WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Ngô Đình Diệm, vị tổng thống còn nhiều tranh cãi

Mỗi năm cứ gần đến ngày 1-11 thì câu chuyện của Tổng thống Ngô Đình Diệm như khơi lại đống tro tàn quá khứ, một quá khứ đáng buồn của người dân miền Nam trước đây. Ông Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã bị thảm sát cách đây đúng 49 năm nhưng những lời thị phi vẫn còn chưa khép lại. Dù sao một triều đại trị vì đất nước suốt 9 năm thì ít ra cũng có một số người đã từng mang ơn mưa mốc tỏ lòng luyến tiếc, thì ngược lại cũng có đa số người bất phục chế độ có lời thanh nghị không hay. Tôi, thuở ấy chưa biết nhiều về gia đình họ Ngô, khi lớn lên tôi vì tò mò trước những lời khen ông Diệm không ít mà chê ông Diệm cũng nhiều, tôi chỉ muốn biết vì sao Tổng thống Diệm và gia đình phải nhận lãnh hậu quả thê thảm sau 9 năm cầm quyền, và tôi bắt đầu tìm hiểu.

Trước khi tình hình đất nước đi đến một tình trạng bi đát, Quốc trưởng Bảo Đại không còn tin gì vào người Pháp và thủ tướng Bửu Lộc nên Ngài cho vời ông Ngô Đình Diệm đến Cannes gặp và Ngài nói với ông ấy rằng:

-Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.
“-Thưa Hoàng thượng, không thể được ạ. Ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…
“-Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.
“Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông ta đáp:
“-Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.
“Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây thánh giá. Trước thánh giá tôi bảo ông ta:
“-Đây Chúa của ông đây. Ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó, để chống lại bọn Cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.
“Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu, rồi nhìn tôi, sau nhìn lên thánh giá, ông nói với giọng nghẹn ngào:
“-Tôi xin thề!…
“Trước đây đã dùng Diệm, tôi biết ông ta vốn khó tính. Tôi cũng biết ông ta rất cuồng tính và tin vào đấng Cứu Thế. Nhưng trong tình thế này, không còn có thể chọn ai hơn. Thật vậy, từ nhiều năm qua, người Mỹ đã biết ông, và rất hâm mộ tính cương quyết của ông…Tóm lại, nhờ cương quyết và cuồng tín, ông là người chống Cộng chắc chắn. Đúng vậy, đó là người của hoàn cảnh”. (Con Rồng Việt Nam- trang 514-515-516)

I- Tổng thống Ngô Đình Diệm.

A- Bản tính tự cao, phong kiến.

Ở miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng biết Việt cộng tổ chức tuyên truyền rêu rao tôn sùng Hồ Chí Minh như là một vị thánh sống, ngược lại ở miền Nam lúc bấy giờ ông Diệm cũng được tay chân bộ hạ tâng bốc cũng không kém gì. Hình ảnh của thủ tướng họ Ngô được họa lớn treo khắp hang cùn ngỏ hẽm, từ thành thị đến thôn quê, từ nhà lồng chợ cho đến trường học, công sở…Ông Diệm còn được tôn vinh là Ngô tổng thống anh minh muôn năm, nhưng trời đã phụ lòng người vì Ngô tổng thống chỉ được có 9 năm mà thôi. Bản nhạc Suy tôn Ngô tổng thống được hát kép với bản Quốc ca mọi người phải đứng nghiêm cho đến khi hết dù đang đứng ngoài chợ giữa trời mưa, nắng hoặc trong rạp hát:

“Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô tổng thống
Ngô tổng thống, Ngô tổng thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhó ơn Ngô tổng thống
Xin thượng đế ban phước lành cho người…”

Ông Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ thời Đệ nhất VNCH tường thuật trong lần “Mạn đàm với Đại tướng Cao Văn Viên”, người mà năm 1963 từ chối không tham dự vào cuộc đảo chính ông Diệm đã nhận định về ông Diệm như sau:

Mỗi người độc tài theo một cách riêng. TT Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình “thiên mạng” cứu nước. Có lẽ anh còn nhớ vụ ông tỉnh trưởng Bình Tuy săn được một con hà mã, dấu cái sừng tê giác, không khai báo khi hay được, cụ Diệm nổi trận lôi đình, cách chức và đòi giam viên tỉnh trưởng về tội “tẩu tán tài sản nhà nước”.

“TT Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đình, thích độc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trương “tiết trực tâm hư” nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đình”. (Đàn Chim Việt online ngày 9-5-2006)

Theo sự nhận định của vị Giám mục đầy uy tín Lê Hữu Từ do tiến sĩ sữ học Chánh Đạo Vũ Ngự Chiêu kể lại trong tác phẫm “Cuộc Thánh chiến chống cộng” của ông như sau:

“Tháng 12-1954 GM Lê hữu Từ tâm sự với Đặc sứ Collins rằng hào quang của Diệm ngày mới về nước đã lụn tàn. Diệm không chỉ bất lực mà còn ganh tỵ với những người có khả năng hơn (hoặc danh tiếng hơn), và tìm cách đốn họ”. (CTCCC – trang – 240)

B- Thiếu uy tín và lòng trung thành.

Theo sử gia Trần Gia Phụng, qua lời kể của ông Nhị Lang trong khi thủ tướng Diệm đang phải tất bật điên đầu chống lại các thành phần phản loạn thì quốc trưởng Bảo Đại triệu ông sang Pháp và ông đã kháng lệnh nên thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ, người được quốc trưởng đề cử làm Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia từ Đà Lạt đem Ngự Lâm quân về Sài Gòn bao vây dinh Độc Lập ép ông Diệm phải sang Pháp gặp quốc trưởng thì:

“Lúc đó, Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia (HĐNDCMQG) gồm các nhân sĩ của các đoàn thể chính trị và tôn giáo, đến dinh Độc Lập gặp thủ tướng Diệm, chứng kiến việc này, liền vây quanh tướng Vỹ, Nhị Lang, tổng thư ký HĐNDCMQG dùng súng ngắn uy hiếp tướng Vỹ phải ký giấy quy thuận chính phủ Diệm. Bị bất ngờ, thiếu tướng Vỹ đành chấp nhận, rồi rút lên Đà Lạt và sau đó ra ngoại quốc…

“Dẹp xong Bình Xuyên, chính phủ Diệm lại lo ngại thế lực của HĐNDCMQG, nên cho cảnh sát bao vây trụ sở hội đồng này trên đường Phùng Khắc Khoan (Sài Gòn) để theo dõi từ tháng 8-1955.

“Sau khi ổn định tình hình, chế độ khá vững vàng, thủ tướng Diệm liền tìm cách chấm đứt vai trò Quốc trưởng của Bảo Đại, người đã tin tưởng ông Diệm và bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng toàn quyền dân sự và quân sự….
“Kết quả đắc cử của ông Diệm trong cuộc Trưng cầu Dân ý ngày 23-10-1955 (5.721.735 trên 5.828.907, tức 98, 16%). (Đàn Chim Việt online ngày 11-10-2012)

Theo giáo sư Lê Xuân Khoa trong quyễn “Việt Nam 1945-1995” thì:

“Ban tổ chức trưng cầu dân ý đã sắp đặt cho việc thắng cử của Ngô Dình Diệm quá bảo đảm đến độ ông được tới 98, 2 phần trăm trong khi Bảo Đại chỉ được 1, 1 phần trăm. Bằng chứng gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sài Gòn-Chợ Lớn có 450.000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605.025”. (Trang – 432)

Sau khi ông Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng thì các nhân sĩ trong nhóm Tinh Thần hay còn gọi là nhóm Caravelle đã hết lòng ủng hộ ông nhưng rồi vì sự bội ước của ông mà những nhân sĩ này sau đã hợp tác với đại tá Nguyễn Chánh Thi đảo chính ông ngày 11-11-1960.

“Nhóm này là một trong 18 thành viên đoàn thể của Ủy Ban Cách mạng Quốc gia, ủng hộ việc tổ chức Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, đưa Thủ tướng Diệm lên làm tổng thống đầu tiên xác lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
“Tuy nhiên, khi chính sự đã ổn định, TT Diệm đã dần trở mặt với các thỏa hiệp ban đầu với những người đã ủng hộ ông và giúp ông giữ được ngôi vị tổng thống. Để bảo đảm vị thế quyền lực của mình, Diệm chủ trương kềm chế các phe phái chính trị đối lập cũng như ảnh hưởng từ phía nước ngoài như Mỹ, Pháp”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 21-10-2012)

Trong cuộc dẹp loạn Hòa Hảo ở miền Tây ông Diệm đã mắc phải sai lầm là thất hứa với tướng Lê Quang Vinh biệt danh là Ba Cụt để rồi sau này anh em của ông nhận lấy một hậu quả thê thảm vì cái trò bội tín ấy.

“Ngô Đình Diệm cho tiến hành các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (mở ngày 23-5-1955) và chiến dịch Nguyễn Huệ (mở ngày 1-1-1956) để tiêu diệt quân Ba Cụt nhưng vẫn không thanh toán được. Sau đó Ngô Đình Diệm chỉ đạo cho Nguyễn Ngọc Thơ âm mưu giả vờ thương thuyết, chấp nhận cho Ba Cụt về hợp tác với chính quyền, phong thiếu tướng, rồi vào phút cuối trở mặt, bắt ông…
“Vào lúc 5giờ 45 phút sáng, ngày 13 tháng 7 năm 1956, ông đã bị hành quyết bằng cách chém đầu tại Cần Thơ”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 12-10-2012)

Theo học giã Nguyễn Hiến Lê viết trong “Hồi kí Tập II” do nhà xuất bản Văn Nghệ ở Westminster, California ấn hành thì rõ ràng ông Diệm đã không giữ được chữ tín.

Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long Xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử”. (Trang – 117)
“Ngày 11-11- 60 bọn nhảy dù Vương Văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài Gòn, bao vây dinh Độc Lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ…Diệm dùng kế hoản binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ Tho lên cứu”. (Trang – 123)

Chính phủ Diệm đã thiếu sự thi hành nghiêm túc giữa một bên nhận viện trợ và một bên là trách nhiệm tương ứng khi nhận viện trợ. Lòng trung thành với Đồng minh đã viện trợ mình trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm không được tôn trọng do đó mà ông Diệm bị “thay ngựa giữa dòng” là chuyện bình thường. Cựu nghị sĩ Nguyễn Văn Chức viết trong “Việt Nam chính sử” như sau:

“Vụ Mỹ mang quân chiến đấu vào Việt Nam. Cho đến nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng: Ông Diệm đã chống lại việc Mỹ đem quân chiến đấu vào Việt Nam. Sự thật không phải vậy…
“Ông Diệm rất muốn sự có mặt của quân đội chiến đấu Mỹ tại miền Nam, đặc biệt là tại biên giới Ai Lao và vùng phi quân sự Bến Hải…
“Ông muốn người Mỹ ký một hiệp ước song phương với Việt Nam, như Mỹ đã từng ký với Đại Hàn. Chính sự đòi hỏi này là một trong những mầm sung đột giữa chính quyền Kennedy và chính quyền ông Diệm”. (VNCS – trang 184-185)

Thực sự lúc đầu theo tài liệu của CIA thì ông Diệm không muốn Mỹ đưa quân tác chiến vào Việt Nam, nhưng sau vì tình hình an ninh ngày càng xấu đi nên bắt buộc ông Diệm phải nhận quân Mỹ vào với hình thức này, hình thức nọ.
Theo John Newman trong “JFK và chiến tranh Việt Nam” do Trần Ngọc Dung chuyễn ngữ thì:

“Sau khi biết ông Diệm không chịu cho quân tác chiến vào Việt Nam, tướng McGarr liền hỏi, liệu ông có chấp nhận gửi quân tác chiến vào để “trực tiếp huấn luyện” không? Ông Diệm đồng ý ngay”. (Trang – 71)
“Về phía ông Diệm, ông phải gửi hai lá thư. Lá đầu không quan trọng, lá thứ hai ghi rõ chi tiết mọi vấn đề cộng thêm sự xác nhận việc ông đồng ý cho Hoa Kỳ đưa quân vào”. (Trang – 75)
“Vì Thuần đã chuyễn cho Nolting bằng chứng phũ phàng khiến ông Đại sứ sửng sốt: Có, ông Diệm có muốn quân đội tác chiến Hoa Kỳ vào và đề nghị bố trí sát vĩ tuyến 17 trong “vùng phi quân sự” để cản các cuộc tấn công”. (Trang-119)
“Trong cuộc họp cuối với ông Diệm, Taylor đề nghị đưa lực lượng Mỹ vào Việt Nam như là “lực lượng đặc nhiệm cứu trợ lũ lụt” mà ông Diệm rất đồng ý. Đưa đợt đầu 8.000 quân tác chiến với danh nghĩa cứu lụt (Taylor không thích chữ danh nghĩa) sẽ là đề nghị chính Taylor trình với Kennedy”. (Trang – 128)

“Ban tham mưu không nói đến hai chữ “loại bỏ” ông Diệm, mà chỉ nói rằng việc thực thi mục tiêu của Hoa kỳ tỏ ra khó khăn hơn nếu có sự hiện diện của ông Diệm và yêu cầu phía ông Diệm phải có thái độ “hợp tác thỏa đáng”. Nếu không được như vậy, “khó lòng tránh khỏi thất bại trước cuộc xâm lăng của Cộng sản”. (Trang – 160)

Tiến sĩ Philip Catton, hiện dạy ở Đại học Stephen F. Austin trong bài “Liên minh bất hòa: Ngô Đình Diệm và Mỹ” đưa ra nhận định về TT Diệm như sau:

“Đặc biệt vào những khi tình hình đất nước xấu đi, người Mỹ thúc Diệm sửa chữa cái mà họ xem là khiếm khuyết của chính thể: sự lộn xộn trong bộ máy hành chính do Diệm không muốn san sẻ quyền hành, sự thiếu dân chủ và thiếu ủng hộ chính phủ trong dân chúng. Người Mỹ lo ngại rằng quá thừa sự chuyên quyền, mà không đủ nỗ lực chinh phục thêm người ủng hộ. Nhưng họ bực tức thấy Diệm vẫn làm theo ý mình.
“Trong khi người Mỹ lo ngại về Diệm bản thân ông nhà lãnh đạo cũng lo ngại về Mỹ. Ông vui lòng chấp nhận hỗ trợ quân sự kinh tế của Mỹ, nhưng không sẵn sàng lắng nghe lời khuyên của mỹ”. (BBC online ngày 17-10-2008)

Ông Diệm đã từng được cựu hoàng Bảo Đại hai lần cử làm thủ tướng toàn quyền dân sự và quân sự, ông cũng đã từng đặt tay lên thánh giá thề chống cộng. Ông cũng đã từng ngữa tay nhận viện trợ của Mỹ để bảo vệ tiền đồn chống cộng thế mà ông đã làm ngược lại. Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu trong “Cuộc Thánh chiến chống cộng” chương “Phiến cộng trong dinh Gia Long”, ông viết:

Colby Lost Victory, 1989: 102-103. Trong cuốn Our Endless War…ấn bản tiếng Việt của tập hồi ký trên ghi rằng Nhu được trung tá Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy đưa đến gặp Phạm Hùng và hai người khác…
“Trần Thiện Khiêm báo cáo với Mỹ rằng Nhu tuyên bố với các tướng (kể cả Dương Văn Minh và Lê Văn Nghiêm) là nếu Mỹ cắt viện trợ, Nhu có thể liên lạc với Hà Nội yêu cầu giảm bớt cường độ chiến tranh trong khi thương thuyết một thỏa ước vĩnh viễn (FRUS, 1961-1963,IV: 89-90).

“Lời chứng của Lodge trước Ủy Ban Ngoại giao Thượng viện ngày 30-6-1964, còn đi thẳng vào vấn đề hơn: “Mùa Thu (1963) nếu chính phủ Diệm không bị dứt điểm và tồn tại thêm khoảng một tháng nữa, tôi nghĩ chúng ta đã thấy Cộng sản cướp chính quyền . Tôi nghĩ yếu tố này rất quan trọng”. (CTCCC – trang – 382)

Ở giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này anh em ông Diệm đã phản bội lại lời thề “chống cộng” với Quốc trưởng Bảo Đại cũng như với các tướng tá trong quân đội và nhất là với Đồng minh Hoa kỳ nên hai ông đã chọn con đường: “tự sát”.

“Khi biết quan hệ với Washington có thể phải đoạn tuyệt, hai ông Nhu và Diệm tỏ ra muốn thương thuyết với Hà Nội. Ý định này có đã thể nảy sinh ra từ cuối tháng Năm khi Hồ Chí Minh tuyên bố trong một buổi phỏng vấn với nhà báo Úc
Wilfred Burchett rằng chính phủ Ngô Đình Diệm và MTGPMN có thể thương thuyết ngưng bắn và thành lập một chính phủ Liên hiệp”. (Việt Nam 1945-1995 – trang 451)

II- Gia đình trị.

Mỗi khi nhắc đến ông Ngô Đình Diệm thì hầu như ai cũng biết rằng đây là triều đại của một gia đình trị nặng nề mà hậu quả của nó kéo dài đến ngày hôm nay vì nhân tâm vẫn còn chia rẽ do những lời bình phẫm: khen-chê.

“Trong nền Đệ nhất Cộng hòa, ngoài TT Diệm, quyền hành bị tập trung vào trong tay một số người thân trong gia đình như Ngô Đình Nhu, Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Thục; và một số ít người thân tín như Trần Kim Tuyến, Lê Quang Tung và đảng Cần Lao”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 21-10-2012)

Cựu Đại sứ VNCH Bùi Diễm trong quyễn “Gọng kìm lịch sử”, ông viết:

“Đến năm 1960 thì rõ rệt là đường lối của ông Diệm đưa đến những hậu quả mà nhiều người đã tiên đoán. Trên thực tế, chế độ Cộng hòa I đã trở thành chế độ gia đình trị. Nạn tham nhũng, tình trạng ganh đua giữa người này người khác để tỏ lòng trung thành với nhà Ngô (một điều kiện tiên quyết để được chính quyền trọng dụng) làm lũng đoạn cả guồng máy nhà nước, dân sự cũng như quân sự”. (GKLS – trang 160)

Học giả Nguyễn Hiến Lê trong “Hồi kí tập II” đặc biệt nhấn mạnh về vấn đề gia đình trị của ông Diệm qua những nhân vật:

“… Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng…
“Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành…Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô”. (Trang – 115-116)

“Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần Văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ Liên đới, “bà lớn” nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài Gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phải nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng…
“Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 650 đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700 đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm”. (Trang 120-121)

Việc làm ăn phi pháp của bà Cả Lễ cũng được trung tá Vương Văn Đông, người đứng lên đảo chính ông Diệm năm 1960 nhắc tới trong hồi ký “Binh biến 11-11-1960” như sau:

“Nhân dịp tuyển cử tháng 3 -1956, ông Ngô đình Diệm cho lệnh Bộ trưởng Công chánh, ông Trần Văn Mẹo kiêm nhiệm bộ Kinh tế, chuyên chở 5 ngàn tấn gạo ra miền Trung bán hạ giá cho đồng bào với mục đích tạo không khí thuận lợi cho chế độ trong dịp tuyển cử. Nhưng tại địa phương, việc bán gạo quảng cáo của chính quyền với giá 650 đ một tạ có thể gây ảnh hưởng tai hại cho độc quyền địa phương của cậu Cẩn và bà Cả Lễ chị ruột của ông Diệm, họ thường bán gạo chợ đen với giá 1.700 đ một tạ…Nghiệp đoàn Cả Lẽ trước tình trạng “cạnh tranh” này đã chuyễn việc bán gạo chợ đen ở miền Trung ra việc bán lậu với chính quyền miền Bắc số gạo tích trữ được”. (Trang – 59)

Nhà báo Nguyễn Kỳ Phong trong bài “Tài liệu mật của CIA về gia đình họ Ngô và các tướng lãnh” phần nói về Ngô Đình Cẩn ông viết như sau:

“CIA đã than phiền nhiều lần về những hoạt động của đảng Cần Lao và hành vi của Ngô Đình Cẩn. Nhưng mỗi lần CIA than phiền với ông Nhu về những hoạt động bí mật-đôi khi trái phép-của ông Cẩn thì ông Nhu “đưa hai tay lên trời” với một thái độ buông xuôi vì ông không thể nào làm gì được.
“Ở một tài liệu khác cho biết, khoảng giữa năm 1956, CIA nhận được nguồn tin cho biết ông Cẩn đang bàn kế hoạch để loại trừ Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh Thành và Cố vấn Ngô Đình Nhu ra khỏi vòng ảnh hưởng ở dinh tổng thống. Qua nhiều trang, chúng ta đọc được sự bất lực của chính phủ Sài Gòn đối với “lãnh chúa” Ngô Đình Cẩn ở miền Trung…
“Tài liệu thú nhận vào năm sau cùng của nhà Ngô, Hoa kỳ có một phần lớn trách nhiệm trong kế hoạch hạ bệ tổng thống Diệm. Nhưng chính gia đình ông Diệm cũng hủy hoại vì sự chia rẽ anh em trong nhà.
“Từ mùa xuân năm 1963 ông Nhu yêu cầu CIA đừng nói lại những gì ông và CIA trao đổi. Và qua nhiều lần nói chuyện với CIA, ông Nhu tuyên bố ông muốn thay tổng thống Diệm. Trong khi đó thì bà Nhu thì thường làm hùng làm hổ với tổng thống Diệm: trong lúc bầu cử Hạ viện năm 1963, bà Nhu muốn ủng hộ 30 ứng cử viên mà bà ta ưng ý.
“Ông Diệm không đồng ý, nhưng bà Nhu “cằn nhằn, to tiếng” cho đến khi tổng thống Diệm nhượng bộ”. (Đàn Chim Việt online ngày 15-10-2012)

Theo tiến sĩ Phan Văn Song trong bài “Thử có một cái nhìn lương thiện về chế độ Đệ Nhất Cộng hòa” có đoạn ông viết:

Tôi lớn lên trong gia đình Đại Việt. Một đảng phái Quốc gia, với thành tích đấu tranh chống Cộng, chống Thực dân như vậy, ông Diệm lại trục xuất ông Nguyễn Tôn Hoàng và Nguyễn Ngọc Huy lưu vong, các đồng chí còn lại cho Mật vụ truy lùng bắt…
“Ông chỉ dùng người của phe phái mình, tức theo tiêu chuẩn “trung thành hơn khả năng”. Cũng là một cách “hồng hơn chuyên” mà thôi! ..
“Việt Nam Cộng hòa sụp đỗ do nạn bè phái, bạn bè, nịnh bợ. Cùng quê, cùng xóm, cùng Đảng, cùng bạn, cùng bè, chạy chọt, nịnh bợ (Chủ nghĩa Tam Đ)”. (Đối Thoại online ngày 24-11-2004)

III – Kỳ thị tôn giáo.

