứ thứ gì có thể so sánh được với quyền lợi của đảng, ngay cả đất nước và dân tộc. Chấm hết.
Hãy nhìn xem?
40 năm chiến thắng đã trôi qua, bao nhiêu dân oan mất nhà mất cửa?
40 năm hòa bình đã qua, người dân đã có tự do?
40 năm xây dựng đã qua, đất nước vẫn nghèo, người dân chỉ mong trốn thoát khỏi nước ra đi làm bất cứ nghề gì để được có tự do no ấm.
40 năm chiến thắng trôi qua, đảng đưa đất nước vào vòng nô lệ mới.
40 năm đảng cai trị dân bằng nghị định và nghị quyết thay hiến pháp, người dân sống chẳng khác chi nô lệ cho đảng.
—
40 năm trôi qua, đảng đã làm được gì tốt cho đất nước cho dân tộc?
Vậy nếu chưa phải là lúc đứng lên đòi lại quyền làm người thì còn chờ đến lúc nào? Đã 40 năm rồi, hay 1…2…3… lần 40 mươi năm nữa? Xin hãy ngẩng mặt đứng lên đừng ngồi chờ đợi nữa. Thế hệ già sẽ ra đi, thế hệ trẻ lại tiếp nối, dân tộc vẫn trường tồn sống nô lệ cho đảng vì cộng sản không bao giờ thay đổi nếu chúng ta không cùng nhau đứng dậy.
nv
Trích: ” Nhưng khi hòa bình lập lại, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt những bia tưởng niệm tại những nơi mà các cựu thù đã hy sinh”
Người Cộng Sản phê phán việc đối xử công bằng, tử tế với kẻ thua trận là “đánh đồng địch với ta”. Đó là lối suy nghĩ của Lê Nin. Theo Lê Nin thì trong tư tưởng phải có tính giai cấp. Đảng CS đại biểu cho giai cấp công nhân thì phải được đưa lên cao hơn tất cả. Những kẻ chống lại đảng CS thì bị xem là kẻ thù và không được đối xử bình đẳng.
Lối suy nghĩ đó khác với lối suy nghĩ bình thường mà các dân tộc, các nền văn hóa khác có. Thời xưa, vua Trần Nhân Tôn khi thấy thuộc hạ dâng đầu Toa Đô, tướng của Mông Cổ, thì nói “làm tôi nên như người này”. Vua Trần Nhân Tôn khen sự dũng cảm chiến đấu, hy sinh cho quốc gia của Toa Đô. Tào Tháo thấy Quan Vân Trường bỏ mình mà trở về với Lưu Bị tuy không thích nhưng vẫn khen Quan Vân Trường là không bỏ chủ cũ. Đó là thời theo lối Đức Trị. Hễ ai có cái đức đó thì được khen, không phân biệt phe phái.
Còn Lê Nin thì không theo Đức Trị mà theo lối Đảng Trị. Theo lối Đức Trị thì ai có cái đức tính đó là đáng khen. Theo lối Đảng Trị là ai thuộc đảng ta thì đáng khen, ai không thuộc đảng ta đều là kẻ xấu. Nhìn theo cách Đảng Trị thì những kẻ có các đức tính như dũng cảm, trung thực, hết lòng chiến đấu cho quốc gia, cho phe của họ đều bị xem là kẻ xấu vì họ không thuộc đảng của mình. Còn những người kẻ tàn ác, dối trá mà làm tốt cho đảng mình đều là kẻ đáng khen. Nhìn theo lối Lê Nin thì không có đức tính nào được xem là tốt cả mà tốt hay xấu là tùy theo kẻ đó có thuộc phe mình hay không. Trung thực mà chỉ trích đảng CS thì cũng vẫn bị xem là người xấu. Thái độ này khác với thái độ của các nền văn hóa khác. Một đảng xem người chỉ trích đảng mình chỉ là người khác ý kiến mà thôi. Tùy theo ý kiến khác đó mà đánh giá người đó. Nếu đó là ý kiến hay thì đó là người giỏi, nếu đó là ý kiến vớ vẩn thì đó là người dở, nếu đó là ý kiến đầy ác ý, xuyên tạc thì đó là kẻ gian tà. Còn thái độ của Lê Nin thì không vậy . Hễ ai khác ý kiến với mình đều là kẻ thù, là xấu và phải bị tiêu diệt.
