Bộ sách phi thường
Những ai yêu thích sách minh triết thì 20 cuốn sách mỏng (gồm 25 quyển), có thể nói là “tổng tập” đời người của thi sĩ – nhà đạo học lừng danh Kahlil Gibran (1883-1931) vừa được Công ty sách Thời Đại và NXB Văn học xuất bản quý 1/2012 là chọn lựa không thể bỏ qua.
Cùng với Jiddu Krishnamurti, Osho… Kahlil Gibran là một trong số ít thi sĩ có ảnh hưởng tâm linh phổ quát trên toàn thế giới vào thế kỷ 20 và còn kéo dài đến tận hôm nay. Sách của ông được chuyển dịch ra hàng trăm ngôn ngữ, luôn tạo được niềm hân hoan cho độc giả, bởi nó giúp họ tìm được các giá trị đích thực về thân thể và nội tâm của mình. Trước 1975, tại Việt Nam đã giới thiệu khoảng 10 tác phẩm của thi sĩ này, trong đó nổi tiếng nhất là Mật khải, Uyên ương gãy cánh, Lời thiêng… – những sách gối đầu giường của vài thế hệ. Chính vì vậy, việc Công ty sách Thời Đại và dịch giả Nguyễn Ước cùng lúc cho xuất bản 20 cuốn, trong đó có khoảng 10 quyển được dịch lại, là một nỗ lực đáng ghi nhận và có thể xem là một dấu ấn về xuất bản hiện nay.
L.Đ.
(vanchuongviet.org 27.3.02)
*
* *
Bộ sách Kahlil Gibran vừa được phát hành vào dịp Hội chợ sách tháng 3 năm 2012 tại Sàigòn. Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu một bài thơ của Kahlil Gibran in trong bộ sách đó và danh sách 25 tác phẩm, in thành 20 cuốn có hình ở trên
Chúng tôi và các ngưỜi
Chúng tôi là con cái của Khổ não
và các người là con cái của Hân hoan.
Chúng tôi là con cái của Khổ não
và Khổ não là chiếc bóng của Thượng đế,
đấng không sống trong lãnh địa
của những tâm hồn độc dữ.
Chúng tôi là những linh hồn khổ não.
khổ não thì rất lớn lao,
không thể hiện hữu trong các tâm hồn nhỏ bé.
Khi các người cười thành tiếng,
chúng tôi gào thét và than khóc;
Kẻ nào từng có lần bị nóng bỏng
hoặc được rửa sạch
với những giọt nước mắt của mình
sẽ vẫn mãi mãi tinh tuyền.
Các người không hiểu chúng tôi
nhưng chúng tôi dành sẵn tình cảm cho các người.
Các người đang đua tranh với con nước
của Dòng sông Cuộc đời
và không để mắt tới chúng tôi
nhưng chúng tôi ngồi dọc hai bên bờ
đang nhìn theo và nghe
giọng nói quái đản của các người.
Các người không hiểu
tiếng gào thét của chúng tôi
vì huyên náo ngày ngày
đang chen đầy hai tai của các người
và bị tắc nghẻn với bản chất cứng cỏi
của những năm các người thờ ơ chân lý;
Còn chúng tôi nghe rất rõ
những khúc hát của các người
vì tiếng thì thầm đêm đêm đang mở
con tim bên trong của chúng tôi ra.
Chúng tôi thấy các người
đứng dưới ngón tay trỏ của ánh sáng
nhưng các người không thể thấy chúng tôi
vì chúng tôi vẫn lưu lại
trong chốn tối tăm đang sáng dần lên.
Chúng tôi là con cái của Khổ não;
chúng tôi là những thi sĩ,
những ngôn sứ
và những nhạc sĩ.
Chúng tôi dệt trang phục cho các nữ thần
từ những sợi chỉ của tâm hồn mình,
và chúng tôi làm đầy bàn tay của các thiên thần
với những hạt mầm
của cái tôi bên trong chúng tôi.
Các người là con cái
của đuổi theo Hoan lạc trần thế.
Các người đặt trái tim mình
trong bàn tay của Trống rỗng
vì bàn tay khi chạm tới trống rỗng
thì êm ái và mời mọc.
Các người cư ngụ trong ngôi nhà của Vô minh
vì nội thất ấy
chẳng có chiếc gương nào
cho các người
soi thấy linh hồn mình.
Chúng tôi thở dài,
và từ hơi thở dài ấy nổi lên
tiếng thì thầm của các đóa hoa,
tiếng xạc xào của lá cỏ và
tiếng rì rào của những dòng suối nhỏ.
Khi các người chế giễu chúng tôi,
lời nhạo báng của các người trộn lẫn
tiếng nghiền nát của xương sọ,
tiếng loảng xoảng của gông xiềng và
tiếng thở than của vực sâu.
Khi chúng tôi khóc,
nước mắt của chúng tôi
rơi vào trái tim của Cuộc đời
như sương rơi từ những con mắt của Đêm
vào trái tim của Bình minh;
Còn khi các người cười,
tiếng cười mỉa mai của các người
tuôn như nọc rắn độc
xuống vết thương.