Chế độ Ngô Đình Diệm đã mắc nhiều sai lầm lớn, mà trong đó có kỳ thị tôn giáo là một, chính vì cái sai lầm nầy mà ông Diệm đã đẩy một số nhà sư bất mản chống lại hoặc ngã theo cộng sản như Thượng tọa Thích Trí Quang là điều dể hiểu. Thuở ấy Phật giáo thuộc về đa số của dân tộc bị đàn áp như thế mà chỉ có những phản ứng tiêu cực chớ nếu như với Hồi giáo ngày nay thì hậu quả ấy sẽ ra sao? Học giã Nguyễn Hiến Lê nhận định trong “Hồi kí Tập II” như sau:

“Đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dể thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi Công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh trưởng”. (Trang – 120)

“Tinh thần phản kháng của dân chúng càng tăng thì tinh thần của quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt Cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ Tho)…Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật Đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật Đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương”. (Trang -124)

“Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (Sài Gòn) giữa một đám 800 nhà sư và
tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt Nam nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung”. (Trang -125)

Và giáo sư Lê Xuân Khoa kể:

“Đầu tháng Tư, nhân dịp lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm Tổng giám mục Ngô Đình Thục được thụ phong giám mục, cờ Vatican được treo nhiều nơi ngoài nhà thờ ở Huế và những vùng phụ cận. Đầu tháng Năm, để tổ chức lễ Phật Đản các Phật tử treo cờ Phật giáo…Do sự can thiệp của TGM Thục, ngày 6-5 phủ tổng thống ra lệnh không cho treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên chùa…Phó tỉnh trưởng Đặng Sỹ ra lệnh cho cảnh sát và quân đội giải tán biểu tình khiến cho 8 người chết và 15 bị thương”. (Việt Nam 1945-1995 – trang 449)

Jonh Newman trong “JFK và Chiến tranh Việt Nam” cũng xác nhận rõ tình hình này:

“…người Bắc di cư được ưu đãi hơn đa số dân chúng theo Phật giáo. Giáo hội Công giáo được hưởng nhiều đặc quyền vì Tổng giám mục là GM Ngô Đình Thục, bào huynh của ông Diệm. Tháng Tư 1963 ông Thục cho tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm được tấn phong (lễ ngân khánh) và cờ của Tòa Thánh giăng lên khắp mọi nơi…
“Bên Phật giáo vẫn treo cờ, đám đông vẫn tụ tập để đón mừng Phật Đản. Phó tỉnh trưởng là người Công giáo, ra lệnh cho đám đông giải tán nhưng bất thành, ông ra lệnh cho quân đội bắn vào đám đông (ngày 8-5). Qua sáng hôm sau, lãnh sự tại Huế là John Helbe báo cáo rằng có 7 người chết, gồm hai trẻ em bị xe thiết giáp cán thiệt mạng và 15 người khác bị thương”. (JFK –trang – 319)

Qua sự “Đánh giá lại Ngô Đình Diệm” của tiến sĩ Edward Miller, người đã nghiên cứu về nhân vật Ngô Đình Diệm, ông đã sống và làm việc ở Đài Loan, Singapore và Việt Nam, nhận định như sau:

“Đầu tiên là sự trỗi dậy của một hình thức chủ nghĩa dân tộc mới của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Chủ nghĩa dân tộc công giáo được gắn với gia đình Diệm và đặc biệt với anh trai, hồng y Ngô Đình Thục. Diệm cũng gần gủi với Nguyễn Hữu Bài, một nhân vật Công giáo mà nỗi tiếng đã khuyên Diệm treo ấn từ quan năm 1933 để phản đối chính sách của Pháp…
“Cuối cùng và quan trọng nhất, trong những năm này Diệm lần đầu tiên tiếp xúc khái niệm “chủ nghĩa Nhân vị”, một học thuyết mượn từ triết lý Thiên Chúa giáo Pháp. Ngô Đình Nhu hướng dẫn ông đến với lý thuyết ấy, và đây cũng là người sau này thuyết phục anh trai đưa học thuyết thành hệ tư tưởng chính thức của chính phủ Diệm”. (BBC online ngày 16-4-2009)

Cũng vì kỳ thị tôn giáo, đàn áp Phật giáo mà hai nhân vật quan trọng của chế độ đã phản đối và cùng từ chức trong một ngày, đó là:

-Người thứ nhất là Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu.

“Vốn là một nhà kỹ trị, ông hầu như đứng ngoài mọi biến động của thời cuộc bấy giờ. Tuy nhiên, là một Phật tử với Pháp danh Minh Không, ông phản đối biện pháp đàn áp khốc liệt của chính phủ Ngô Đình Diệm với Phật giáo. Ông cạo trọc đầu và sau đó từ chức Bộ trưởng ngày 22-8-1963 để phản đối hành động tấn công các chùa Phật giáo của chính quyền VNCH”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 30-10-2012)

-Người thứ hai là Đại sứ Trần Văn Chương thân phụ của bà Trần Lệ Xuân.

Trần Văn Chương xuất hiện trên chính trường khi ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng bộ Ngoại giao của đế quốc Việt Nam trong chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945. Năm 1954 ông được phái làm Đại sứ VNCH tại Mỹ dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Ngày 22-8-1963 ông từ chức Đại sứ để phản đối chính sách nhiều người cho là ưu đãi đạo Thiên Chúa giáo La Mã của TT Ngô Đình Diệm”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 30-10-2012)

IV – Suy yếu về quốc phòng.

Nạn bè phái ngày càng phát tiển, nhân tâm ngày càng ly tán thì tình hình an ninh quốc gia ngày càng suy sụp, địch họa ngày càng lớn dần và chiến cuộc ngày càng leo thang. Tháng 12-1960 cộng sản miền Bắc đã chỉ đạo cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ và những nhà trí thức bất mãn với nhà Ngô thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và đã gây cho chính quyền của ông Diệm một số thiệt hại đáng kể như sau:

- “Lực lượng giải phóng gồm gần 1 tiểu đoàn và một số đoàn quân giáo phái tấn công ngày 26-1-1960…Trận Tua Hai mở đầu cho cuộc đồng khởi ở Đông Nam bộ. Sau Tua Hai, lực lượng giải phóng Tây Ninh gỡ 50% đồn bốt, giải phóng 24 xã và làm chủ nhiều phần tại 19 xã khác”. (Wikipedia online ngày 25-10-2012)

- “Lúc 10 giờ sáng ngày 18 tháng 9-1961, ba tiểu đoàn VC tấn công tỉnh lỵ Phước Vinh, cách Sài Gòn 60 dặm về phía Bắc. Quân CS đánh tan lực lượng Dân vệ một cách dễ dàng đồng thời giết chết 42 thường dân. Hai đại đội BĐQ đang tuần tiểu ở khu vực lân cận, thay vì phải đến tiếp cứu, đã rút vào rừng”. (JFK và chiến tranh VN của John Newman – trang 112)

- “Ngày 2-1-1963 quân đội VNCH mở cuộc tấn công vào Ấp Bắc, một địa điểm do cộng sản kiểm soát thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, cách Tây Nam Sài Gòn 40 dặm. Mặc dù đông gấp 4 lần quân địch và có sự yểm trợ của thiết giáp và máy bay trực thăng, ba tiểu đoàn bộ binh của VNCH đã bị quân cộng sản phục kích gây thiệt hại nặng nề”. (Gs Lê Xuân Khoa – VN 1945-1995 – trang 448)

- “Tháng 2-1960: Bản tin Tình báo USARPAC nói rằng chương trình Ấp chiến lược được tiến hành “một cách lổn chổn và rời rạc”. Song đó bản báo cáo ngày 13-7 của CIA cũng chỉ ra “yếu điểm chính” của chương trình này là “công tác xây dựng đầu voi đuôi chuột” thiếu “sự hợp nhất”…khi bản tin của USARPAC (tháng 12) lên tiếng báo động “dầu cho các báo cáo có nói tốt cho chương trình Ấp chiến lược đến mức nào đi nữa, sự thật của nó cũng rất tồi”. (JFK và chiến tranh VN – trang 315)

- Ngày 30-10-1963, Nguyễn Ngọc Thơ nhận lời mời riêng của Lodge gặp mật phái đoàn điều tra McNamara-Maxwell Taylor và ông Thơ đã xác nhận kế hoạch Ấp chiến lược của Diệm-Nhu thất bại, toàn xứ chỉ có lối hai hay ba chục ấp đủ sức tự bảo vệ và nông dân bất mãn chính quyền”. “Lodge in VN” của A.Blair – trang 61”. (Văn Hóa tháng 11-2001)

- “Và họ hy vọng rằng kế hoạch “Ấp chiến lược” thành công sẽ giúp VN giảm bớt tùy thuộc vào Hoa Kỳ mà họ cảm thấy nguy cơ can thiệp ngày càng gia tăng…nhưng thất bại trong chương trình “Ấp chiến lược” đã làm hỏng tất cả những cố gắng khác về quân sự cũng như về kinh tế và chính trị”. (Gs Lê Mạnh Hùng trong bài “Một liên minh sóng gió” – Việt Tide số 352 ngày 4-11-2008)

5- Đảo chính.

Vì là một người có đầu óc bảo thủ, tự cao, tự đại, ganh tỵ, hẹp hòi cho nên ông Diệm không bao giờ chịu lắng nghe lời góp ý chân thành của những bậc thức giã, mà chỉ nghe những bọn xu nịnh, a dua…Do vậy mà chính phủ của ông ta đã trải qua nhiều sóng gió nhưng ông vẫn không thức tỉnh cho đến khi không còn thức tỉnh được nữa.

1- Đô trưởng Trần Văn Hương từ chức để phản đối chính sách độc tài gia đình trị của thủ tướng Ngô Đình Diệm.