Cái thái độ đó của Lê Nin đã dựng nên một chế độ chuyên chế, cấm dân không được có ý kiến khác. Dùng các biện pháp rất tàn ác để tiêu diệt những người dân có tư tưởng khác với người cầm quyền. Chế độ đó có quyền lực rất ghê gớm trong tay nhưng phạm nhiều sai lầm mà các chế độ khác có khả năng nhìn ra và sửa đổi.
Ông Nguyễn Tường Tâm cũng như nhiều người chống Cộng cực đoan khác, cứ đi ta bà thế giới học đòi “phong cách” của bọn tư bản đế quốc rồi viết bài chửi rủa “nhân dân” .
Thay mặt đảng, nhà nước và nhân dân nước CHXHCHVN, tôi trân trọng gửi lời mời đến ông và toàn thể những ai quan tâm, hàng năm vào khoảng tháng Hai cứ về Việt Nam để chứng kiến những lễ hội Hoà Giải Hoà Hợp mà chính quyền các cấp lũ lượt sang bên kia biên giới phía Bắc dâng hoa, thắp hương, bái lạy,làm lễ truy điệu, vinh danh những người lính Tầu hy sinh oanh liệt sau khi tràn sang xâm lăng, tàn sát nhân dân, đốt phá xóm làng, hãm hiếp phụ nữ, giết hại trẻ em Việt Nam .
Không những thế, chúng tôi còn cho những thiếu nữ xinh đẹp và trinh tiết đóng vai Hai Bà Trưng sang hát chầu Mã Viện nữa kìa .
Chúng tôi không có những đài tưởng niệm “hoành tráng” vinh danh kẻ thù như ở Mỹ hay Thổ Nhĩ Kỳ . Thế nhưng chúng tôi có những nghĩa trang xinh đẹp và trang trọng để toàn thể đảng viên và cán bộ đến bái tạ quân xâm lược . Đây là nét nhân văn, tinh thần thượng võ do chính Bác Hồ dày công hun đúc …cái văn hoá đặc sản XHCN không nhà nước tư bản nào có thể học hỏi và bắt chước được .
Còn đối với bọn Nguỵ quân, Nguỵ quyền … thì dù chúng tôi đã có Nghị Quyết Ba Xạo (viết tắt là NQ36) để hoà hợp hoà giải, nhưng đến nay vẫn không chiêu dụ được ai ngoài những thằng như Nguyễn Hữu Liêm, Nguyễn Ngọc Lập, Hoàng Duy Hùng … hồi chánh kiếm cháo . Thế thì lỗi là do bọn họ cố chấp không chịu ngoan ngoãn đi theo lề phải chớ chẳng phải do đảng ta không có lượng khoan hồng . Vả lại hồi bảy nhăm chúng tôi trót miệt thị họ là bọn trộm cướp đĩ điếm bám đít ngoại bang và tự xưng mình là cách mạng, đỉnh cao trí tuệ loài người, lương tâm nhân loại vv… nay rất khó lòng nhổ rồi lại liếm . Đành xin thông cảm vậy !
Kg Ban ĐEiều Hành Đan Chim Việt online,
Xin phép được trích đăng bài viết Ngày Tàn Cuộc Chiến… của Nguyen Tuong Tâm trên Dan Chim Việt Online trên Trang Cựu Chiến Binh báo Người Việt. Đa Tạ.
Nghuy
Cám ơn NT Tâm đả nhắc lại lịch sử Thế giới và VN. Hoa Kỳ giải quyết Xung đột bang tình-tự Dân tộc.
VNCS giải quyết xung đôt bang Chủ nghĩa Mác-Lenin ! Hậu quả đến hôm nay
đả thấy rỏ: Nước Mỹ trở thành Siêu cường . VN trở thành Việt-Cộng ! Đó là sự thật không thể chối cải được. Có người cứ bảo VN bây giờ tiến bộ. Nhưng người em bà con của tôi, có học vị hẳn hoi ở Sài gòn, nói với tôi : té- ra em trở thành VC lúc nào không hay.! Có gì đâu mà ngạc nhiên :VC =/ VN rất dễ nhận ra,từ hành vi,lời ăn tiếng nói,thói quen…và cả tư duy. Hảy nhìn cán bộ CS đi ra nước ngoài thì rỏ.. Chúng như bầy thú hoang dả khi đến các nước văn minh. Tất cả đó là hệ-lụy của bức thư mà Lê Duẩn gởi vào Miền Nam: tiền nhanh,tiến mạnh…giành thắng lợi! Đạp đổ Tình tự Dân tộc, để CN Mác- Lê bách chiến -bách thắng ! Trơ trẽn và xấu hổ hết chổ nói !!