Chúng tôi khóc và có thiện cảm
với kẻ lang thang khốn khổ
và góa phụ sầu bi;
Còn các người hoan hỉ mỉm cười
khi thấy bạc vàng chói lọi.
Chúng tôi gào thét
vì chúng tôi lắng nghe
tiếng than khóc của người nghèo và
lời kêu ca của người yếu đuối bị áp bức.
Còn các người cười
vì các người hoàn toàn chỉ nghe
âm thanh vui mừng
của những chiếc ly có chân
đang sóng sánh rượu vang.
Chúng tôi gào thét
vì linh hồn chúng tôi lúc này
bị chia cách với Thượng đế
Còn các người cười thành tiếng
vì thân xác các người
đang vô tư bám víu trần gian.
Chúng tôi là con cái của Khổ não,
và các người là con cái của Hân hoan. . .
Hãy để chúng tôi so đọ
hậu quả nỗi đau của chúng tôi
với thành tích niềm vui của các người
trước mặt của Mặt trời. . .
Các người từng dựng lên Kim tự tháp
trên trái tim của những kẻ nô lệ
Nhưng giờ đây các Kim tự tháp
đứng trên cát
và đang làm cho các Thời đại
tưởng nhớ sự bất tử của chúng tôi
cùng sự chóng phôi pha của các người.
Các người từng dựng lên Babylon
trên xương của kẻ yếu
và dựng lên các cung điện Nineveh
trên huyệt mộ của kẻ khốn khổ.
Giờ đây Babylon
chỉ là dấu chân lạc đà trên cát
đang xê dịch của sa mạc,
và lịch sử của nó được nhắc lại
cho các dân tộc ra ân sủng cho chúng tôi
và nguyền rủa các người.
Chúng tôi tạc tượng nữ thần Ishtar
từ cẩm thạch trắng,
và làm cho pho tượng ấy
vững chãi mà lung linh
và câm lặng mà nói nên lời.
Chúng tôi sáng tác
và dạo những khúc nhạc êm ái Nahewand
trên dây đàn,
khiến cho tinh thần của Đấng Yêu dấu
đến lơ lửng trên bầu trời gần gũi chúng tôi;
Chúng tôi ngợi ca Đấng Tối cao
bằng lời nói cùng việc làm;
những lời ấy trở thành lời của Thượng đế
và những việc làm ấy trở thành tình yêu
chất ngất của các thiên thần.
Các người đang đi theo thú tiêu khiển
mà móng vuốt sắc bén của nó
từng xé nát hàng ngàn kẻ tuẫn đạo
trong các đấu trường La Mã và Antioch. . .
Còn chúng tôi đang đi theo Im lặng
mà ngón tay cẩn trọng của nó
từng dệt nên
cuốn Iliad, sách Gióp
và Lời than khóc của Giêrêmia.
Các người ăn nằm với Nhục dục
mà bão tố của nó từng quét sạch
một ngàn đám rước linh hồn phụ nữ
và trở thành hầm hố của hổ thẹn
và kinh hoàng. . .
Còn chúng tôi ôm ấp Cô đơn
mà chiếc bóng của các giai nhân ấy trổi dậy
trong Hamlet và Dante.
Các người xun xoe bợ đỡ Lòng tham,
và thanh gươm sắc lẽm của Lòng tham
đã làm đổ một ngàn Dòng sông máu. . .
Còn chúng tôi tìm hòa hợp với Chân lý,
và bàn tay của Chân lý mang Tri thức
xuống từ Tâm điểm Vĩ đại
của Vòng tròn Sự sáng.
Chúng tôi là con cái của Khổ não
và các người là con cái của Hân hoan;
Giữa nỗi đau của chúng tôi
và niềm vui của các người
có một lối đi gập ghềnh nhỏ hẹp
mà con ngựa tinh thần của các người
không thể bước
và xe ngựa lộng lẫy của các người
không thể qua.
Chúng tôi thương xót
sự nhỏ bé của các người
Trong khi các người căm ghét
sự lớn lao của chúng tôi;
Giữa niềm thương xót của chúng tôi
và nỗi căm ghét của các người,
thời gian chửng lại hoang mang ngập ngừng.
Chúng tôi tới với các người như bằng hữu,
nhưng các người tấn công chúng tôi
như kẻ địch của các người;
Giữa tình bằng hữu của chúng tôi
và sự thù nghịch của các người
có một khe sâu đang chảy đầy
máu và nước mắt.
Chúng tôi xây cất cung điện cho các người
còn các người đào huyệt mộ cho chúng tôi;
và giữa vẻ đẹp của cung điện và âm u của huyệt mộ,
loài người bước đi như lính canh
với vũ khí đúc bằng sắt thép.
Chúng tôi rải đường đi của các người
với hoa hồng;
Và các người phủ lên giường của chúng tôi
với gai góc;
Giữa hoa hồng ấy và gai góc ấy,
Chân lý đang ngủ giấc chập chờn.