2- Bốn vị bộ trưởng đồng loạt từ chức vào cuối năm 1960 gồm có các ông Trần Chánh Thành (Bộ Thông tin), Trần Trung Dung (Bộ Quốc phòng), Lâm Lễ Trinh (Bộ Nội vụ) và Nguyễn Văn Sĩ (Bộ Tư pháp).

3- Các sĩ quan quân đội đảo chính: Ngày 11-11-1960 đại tá Nguyễn Chánh Thi, trung tá Vương Văn Đông và thiếu tá Nguyễn Triệu Hồng thuộc lực lượng Lữ đoàn dù đã tấn công dinh Độc Lập yêu cầu ông Diệm cải tổ chính phủ nhưng ông đã dùng kế hoản binh “hứa láo” để chờ quân cứu giá.

4- Ngày 27-2-1962, hai sĩ quan Không quân cấp úy là trung úy Phạm Phú Quốc và trung úy Nguyễn Văn Cử lái hai chiếc phi cơ A-I Skyraider ném bom dinh Độc Lập cảnh cáo ông và những người trong gia đình.

5- “Vào ngày 25 tháng Tám năm 1963, một bức diện mật của bộ Ngoại giao gởi tòa đại sứ tại Sài Gòn, cho phép bảo các tướng lãnh miển Nam đến gặp Tổng thống Diệm, yêu cầu ông cách ly với ông Ngô Đình Nhu.
“Nếu ông Diệm không nghe thì các tướng lãnh đó được phép chống lại ông Diệm…
“Vào thời điểm đó, bản phúc trình của bộ Quốc phòng, của bộ Ngoại giao và CIA báo Tổng thống Kennedy rằng ông Diệm đã từ chối cải tổ và do đó họ không tin rằng Tổng thống Diệm có thể giúp Hoa Kỳ chiến thắng”. (“Cuộc chiến VN qua những băng ghi âm tại Nhà Trắng” – Pv Lê Dân-RFA online ngày 15-3-2003)

6- Giọt nước đã tràn ly, ngày 01-11-1963 Hội đồng Quân nhân Cách mạng do trung tướng Dương Văn Minh, người đã từng vào sinh ra tử với chế độ phải hợp cùng các tướng lãnh khác một lòng đảo chánh và anh em ông Diệm, Nhu phải đền tội bằng cái chết một cách thảm thiết trên thiết vận xa vì Chúa đã không phù hộ hai ông.

Theo nhận định của tiến sĩ Kathryn Statler, Phó giáo sư khoa Lịch sử, Đại học San Diego, Hoa kỳ từ năm 2005. Trong bài viết gửi riêng cho BBC “Đánh giá lại Diệm: Cái nhìn khác về miền Nam”, bà viết:

“Sau khi đã loại bỏ được ảnh hưởng của người Pháp ở miền Nam, ông lại xoay sang mục tiêu tìm kiếm độc lập trước người Mỹ…
“Diệm cũng phá vỡ kế hoạch bầu cử năm 1956 theo như quy định của Hiệp định Geneva, với lý do Việt Nam đã bị loại trừ khỏi cuộc đàm phán và đã không ký thỏa thuận chung cuộc.
“Từ 1954 cho đến khi bị ám sát năm 1963, Diệm hoan nghênh viện trợ Mỹ nhưng chống lại cố gắng chỉ đạo chính sách của miền Nam…
“Diệm không phải là bù nhìn. Sau rốt, chính vì Diệm quyết đi theo con đường riêng mà các tướng lãnh miền Nam và Hoa kỳ đã lật đổ ông”. (BBC online ngày 21-11-2008)

Thay lời kết.

Học giã Nguyễn Hiến Lê viết trong “Hồi kí Tập II:

“Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô”. (Trang – 122)
“Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng”. (Trang – 126)

© Đại Nghĩa

© Đàn Chim Việt

 

180 Phản hồi cho “Ngô Đình Diệm, vị tổng thống còn nhiều tranh cãi”

  1. Trường Giang HN says:

    Trong hộp điện thơ của tôi còn có bài viết này. Nhận thấy bài viết có tính cách thảo luận đúng đắn và xây dựng, tôi xin được đưa lên đây để rộng đường dư luận. Vì bài quá dài, tôi tạm phân làm 2 đoạn.
    —————

    TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VỚI SÁCH LƯỢC BANG GIAO HÒA GIẢI SÁNG SUỐT, VỮNG VÀNG, VƯƠNG ĐẠO

    KÍNH GỬI BS NGUYỄN THỊ THANH (thư số 2)

    Như tôi đã hứa với bà, hôm nay tôi xin gửi “thư số 2” đến bà, để góp ý về vấn-đề mà bà nêu lên: { “NĂM 1962, TT NGÔ ĐÌNH DIỆM NGƯỜI CHỦ TRƯƠNG HÒA GIẢI ĐẦU TIÊN VỚI CSBV. Như vậy từ năm 1963 là thời chế độ CSBV còn ác liệt, mà TT Ngô Đình Diệm đã quyết tâm giao hòa với CSBV… Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh” } * Đây chỉ là một bài viết đã cũ, nhưng có liên-quan đến điều mà bà nêu lên, nên tôi chép lại gửi bà như một ý-kiến phản-hồi. Lê Xuân Nhuận
    ***********************

    BS THANH TRÃ LỜI 3 BỨC THƯ CỦA ÔNG LÊ XUÂN NHUẬN NHƯ ĐÃ HỨA

    Từ xưa tôi rất phấn khởi làm chính trị đạo đức chống lý thuyết CS cùng với chồng khi làm bác sĩ tại Paris, và ngay khi còn là thiếu nữ SV Y khoa Paris. Sau đó về nước trông coi bộ Xã Hội Cứu Trợ, và làm việc phòng mạch tư cho đến 30/4/75. Sau 30/4/75 tôi vẩn làm nghành Y cho Khóm, Phường, khi nhà nước CS kêu gọi. Nhưng tôi ngây thơ, cố làm đúng theo câu “Cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”, theo đường lối củ chống TT Thiệu tham nhũng trong Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng năm 1974, viết đơn tố cáo 6 vụ tham ô những nơi tôi làm việc. Tôi bắt đầu đưa đơn tố tham ô từ tháng 9/1975 đến đầu năm1980. Ngày 30/8/1980 tôi bị bắt. Thật ra sau 30/4/75, đa số thì giờ tôi lo khám bệnh, nghiên cứu viết bài y khoa, tôn giáo, văn hóa, khảo cổ và làm việc thiện nguyện. Ngay sách Y học, Văn hóa tiền sử, khảo cổ viết ra, tôi cũng không quan tâm xuất bản. Tôi tránh mọi phê phán chính trị, nhưng tôi lầm rằng tham ô là một tệ nạn xã hội phi chính trị.

    Trước đây vào ngày 8/12/1991 em trai tôi An-Phong Nguyễn Văn Diễn (tôi không có em gái tu sĩ ở VN như có người bịa trên DĐ, chỉ có chị gái tu ở Pháp về làm việc ở Vientiane Lào) đã tổ chức cho tôi thuyết trình trước 45 vị lãnh đạo các đảng phái, tôn giáo, hội đoàn các giới về Vấn Đề “Nên chăng ? Thương thuyết với CQ CSVN hầu cứu đất ước tránh khỏi băng hoại xã hội và thoát ngoại xâm lăng Tầu Ô”. Mọi người cùng tâm đắc, đồng thuận. Vì vậy khi thấy TC đã và đang xâm lăng đất nước, tôi bèn khẩn thiết bày tỏ lên DĐ lời kêu gọi làm hòa với CQ CSVN đề cứu nước. Tôi liền bị một số NVHN lên tiếng đấu tố.

    Tôi thấy ngay chính bọn gián điệp TC nằm vùng chủ trương “ngao sò đánh nhau, ngư ông hưởng lợi” đã tấn công tôi trên DĐ một cách bẩn thỉu, vô văn hóa. Chúng lại chạy theo đuôi Nguyễn Chí Thiện đưa ra những lời thóa mạ tôi một cách vô liêm sỉ, tục tĩu khi thấy tôi bắt đầu góp ý cùng nhiều vị rằng NCT không đúng là tác giả tập thơ Vô Đề. Lúc đầu tôi ngạc nhiên về tư cách và trí não u ám của một số người trên DĐ. Thời gian ngắn sau tôi mới hiểu rằng đó là một sự sắp đặt có tính cách quốc tế. Ngay ông Hồ Anh GĐ VNTP cũng phải sợ mà rút lui không dám trưng bày sự thật ông nắm trong tay.

    Sau đó để chứng minh cho ý kiến xây dựng của tôi, tôi đã kể lại một sự kiện lịch sử liên quan đến TT Ngô Đình Diệm mà nhiều người đã biết, mổi người biết một khía cạnh khác nhau. Ngày nay qua lời ông Lê Xuân Nhuận (LXN) tôi mới biết người ta cố tình gán ghép, tuyên truyền bậy bạ để bàu chữa tội lỗi đã giết đi một nhà lãnh đạo lỗi lạc của thế kỷ, đã làm cho đất nước VN phải suy sụp khủng khiếp. Người ta là đã cố làm cho chính dân VN hiểu lầm lãnh đạo tài đức quí báu của mình là TT Diệm.

    Vậy đây cũng là dịp để tôi nêu lên một vài nét về hành động khôn ngoan của người. Một việc làm tốt lành cho đất nước, chưa thì hành được đã bị phá vở để mà tuyên truyền cho người ta hiểu méo mó, hạ cấp: TT Ngô Đình Diệm vì yêu dân, yêu nước, vì quyền tự quyết quốc gia, vì tin ở tính chất thuyết phục của chế độ cộng hòa, ở sức mạnh của QLVNCH, đã nên sắp đặt giao bang trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau với CS Bắc Việt để lập nên một Liên Bang VN với 2 Miền, 2 chính thể, đua nhau làm cho dân no ấm, ai lo xây dựng đất nước trong chính thể riêng của người ấy trong hòa bình thịnh vượng cho đất nước và cho toàn dân.

    Trước vấn đề tôi nêu ra, ông Lê Xuân Nhuận có ý muốn thảo luận với tôi. Bức thư đầu tôi đã trã lời. Trong bức thư thứ 2 của ông, tôi thấy đến 3 bức thư, tôi trã lời luôn cả 3 bức thư và nếu có thì giờ sẽ trã lời tiếp nhiều ý kiến của những người khác kể cả ngoại quốc mà tôi thấy trong trang email của ông liên quan đến TT Diệm.

    —————–
    Thưa ông Lê Xuân Nhuận, tôi nghe ông có tiếng chống Cụ Diệm, lại yêu cầu tôi thảo luận về cụ Diệm, tôi cho như vậy là rất lý thú, mong rằng tôi cò dịp giải tỏa sự hiểu lầm của ông đối với TT Ngô Đình Diệm. Những điều tôi trã lời, đa số dựa trên hiểu biết của chính tôi và do những lời Ba tôi là dân biểu tại BMT, quản lý rừng cấm cao nguyên, lo dinh điền ở BMT và là đàn em thân tín của Cụ Diệm kể lại. Cũng mừng là tôi được viết về TT Ngô Đình Diệm vào mấy ngày nầy để dâng lên người lãnh tụ bậc nhất của VNCH mà tôi kính mến khôn lường, lời tường thuật của tôi về Cụ, dầu thế nào đi nữa, cũng là những lời rất chân thật, như những Đóa Hoa nguyện cầu tôi kính dâng Cụ vào ngày Giổ thứ 55. (lời bình = Có lẽ tác giả viết lộn năm ?)

    Tôi đã mục kích, khi cụ Diệm về nước làm Thủ Tướng, là với 2 bàn tay trắng và phải xếp đặt cuộc di cư khổng lồ của Đ/B Bắc Việt. Đài phát thanh do Bình Xuyên chiếm cứ, ra rã suốt đêm ngày lên tiếng thóa mạ Cụ Diệm hết sức. Đó là thời kỳ Cụ Diệm rất vất vả tưởng khó lòng trụ nổi. Năm 1955 Bình Xuyên quyết đánh phá dữ dội, CS lại pháo kích, Pháp cũng duồng gió bẻ măng giết hại người tài của Cụ Diệm đặc biệt là Trịnh Minh Thế. Chính ba tôi nói Cụ Diệm khóc khi hay tin Trịnh Minh Thế bị Tây bắn lén (vì Trịnh Minh Thế là tướng tài và rất căm ghét thưc dân Pháp, khác với nhóm tướng gốc theo Tây thực dân), vậy mà người ta vu là Cụ Diệm giết Trịnh Minh Thế.
    Nhưng chỉ trong thời gian ngắn Cụ Diệm đã ổn định được tình hình. Người Mỹ chỉ làm cố vấn. Ai trong chúng ta cũng phải công nhận dưới thời TT Diệm nhân dân Miền Nam khắp nước sống hạnh phúc nhất.

    Khi xẩy ra thường xuyên chuyện đêm đêm du kích CS về giết hại người QG trong các lành xã, ngày ngày QLVNCH lại đi bắt giết CS mà họ có thể chỉ là nạn nhân oan của cả 2 phe. Cụ Diệm mới nghĩ ra việc lập Ấp chiến lược.

    Lập ấp chiến lược là điều làm mất lòng dân vô cùng, bị dân mắng chưởi và chống đối kịch liệt, nhưng đó là chính sách cần thiết, không thể làm khác. Cho đến khi ổn định dân chúng mới thấy đời sống trong ấp chiến lược là hạnh phúc, văn minh. Cụ Diệm đã thành công chống cộng với Ấp chiến lượt đến 80, 90%. Cụ lại cấm người Hoa làm 18 ngành nghề. Tới đây đã bắt dầu cho thấy nhiều yếu tố khiến nhiều người bất mãn tuyên truyền cho dân ghét cụ Diệm.

    Đặc biệt dân còn bất mãn hơn về việc thay đổi quân cán chính Miền Nam để dành chổ cho một số quân cán chính bắc di cư làm việc. Trong số những tướng tá từ trong tay người Pháp mà Mỹ đã mua lại với số tiền là 5.000.000$, rồi trao lại cho cụ Diệm thì đại đa số chỉ biết chống cộng nhưng không chống Tây. Đó cũng là nguồn gốc tuyên truyền làm dân một số lớn dân Miền Nam vốn trước kia là dân Tây thuộc địa chứ không như dân bảo hộ như Miền Trung và Bắc, sinh bất mãn, vì họ cho rằng tại sao phải chống Pháp là mẩu quốc của họ, do bị nhồi sọ suốt gần 100 năm.

    Trong số các bộ trưởng quân cán chính có ai tham nhũng thì ông cụ cho xử nặng nề, xin xỏ lạy lục đều vô ích, cũng sinh ra một số quân cán chính bất mãn. Người ta gọi “giáo đa thành oán” là như vậy. Nhưng trên thế gian có chính phủ nào mà dân hoàn toàn bằng lòng không?

    Tôi biêt rõ một câu chuyện, vì ba tôi là chủ trong cuộc, xin kể ra đây: Cụ Diệm cho dấu thầu rừng thưa Ban Mê Thuộc, lấy đất di tản dân nghèo Miền Trung nhất là Quảng Trị lên khai khẩn làm ăn. Phu nhân tổng trưởng Phủ Tổng Thống vốn là bạn thân của Ba tôi (tôi xin dấu tên) đấu trúng thầu. Bà phu nhân lên Ban Mê Thuột canh tác rừng thưa. Nhưng bà lại vào rừng cấm đốn gổ quý chở về Nha Trang qua tay ông Kiểm Lâm lại là một người bà con của Ba tôi. Được tin cấp báo ba tôi cho chận bắt một loạt gổ từ Ban Mê Thuộc đến Nha Trang. Bà phu nhân bộ trưởng đến khóc lóc với Ba Mạ tôi xin cứu vì là chổ thân tình lâu đời. Người bà con kiểm lâm cũng lên BMT năn nĩ ba tôi cứu. Ba tôi vẩn mang hồ sơ về báo cáo ông Cụ Diệm. Cụ tức giận xanh xám mặt mày, phán một câu thẵng thừng: “Lấy guốc mà đập bể mặt chúng đi.” Ba tôi phải đưa nội vụ ra tòa. Nhóm phá rừng nầy rất mạnh thế, đã viết bài chưởi ba tôi suốt một tháng trên các báo Sài gòn. Việc nầy tôi biết được là do LM Trần Tranh Giãn, Viện Trưỡng GXCG VN tại Paris kể lại.

    Việc cụ Diệm chống thực dân Pháp là nguyên nhân bất mãn lớn của nhóm tường tá gốc thực dân, bọn Pháp lại “xúi giặc, đổ đầu thêm vào lữa”. Vì vậy Pháp muốn hoàng đế Bảo Đại truất phế TT Ngô Đình Diệm với bất cứ giá nào. HĐ Bảo Đại phải nghe theo, liền gọi cụ Diệm qua Pháp. Cụ Diệm biết đi là để bị truất phế, cụ cương quyết ra đi, mặc dầu toàn quân cán chính ra sức ngăn cản. Không ai ngăn cản được Cụ, bất dắc dĩ tất cả Nội các và Quốc hội phải lập mưu, đi kêu toàn thể dân Hố Nai về đầy ngập Tân Sơn Nhất để ngăn cản. Nhờ vậy Cụ Diệm không đi Pháp được. Cụ Diệm báo tin dân không cho đi và xin mời HĐ Bảo Đại về nước chấp chánh.

    Thật ra nếu Bảo Đại có chút lòng với đất nước thì có thể về lấy lại ngôi vua hay làm quốc trưởng, nhưng ông ta ham ăn chơi và bị Pháp giữ để làm áp lực Cụ Diệm, nên Bảo Đại không về mà lại còn tiếp tục ra lệnh Cụ Diệm phải sang Pháp lãnh chỉ thị.

    Vì lý do đó và thể theo lời yêu cầu của Nội các và Quốc Hội, Cụ Diệm phải tổ chức Trưng Cầu Dân Ý: Năm 1955 có cuộc bầu cử chọn một trong 2 người HĐ Bảo Đại hay Cụ Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Sự truất phế một vị vua bất tài vô trách nhiệm là cần thiết nên cụ Diệm bất đắc dĩ đã phải làm. Đó hoàn cảnh, là con đường khôn ngoan đất nước phải đi tới chứ không thể gọi là phản bội.
    Vả lại HĐ Bảo Đại đã buộc Cụ Diệm tuyên thệ trung thành với Tổ quốc và Nhân dân dưới chân Thánh Giá chứ không hề buộc Cụ Diệm trung thành với Bảo Đại. Khi đã không còn vua Bảo Đại đương nhiên Cụ Diệm phải tuyên nhiệm chức Tổng Thống nước Cộng Hòa Việt Nam.

    Cụ Diệm có cái thiếu sót là chính Cụ không hề lên đài Phát thanh nói chuyện với quốc dân đồng bào, cùng giải thích về chương trình phát triển đất nước cũng như giải tỏa mọi hiểu lầm, vì vầy mọi sự hiểu lầm về Cụ ngày càng gia tăng. Thêm nữa Cụ lại nhu nhược vì nể em trai mà không bắt tội em dâu là vợ cố vấn Ngô Đình Nhu, khi bà nầy dám cả gan lên đài phát thanh phát biểu những điều miệt thị Phật Giáo trái ngược với đường lối cũng như công trình mà chính phủ đã thu xếp ổn định.

    Cụ Diệm chỉ biết hăng hái tích cực làm việc ích quốc lợi dân, nhưng việc thông tin tuyên truyền cho dân chúng hiểu cái lợi ích của công việc thì hầu như không có. Đợi đến khi người người hiểu được điều lợi ích thì sự bất mãn đã thấm sâu vào lòng dân lâu rồi. Tuy vậy dân chúng đa số vẩn yêu mến Cụ. Tôi chỉ xin sơ lượt như vậy, nếu có chổ nào sai, thiếu, mong quý vị thông cảm và chỉ bảo.
    Khi người Hoa Kỳ mới đến VN dưới thời TT Ngô Đình Diệm, họ coi khinh chính quyền và QLVNCH vô cùng. Ông Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn tự coi như là cấp trên của TT Việt Nam, muốn gì là ra lệnh cho TT y như VN bị Tây bảo hộ trước kia.

    Ai cũng biết việc Cụ Diệm cổi áo từ quan lúc làm thượng thư bộ lại (ngang hàng với thủ tướng chính phủ) cho vua Bảo Đại, chỉ vì cụ không chịu Tây thực dân ra lệnh. Vì vậy Cụ cũng không chấp nhận kiểu bảo trợ của Mỹ như Tây ngày trước.

    Khi TT Diệm tỏ rõ tư cách tự quyết của lãnh đạo một nước độc lập thì Mỹ lại càng có nhiều hành động khắc bạc, bất bằng lòng. Khác với phong cách Mỹ dối với Nhật, vì hai quả bom nguyên tử đã làm tổn thương nước Nhật quá nhiều.

    Chúng ta cũng cần hiểu thành kiến của người Mỹ về VN trong những năm sau 1954 trước đây và bây giờ hoàn toàn khác xa nhau như trời với đất. Trước những hành động của người Mỹ, TT Diệm cố hành động gấp để có một QLVNCH hùng mạnh hầu tạo một lực lượng tự vệ độc lập hữu hiệu. Nhưng người Mỹ vẩn khinh bạc QLVNCH không cung cấp khí giới tối tân. TT Diệm chống đối quyết liệt những lần Mỹ đề nghị đổ quân vào VN, thả bom Bắc Việt và diệt rừng rú VN bằng thuốc độc Dioxin. TT Diệm thường than rằng “Đánh giặc thì phải có mưu lược chi, chứ thả bom thì dân chế oan, thả bom thì phá hoại đất nước.