Từ lúc bắt đầu thế giới,
các người chiến đấu chống lại
sức mạnh dịu dàng của chúng tôi
bằng sự yếu nhược thô lỗ của các người;
và khi chiến thắng chúng tôi trong chỉ một giờ,
các người kêu ồm ộp và rôm rả la vang
như ếch nhái ngoài đồng ruộng.
Còn khi chúng tôi chinh phục
và khuất phục các người
suốt một Thời đại,
chúng tôi vẫn tiếp tục giữ mình
như những kẻ khổng lồ thinh lặng.
Các người đóng đinh Giêsu
và đứng dưới chân Ngài
nhạo báng mỉa mai Ngài;
Nhưng cuối cùng, Ngài bước xuống
chinh phục các thế hệ,
và dạo bước giữa các người
như đấng anh hùng,
và làm tràn ngập vũ trụ với vinh quang
và vẻ đẹp của Ngài.
Các người đánh thuốc độc Socrates,
ném đá Phaolô,
tiêu diệt Ali Talib
và ám sát Madhat Pasha,
Thế nhưng những đấng bất tử ấy
mãi mãi ở với chúng tôi
trước mặt của Vĩnh cửu.
Còn các người sống
trong ký ức của loài người
như những xác chết trên mặt đất;
và các người không tìm được
một người bạn
để chôn cất các người
trong bóng tối mịt mù
của phi hiện hữu và lãng quên
mà các người đã tìm thấy trên trần thế.
Chúng tôi là con cái của Khổ não,
và cơn đau là đám mây phong phú,
tuôn mưa Tri thức và Chân lý
xuống các đám đông.
Các người là con cái của Hân hoan,
và cơn vui của các người
vươn tới ngang đâu
thì Luật của Thượng đế
lên cao ngang đó,
nên nó phải bị hủy diệt
trước các ngọn gió của trời cao
và phân rã thành hư vô,
vì nó hoàn toàn chỉ là
cột khói mỏng manh
và chập chờn.
BỘ sách KaHlil Gibran do NguyỄn ƯỚc biên dỊch
Gồm 25 cuốn, in thành 20 tập:
1. Bí ẩn trái tim
2. Chuyện người phiêu lãng & Cát biển và bọt sóng
3. Định mệnh thi sĩ & Đám rước
4. Đôi cánh tư tưởng
5. Giêsu Con của Con người
6. Giọt lệ và nụ cười
7. Gương soi linh hồn
8. Hoài vọng phương Đông
9. Mật khải
10. Mây trên đỉnh núi & Kẻ mộng du
11. Ngôn sứ (Kẻ tiên tri)
12. Nhã ca tình yêu
13. Sương bụi phù hoa
14. Tâm linh toàn mãn
15. Tiếng nói bậc tôn sư
16. Tiếng vô thanh & Người tình vĩnh cửu
17. Tình yêu tận hiến
18. Trầm tưởng
19. Uyên ương gãy cánh
20. Vườn ngôn sứ & Thần linh trần thế
Bộ sách trên gồm gần như toàn bộ tác phẩm của Kahlil Gibran; một số do chính Gibran viết bằng tiếng Anh; một số do các dịch giả chuyển ngữ từ tiếng A Rập sang tiếng Anh hay tiếng Pháp; một số do các học giả hợp tuyển, nên có nhiều bài trùng nhau. Tựa đề Anh ngữ của mỗi cuốn có ghi trong lời Dẫn nhập bản tiếng Việt, và có thể tìm đọc nguyên bản tiếng Anh được phổ biến miễn phí trên internet. Riêng ba cuốn (3) Định mệnh thi sĩ, (12) Nhã ca tình yêu và (14) Tâm linh toàn mãn do tự chúng tôi hợp tuyển.
Ngoài ra, chúng tôi chủ tâm bỏ qua cuốn Thơ xuôi (Prose Poems, 1932) do Andrew Ghareed dịch với sự hợp tác và Lời nói đầu của Barbara Young (được xuất bản sau khi Gibran qua đời), vì khi còn sống, Kahlil Gibran tỏ ra không thích các bản dịch ấy. Hầu hết các bài trong Thơ xuôi xuất hiện đầy đủ và rải rác trong những cuốn khác nhưng với bản chuyển ngữ của Anthony R. Ferris và đều được chúng tôi dịch ra Việt ngữ. Chúng tôi gom vài bài còn lại và những văn thi phẩm rời mà chúng tôi sưu tầm được, vào phần đính kèm của cuốn (17) Sương bụi phù hoa, dịch ý theo nhan đề gốc của bản A Râp: Ara’is al-Muruj. Nhan đề trong tiếng Anh có nghĩa là Các nữ thần thung lũng (Nymphs of the Valley); cũng có người dịch là Các cô dâu nơi đồng cỏ (Brides of the Prairie).
Do bởi ngày nay, tác phẩm của Gibran không đặt thành vấn đề tác quyền nên có nhiều người sưu tập chúng và hợp tuyển thành nhiều nhan đề sách khác nhau tùy dự án của mỗi người. Chúng tôi cũng không dịch các cuốn đó vì trùng lặp nội dung, kể cả cuốn The Tempests (Cơn bão, 1920).
N.Ư.