    TT Diệm chống leo thang chiến tranh, người đã nói nhiều lần rằng: “Mỹ viện trợ thêm khí giới tối tân, LX và TC cũng viện trợ thêm khí giới tối tân; Mỹ đổ quân, thì Liên Xô và TC cũng có thể đổ quân; Mỹ thả bom, LX và TC cũng có thể thả bom. Đất nước VN sẽ trở thành chiến trường của các siêu cường. Người chiến sĩ VNCH và cả người lính của CSBV sẽ trở thành công cụ của các siêu cường, gà nhà bôi mặt đá nhau, và toàn dân VN là nạn nhân biết đến bao giờ mới có hòa bình để có thì giờ xây dựng đất nước. Mà xây dựng đất nước là công việc thiết yếu cần làm cấp bách. Vì muốn chống lý thuyết CS thì phải xây dựng xã hội. ” Vì vậy TT NĐD cương quyết không chịu leo thang chiến tranh, vì nếu leo thang thì hậu quả vô cùng khốn nạn, VN phải gánh chịu nặng nề.

    Cụ luôn nói: “Đánh giặc thì phải có kế hoạch chi, chứ không thể thả bom, giết oan dân chúng, thả chất chất độc giết hại đồng bào và phá tan đất nước ruộng nương, rừng rú, đê điền BV.” Nhưng Mỹ vẩn muốn giữ nguyên ý kiến thà bom cả Miền Bắc lẫn Nam, phá rừng rú đồng bằng và khắp nơi bằng chất độc hóa học Da cam Dioxin để CSBV không còn nơi nương náu.

    Sự quyết liệt của đôi bên khiến TT Diệm cảm thấy mình không thoát khỏi gọng kiềm của Mỹ. Vì nếu không nghe lời, Mỹ dọa sẽ rút viện trợ. Đã đi đến chổ căng thẵng. Trong phòng cụ Diệm ngủ trên một tấm ghế ngựa (độc mộc người nam gọi là bộ ván), trên tường cao Cụ Diệm cho ghi câu: “Xin Chúa cho con dùng hết sức mình hoàn thành sứ mạng lo cho dân Việt Nam hạnh phúc ấm no, nếu con không làm tròn bổn phận, thì xin cho con lấy cái chết đền tội.”

    CSBV cũng hay tin Mỹ sắp đổ quân và ném bom nên lo sợ, có lẻ như vậy nên có sự môi giời của Pháp và Ấn Độ, cũng là dịp Pháp muốn trả thù Mỹ tại VN. TT Diệm quyết định: “Thà chịu nhục xuống nước đi thương thuyết điều đình với anh em còn hơn phải nhục nhả với ngoại bang.” Đó là câu nói chính xác mà Ông Cụ đã lập đi lập lại với ba tôi nhiều lần. Và tôi cũng thấy ba tôi trầm ngâm chấp nhận câu nói. (còn tiếp)
    ————

    Bình luận:

    Thưa BS NGUYỄN THỊ THANH

    Tổng Thống Diệm ‘thương thuyết với CQ CSVN hầu cứu đất nước tránh khỏi băng hoại xã hội và thoát ngoại xâm lăng Tầu Ô”, theo tôi là điều nên làm, vì tổng thống Diệm lúc đó có thế và lực của một chính quyền mạnh.

    Còn hiện nay NVQG như rắn mất đầu, không có tổ chức thống nhất, do vậy bất cứ phe nhóm hay cá nhân nào lên DĐ kêu gọi làm hòa với CQ CSVN đề cứu nước, chỉ là làm việc không công cho CSVN.

    Bà muốn làm hoà, nhưng CSVN đâu có muốn hoà, nếu họ có thiện chí làm hoà như Bà nghĩ thì đã không bỏ tù những người yêu nước, hoặc bất đồng chính kiến. Họ chỉ muốn bà cúi đầu khuất phục, vì thế khi Bà lên tiếng kêu gọi làm hoà với CSVN, bị một số NVHN lên tiếng phản đối là điều đương nhiên.

    • Trường Giang HN says:

      (tiếp phần trên)

      Ông LXN nói rằng TT Diệm phản bội đồng minh là phản bội làm sao? Đồng minh hiếp đáp, lấy hết quyền tự quyết quốc gia dân tộc của VN, người ta không cho lấy thì gọi là người ta phản bội sao?

      Sai. Đâu phải như Hoa Kỳ cố tình bất ngờ nhường VNCH cho CSBV, rút quân bỏ chạy mà ngay cả quân đội Mỹ ở VN cũng không hề hay biết trước. Đó mới chính là kẻ phản bôi đồng minh một cách độc ác. Mỹ đòi đổ quân không được thì giết đồng minh để thi hành. Khi đổ quân được lại tự tiện rút quân chạy đột xuất, lại giết hại biết bao triệu người đạp nhau chạy theo họ. Đất nước VN như là nơi vô chủ, Mỹ muốn vào ra lúc nào, ra lúc nào, tự do. Vậy ai là kẻ phản bội. Giúp người không phải là vú nuôi trẻ em, bảo sao nghe vậy, thì lãnh đạo đất nước làm gì. Nhờ mấy ông Đại sứ Mỹ làm tổng thống VN cho rồi.

      TT Diệm là người có con mắt nhìn xa, như là một đấng tiên tri, giúp cho đồng minh Hoa Kỳ khỏi tốn xương máu, tiền của, khỏi nhục nhả, khỏi phải đi van xin với CSBV sau đó để được ngồi ngang hàng, và CQ VNCH ngồi ngang hàng với MTGPMN, thật là bao cái nhục. Cái nhìn của TT Diệm rất sáng suốt, đến sau nầy Tây Đức và Đông Đức đã bắt chước, rồi nay đến Nam Hàn và Bắc Hàn cũng theo cùng chính sách.

      TT Diệm từ hai bàn tay trắng đi lên, hảnh diện với tiền đồ dân tộc, người chỉ cần khí giới, chứ không cần quân Mỹ đổ bộ, đủ thấy Cụ đã nắm chắc lực lượng tự quyết sẵn sàng ăn thua đủ với CSBV. Trong lúc đó CSBV lại đã sợ Ấp chiến lược, rồi nay lại sợ bom. Nếu đê-điền Miền Bắc bị bom thì còn gì là đời sống đồng bào. Hai nhà lãnh đạo của hai quốc gia anh em đã tỉnh ngộ. Làm một con người, cũng như một quốc gia phải biết khi cần tiến thì tiến, khi cần lùi thì lùi khi cần ngừng thì phải ngừng, đó mới là mưu cao chiến lược. Không lẻ cứ dậm chân tại chổ đánh nhau lê thê mãi. Nếu anh LXN đánh phá tôi, thì tôi cũng đánh phá lại, nhưng khi anh thảo luận tử tế với tôi, tôi cũng rất vui vẻ để thảo luận với anh. Cuộc đời là như vậy. Tâm lý con người chỉ là một. Ai dầu ác đến đâu cũng biết ngỏ sinh, ngỏ khôn ngoan mà đi, tránh ngỏ nhục, ngỏ tử chứ.

      Cụ Diệm đã từng biết tâm lý cụ Hồ nhiều, đã từng giao thiệp với nhau, đã từnf được cụ Hồ mời chấp chánh nhưng cụ Diệm từ chối. Cụ Diệm cũng đã từng bị cụ Hồ bắt bỏ tù, nhưng phải thả ra. Cụ Diệm đâu xa lạ gì chính sách thực dân của Pháp và lý thuyết CS của cụ Hồ.

      Cụ Diệm không bằng lòng với lý thuyết và chế độ CS nhưng Cụ rất thương người dân VN Miền Bắc đã phải sống dưới chế độ CS. Cụ đã nghiên cứu và chắc chắn khi hai miền giao thương với nhau, cuộc sống tự do hạnh phúc no ấm Miền Nam sẽ chẵng những kéo người Miền Bắc vào Nam cả hàng chục triệu, mà còn làm thay đổi chế độ CSBV. Cụ Diệm có cao vọng Miền Bắc sẽ nhanh chóng chối bỏ chế độ kinh tế CS để theo kinh tế Miền Nam rồi từ đó theo chế độ VNCH dễ dàng.
      Chúng ta cần thấy rõ những năm 1945-54, toàn dân VN chưa hiểu rõ chế độ CS là như thế nào.

      Nhưng đến năm 1962 nghĩa là sau bao vụ Cải cách ruộng đất, Nhân dân Giai phẩm, sau 8 năm sống khổ cực, bị giết chóc, đày đọa dưới chế độ CSBV và chiến tranh nồi da xáo thịt, nhân dân BV đã hiểu quá nhiều CS là như thế nào. Nay lại thêm bị thả bom và chất độc hóa học thì tan nát BV còn gì nữa cho dân. Mà khi Miền Bắc tan nát quá thì TC sẽ lấy cớ đổ quân qua giúp và xâm chiếm nước ta ngay.

      Tôi xin quý vị khách quan mà nghe tôi kể câu chuyện thật sau đây: Mấy ông tướng cao cấp CSVN đến khám bệnh tôi, kề rằng: “Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cứ năn nỉ với cụ Hồ Chi Minh là họ sẵn sàng đem quân giúp giữ Bắc Việt để quân cụ Hồ thông thả đưa hết quân vào đánh chiếm Miền Nam. Âm mưu của TC quá rõ, nên CSBV sợ. Nhưng trước sau cụ Hồ vẩn trã lời: “Nợ tiền, nợ vàng còn trã được, nợ xương máu biết lấy gì trã.” Cụ Hồ không muốn cỏng rắn cắn gà nhà.

      Cụ Diệm cương quyết không đem voi về dày mã tổ. Nếu cụ Diệm nhịn lòn cúi Hoa Kỳ thì ngoài cái nhục Cụ còn phải nhìn đất nước tan hoang, đó không thể là con đường cứu nước, là bổn phận của một nhà chính trị vương đạo. Và cụ biết trong hoàn cảnh Miền Bắc tan hoang, TC có thể thừa cơ xuống đánh chiếm, mà sự thật đã diễn ra với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cụ Diệm không nghe lời Mỹ, tuy rằng Mỹ vốn phục Cụ Diệm, nghĩ rằng khi cần chỉ tạm thời truất phế ông Cụ mà thôi. Người cố vấn là Mỹ mà đi truất phế tổng thống dân cử của một nước độc lập thì thật là bất hợp pháp, thật là tội lỗi. Việc hai anh em TT Diệm bị giết là do Dương Văn Minh chủ trương. Vì chúng biết khi Cụ trở lại chấp chánh thì quyền lợi của họ không còn.

      Cụ Diệm biết rõ Hoa Kỳ rất cần có mặt tại Đông Dương vì quyền lợi và an ninh của Hoa Kỳ và đồng minh, vì vậy Hoa Kỳ mới dành Pháp nhảy vào Đông Dương, làm Pháp phải hậm hực. Vậy yểm trợ VNCH là điều Mỹ cần thiết để ngăn làn sóng TC từ bắc tràn xuống Đông Nam Á. Hai quả bom nguyên tử là bắc đắc dĩ để Hoa Kỳ bao vây phía đông TQ và HK cần đặt cơ sở quân sự bao vây TC và LX phía Nam. Vì vậy Hoa Kỳ không bao giờ muốn rút quân, bỏ yểm trợ quân sự cho TT Diệm. Đó là chuyện khó thể nào xẩy ra, vả lại Cụ Diệm là người không cho Mỹ đổ quân kia mà. Nói chi đến việc sợ Hoa Kỳ rút quân, khi đó đâu đã có quân mà rút. Cụ Diệm chỉ cần yễm trợ khí giới. Ngoài ra Pháp vẩn thèm thuồng nhảy vào hoặc viện trở khí giới cho VN. Tôi không là quân nhân, nhưng qua nhiều ý kiến được nghe thì QĐHK không thích hợp trong chiến tranh du kích VN.
      4) Về vấn đề hòa hợp hòa giải thì phải nói một cách thực tế là có 5, 7 phương cách:

      I- Hòa giải như đứa con hoang đàng trở về với cha mẹ, dù cho cha có trách mắng, đánh đập, cho làm thân tôi mọi cũng chịu. Như câu chuyện trong Phúc Âm thì chỉ có Chúa tượng trưng cho người cha nhân lành nâng niu âu yếm đứa con hư hỏng trở về đàng ngay thật. Đó là sự Hòa giải của người CG chối bỏ Thiên Chúa đi theo làm tôi ma quỉ, mà nay trở lại ăn năn; bước vào Tòa Giải tội. Đó là sự hòa giải xin tha và ăn năn trở lại sẵn sàng đặt mình làm kẻ qui phục. Chỉ có Thiên Chúa nhân lành. Chế độ CS thì không phải là người cha nhân lành.

      II- Ví dụ như một đảng chính trị, muốn chia quyền tước, chia ghế với ĐCSVN, thì đó là hòa giải chia ghế và danh vọng: Đó là trường hợp Từ Hãi nghe lời kiều mà đi hòa giải để phải chết đứng oan uổng than tướng tài và làm khổ người vợ yêu dấu.

      III- Sự hòa giải của hai vợ chồng hay đôi bạn bạn thân tình gây gổ nhau, đánh chém nhau. Nay cảm thấy hối hận làm lành lấy lại tình bạn. Đó là hòa giải tình cảm và tha thứ: Đây là hòa giải để tránh ly dị của vợ chống, 2 bên phải nhịn nhục nhau để chung sống hòa bình.

      IV- Ví dụ người chồng bỏ vợ ra đi để lại bầy con. Người vợ giận chồng đổ tất cả lòng giận dữ lên con cái. Người chồng vì thương hoàn cảnh của con cái, trở về hòa giải chung sống với vợ đề sửa sai người vợ, trông nom, cứu khổ đàn con , thì đó là hòa giải yêu thương và đắp đổi.

      V- Nếu một công ty làm ăn sinh mâu thuẩn, phải chia hai, từ vốn liếng nhà cửa đến nhân viên đều chia cân phân. Hai công ty nhỏ lại kình địch nhau, đánh chém nhau vì tham lợi, sinh tàn phá lẩn nhau. Nay họ tỉnh ngộ, quyết tâm hòa giải để không phá hại nhau, làm hòa trong tương kính để xây dựng cho mổi công ty, đó là hòa giải xây dựng riêng rẻ.

      VI- Khi hai phe thâm thù cố tình hạ độc thủ giết nhau, tuy nhiên phe nào cũng cố sức phát triển ngang nhau để tiêu diệt đối phương. Nhưng đều bất lợi cho nhau đến sức cùng lực kiệt, hết có tương lai, hết có đường giải thoát trước đau thương phải chịu, lại nguy hiễm vây quanh. Vốn liếng hai bên chẵng ai kém ai. Nên người ta xét lại, quyết chí nhịn nhau, tôn trọng lẫn nhau, thay đổi đường lối, hy sinh vì quyền lợi của mình để chọn một con đường sinh tồn cho cả đôi bên. Gia tăng tính khả thi, khả năng thích ứng cho việc giao bang, bắt tay nhau vì quyền lợi thiết thực, cần thiết của mổi phe. Đặc biệt ở đây là giao bang vì quyền lởi chung chứ không sống chung hòa bình, dứt khoát là không chung một mái nhà, một quốc gia: đó là hòa giải giao bang trong danh dự để phát triển riêng tư cho mổi phía.

      5) Chính TT Ngô Đình Diệm đã chọn phương thức hòa giải bang giao trong danh dự để phát triền ‘VI’, để xây dựng cấp bách đất nước, lo giữ vững nền độc lập DCCH Miền Nam với một QLVNCH hùng mạnh và với sự giúp đở của người bạn đồng minh sẵn sàng có cái đầu sắt cứng để đề phòng mọi bất trắc.

      Cụ Diệm đã thật long bày tỏ với Mỹ, nếu công việc thương thảo bang giao với CSBV không thành thì lúc đó người sẵn sàng để Hoa Kỳ muốn đổ quân ném bom, thả chất hóa học … toàn cỏi VN như ý, và Cụ Diệm cũng tỏ bày điều kiện nầy cho CSBV biết. Cụ Diệm đã rất khôn ngoan và sáng suốt trong chiến thuật giao bang. Nhưng khổ thay, người Mỹ vì khinh người VN mà sinh ra mặc cảm, rồi bị bọn gián điệp Tây, Tàu ‘xúi giặc’, nói xấu Cụ, gán ghép nhiều điều để tình hình tốt lành mà phải đổ vở tàn tệ nhất!

      Tổng Thống Ngô Đình Diệm tự tin ở con đường chiến thắng CSBV trên bình diện xây dựng xã hội DCCH ấm no, sung túc khác với lý thuyết CS, hơn là chiến tranh nồi da xáo thịt. Vì người tin chắc VN rồi sẽ như các xã hội văn minh Mỹ, Pháp, Canada, Anh Quốc…. có đảng CS nhưng không bao giờ biến thành XHCNCS được. Đây là chương trình vừa chống lý thuyết CS hữu hiệu bằng xây dựng đất nước mà TT Ngô Đình Diệm đã đề ra và quyết tâm thi hành. Người đã trình bày với Hoa Kỳ nhưng họ vì mặc cảm mà cố tình coi thường. Đồng thời TT Diệm cũng tự tin xây nên bức thành trì rõ ràng kiên cố buộc CSBV phải giữ đúng lời cam kết với sự hiện diện của Mỹ, với bom và chất độc Dioxin..

      Và đây chính là một chương trình rất hữu hiệu mà TT Diệm đã tâm sự với Ba của tôi. Nhưng người Mỹ vì long tự cao, vì mắc cở, không muốn bị coi là phải nghe theo lời người VN dù là lời của vị tổng thống, vì thế nó không trở thành văn bản. Tuy nhiên Cụ Diệm vẩn tin Mỹ phải làm theo chứ không còn lựa chọn nào khác được nữa.

      Với cái giá nầy Cụ Diệm không lo sợ CS giết hay bắt cóc hai anh em Cụ, khi cụ tay không bước vào rừng Ban Mê Thuộc gặp phe CSBV, đích thân ký kết thỏa thuận hòa giải là để toàn dân VN chóng thoát cảnh nồi da xác thịt và để kiến tạo hòa bình cho Tổ quốc đau thương và xây dựng Miền Nam nói riêng và toàn quốc nói chung. Đó chính là mục đích đời sống chính trị của TT Diệm, chiến tranh chỉ là sự vạn bất đắ dĩ, càng sớm chấm dứt càng có lợi.

      Chỉ có như thế TT Ngô Đình Diệm mới thật sự thấy mình có sứ mệnh thiêng liêng trong cuộc đời hy sinh vì dân vì nước của Cụ. Vì Cụ dấn thân làm việc vì no ấm và thịnh vượng cho nhân dân, và vì phát triển cho đất nướcc, chứ Cụ không hề muốn nhận lời lãnh đạo VN để đương đầu với một cuộc nội chiến phi lý với CSBV mà không thấy đâu là bến là bờ.

      Người ta thường nói là “Nói mà không làm làm là nói dối, là phĩnh phờ (như Obama là một), làm mà không nói là quá thật thà. (đó là trường hợp TT Ngô Đình Diệm là hai), vừa thuyết phục nhân tâm vừa làm mới là khôn (McCain-Palin). Cụ Diệm thiếu tuyên truyền chân chính, trong khi bốn mặt kẻ thù tuyên truyền láo khoét hại chính thể của Cụ. Chính đó là cái mất mát to lớn của Cụ Diệm.

      Đường lối của cụ Diệm làm cho BV mừng rở dù họ là người gây chiến đầu tiên, vì CSBV sợ bom thả đê điền và chiến tranh hóa học của Mỹ. Đã hao quân tổn thất quá nhiều, lại cũng phải lòn cúi vay mượn chịu nhục với Liên Xô và Trung Cộng. CSBV cần hòa bình và xây dựng Miền Bắc. Nếu họ thật tình muốn chiếm Miền Nam thì cũng cần có thì giờ, chưa vội. Phía Nam, Cụ Diệm biết chắc chắn trong thời gian đó, Cụ quyết định xây dựng gấp, biến Miền Nam thành một nước giàu mạnh, thịnh vượng, toàn dân no ấm hạnh phúc. Miền Nam sẽ tiến nhanh hơn Miền Bắc về mọi phương diện. Và với bang giao, hiệp thương, sự thông tin giữa nhân dân 2 miền sẽ tự phát, người dân Bắc Việt sẽ tìm vào Nam. Và điều mà cụ Diệm tin chắc là ngay cụ Hồ cũng có thể bỏ thể chế CS để khỏi bị LX. TC và đàn em bao vây áp chế nặng nề vào thời gian đó. Và nếu có bầu cử toàn quốc thắng lợi sẽ về phe DCCH miền nam dễ dàng. Như vậy nếu TT Diệm được đồng minh ủng hộ hay ít nhất đừng phá đường lối của Cụ, và không bị bọn tướng tá tham tiền phản bội thì chúng ta có nhiều cơ may sống trong một nước DCCH độc lập tự do hạnh phúc thật sự.

      Chính Hoa Kỳ vì tự ái, tự cao, vì coi khinh ý kiến của người VN, mà sau đó họ cũng bắt chước, nhưng đánh xấu hổ là trong một phong cách nhục nhã: Đó là Hoa Kỳ đã bắt chước Cụ Diệm bang giao, bắt chước Cụ Diệm không cho đổ quân, họ rút quân. Nhưng hành động của Hoa Kỳ lại không đúng lúc. Như khi người ta no, lại bắt ăn, lúc đói lại cất hết cơm gạo.

      Vả lại vào thời đó không thiếu bọn tay sai thực dân Mỹ muốn đàn áp TT Diệm theo ý nó. Hoa Kỳ cũng ganh tị với các nước nhất là Pháp xen vào việc hòa giải BV và NV. Vì nếu thành công thì Mỹ sẽ mất mặt với quốc tế và Pháp lại được danh thơm. Hoa Kỳ muốn nếu có bang giao HH HG thì phải Mỹ là người chủ trương mà thôi chứ không phải là Pháp.

      Ông LXN đã chỉ nghĩ rằng TT Ngô Đình Diệm đã áp dụng phương thức hòa giải “I” nên ông mới cho rằng: “Cụ Diệm hòa giải với cụ Hồ… Cụ Diệm hiệp thương với CSBV, Bắc-Việt sẽ thống-nhất Việt-Nam”…tức là “Cụ Diệm muốn dâng miền Nam cho CSBV” ….CSBV sẽ đã nuốt chửng Miền Nam sớm hơn”…. “TT Ngô Đình Diệm mắc mưu CT Hồ Chí Minh (??!!)…”

      Ý kiến trên của LXN hoàn toàn là một sự hiểu lầm, một suy nghĩ rất tầm thường trong chiến lược và chiến thuật bang giao của Cụ Diệm. Đó là sự suy nghĩ của ông LXN và cũng là của rất nhiều người trên nửa thế kỷ nay, thật là một điều rất đáng tiếc. Vì vậy vừa qua khi nghe tin TC sắp đánh chiếm VN, tôi đã cấp kỳ nói đến việc làm hòa với CSVN đề cứu nước và cứu vụ TKS và DCCT-Thái Hà, cứu dân oan, và tôi tuy thảo sơ vài nét nhưng rất chi tiết về chiếc giảm kình địch và gia tăng quyền lợi của đôi bên như trong phương thức 6. Nhưng người ta hiểu lầm ngay là phương thứ “I”, chỉ muốn vơ đủa cả nắm, nên vài người cho rằng Hòa giải là đầu hàng là tự sát, và họ vu oan cho tôi là CS nằm vùng.

      Chắc chắn một ngày gần đây Hoa Kỳ và CQ CSVN sẽ điều đình với nhau để NVQGHN hòa hợp hòa giải với CQ CSVN. Chính quyền HK sẽ thông báo cho đảng VT sửa soạn lên đường về nước HH HG với CSVN. Thử hỏi chính phủ của ông Đào Minh Quân là cái thớ gì, đã làm cái việc “đạp mặt HCM” có dành được với VT không ? Và còn các đảng trong nước thì sao? Lúc đó có ai dám lên tiếng chống kế hoạch của Hoa Kỳ không ? Chắc chắn không ? Vì đó là điều kiện Mỹ giúp VN lấy lại 2 quần đảo HS TS và chống trả TC không cho xâm lăng VN. Và những cuộc biểu tình chống các nhà lãnh đạo của đảng và của CQ CSVN, Hoa Kỳ có còn cho tự do thi hành nữa không? Chắc chắn là không?
      ————-

  2. Trường Giang HN says:

    Hôm nay trong hộp điện thơ của tôi có người gởi bài viết:

    Mỗi năm vào tháng 11‘ …Đào Nương
    Báo SàiGòn Nhỏ, số 1318, ngày 28-10-2011, Orange County.

    Trong bài viết có đoạn nói về ông Diệm như sau:

    Đào Nương tôi không phải là người duy nhất, đã thuộc lòng lập luận và “sự thật” của hai phía; cũng như không khỏi đau lòng khi nhận được những bài viết về những điều “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” này. Có thể đây là một cuộc chiến “dối” sự thật vì người viết thường không nhìn vào … “nửa sự thật bị che dấu” mà cứ nói hoài về những điều ai cũng biết. Ai cũng biết tổng thống Ngô Đình Diệm là một người đạo đức hơn hẳn các tướng lãnh đã đảo chánh ông. Ông thanh liêm, ông sống đạm bạc… nhưng điều đó không đảm bảo cho việc ông là một nhà lãnh đạo tài ba, đảm lược. Khó lòng nhìn thấy việc – vì ông sống độc thân, không có vợ và đồng ý để cho vợ của em đóng vai Đệ Nhất Phu Nhân là hợp lý; hay vì thương mẹ, thương cậu em út thay mình chăm nom cho mẹ già nên dù biết thừa khả năng của em mình mà vẫn làm thinh để em trở thành Cố Vấn Chỉ Đạo, một thứ lãnh chúa tại miền Trung là một điều hợp lý. Là một trí thức Thiên Chúa Giáo, đạo đức thì khi cầm quyền , cần gì thiết lập một chế độ với những tổ chức mật vụ, công an, cần gì bỏ tù đối lập, bỏ tù lãnh tụ các đảng phái quốc gia, các tôn giáo khác, gây nên một làn sóng phẩn nộ khắp miền Nam như thế‘.
    ——————–

    Trong bài viết trên bà Đào Nương đòi hỏi hơi nhiều. Theo tôi, ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia nào mà có được một vị lãnh đạo quốc gia đạo đức, thanh liêm, sống đạm bạc như ông Diệm thì đã là đáng quí lắm rồi. Còn về lãnh đạo tài ba, đảm lược theo ý bà Nương là thế nào?

    Có thể ông Diệm không giỏi được như mong muốn của bà Đào Nương, nhưng như nhiều người đã nói, ông Diệm đã khá vất vả vực đất nước từ một xã hội rối bời bởi tàn dư của phong kiến, thực dân với nạn sứ quân, giáo phái. Nhiều người đã nghĩ lrằng chính quyền Diệm không thể tụ trì được quá sáu tháng. Vậy mà chỉ với 9 năm cầm quyền ông Diệm đã ổn định được xã hội, xây dựng chế độ Cộng Hoà, tạo nền móng cho một xã hội dân chủ tự do.

    Tổng thống Diệm độc thân, việc bà Nhu do đó đóng vai ‘Đệ nhất phu nhân’ thay cho phu nhân tổng thống để đón tiếp quốc khách cũng chẳng có gì là không hợp lý. Có chăng là làm chướng mắt những kẻ ích kỷ, ghen tương bởi lòng dạ hẹp hòi.

    Chỉ có cộng sản và những kẻ thù ghét nhà Ngô mới nói ông Ngô Đình Cẩn là ‘lãnh chúa tại miền Trung’. Theo nhiều người thì ông Cẩn là một người khá tài giỏi. Bài viết của ông Trần Quốc Kháng với: Con Vẹt Của Ông Ngô Đình Cẩn cũng đã xác nhận thêm điều này.

    Bà Đào Nương đã lẫn lộn tôn giáo với chính trị, nhất là đối với một vị lãnh đạo đất nước như ông Diệm. Trong tình trạng chiến tranh, VNCH thiết lập một chế độ với những tổ chức mật vụ, công an, là rất cần thiết. Điều này chẳng liên quan gì đến ông Diệm là một trí thức Thiên Chúa Giáo đạo đức, hay là một Phật tử.

    Còn đối lập, lãnh tụ các đảng phái quốc gia, hay lãnh tụ các tôn giáo mà có những hành động nguy hại cho đất nước thì vẫn bị bỏ tù theo luật pháp là điều đương nhiên. Xã hội nào cũng thế mà đất nước nào cũng vậy thôi.

  3. conmeo says:

    Cuộc lật đổ nhà Ngô năm 1963 đáng lý là một cuộc cách mạng vì đã nối tiếp tinh thần quật khởi chống bạo quyền của dân Việt, nối tiếp những hành động đại nghĩa hy sinh liên tục của các chiến sĩ quốc gia dưới thời Diệm trị. Ta có nên kể lại từ một thanh niên Cao Đài hành động như một Kinh Kha tại Ban Mê Thuột năm 1955, từ các sĩ quan Nhảy Dù bao vây dinh Độc Lập 1960, từ 2 phi công ưu tú Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử bắn phá dinh Độc Lập 1962 và biết bao nhiệm vụ mưu sát bạo chúa bất thành, mà chỉ có mật vụ nhà Ngô mới biết rõ, cho đến khi Đại úy Nhung và Thiếu tá Nghĩa căm phẫn trả thù cho các đồng chí của họ.

    Lật Diệm năm 1963 đáng lý là một cuộc cách mạng vì đã giải thoát hàng vạn người quốc gia trong các ngục tù trên toàn quốc, giải thoát hàng triệu nhân dân đang nghẹt thở dưới một chế độ thối nát học thói độc tài. Toàn dân đã bừng bừng phấn khởi… Nhưng hỡi ơi hương lửa cách mạng chỉ bừng lên vài ba tuần đầu rồi dần dần tắt ngủm, chỉ vì người cầm đầu Dương Văn Minh nhu nhược chỉ muốn cuộc cách mạng ấy là một binh biến hay chỉnh lý thôi.

    Nhiều người bào chữa cho ông Diệm: Ông Diệm rất tốt chỉ vì tay chân ông làm sai. Lối bào chữa này e giống Cộng Sản: Hồ Chủ tịch luôn luôn sáng suốt chỉ có cấp dưới làm bậy!

    Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hỉ xả, uất hận bao nhiêu nhưng khi đối phương đã xuống ngựa thì sẵn sàng làm lành với nhau quên đi hết mọi lỗi lầm thù xưa oán cũ. Nhưng cây muốn lặng gió mà gió chẳng dừng, ta bất đắc dĩ khơi lại đống tro tàn để phơi bày sự thật.

    Vì là chứng nhân nên chẳng muốn ẩn danh.

    Lê Nguyên Long

    • Tien Ngu says:

      Bớt cut & paste chút đi Méo, Méo mần nhiều, anh đọc mệt quá.

      Tưởng méo cắt của ai, té ra cắt của Long…mắt hí.

      Diệm đi dứt, nữa thế kỷ rồi, chưa thoã mãn hả, Méo?

      Lời hay, có sức…thấm, đâu cần luận dài, Méo?

  4. conmeo says:

    Cách đây mấy tuần lễ, bình lúận gia nổi tiếng Trần Bình Nam có cho phổ biến loạt bài “CIA Và Các Ông Tướng” trong đó tác giả có để cập đến chi tiết “Tổng Thống Diệm phản đối việc quân đội Mỹ đổ bộ vào Việt Nam phổ biến trên website Đàn Chim Việt. Liền sau đó, ông Phan Đức Minh cũng cho phổ biến trên Đàn Chim Việt loạt bài “Nhớ Ngày 1/11/1963” trong đó ông có cho biết Tổng Thống Diệm có ra thăm Quân Đoàn I ở Đà Nẵng vào năm 1960 và có nói chuyện với các sĩ quan. Trong buổi đó, Tổng Thống Diệm cũng cho biết “ông chống việc quân đội Mỹ đổ bộ vào Việt Nam.”

    Nhân dịp có bài viết của ông Phan Đức Minh, ông Nguyễn Tường Tâm, cháu của nhà văn Nhất Linh, có bài Góp Ý ở dưới bài viết trên đây với đại ý như sau:

    ● 1.- Buổi nói chuyện của Tổng Thống Diệm có thật không? Xin ông cho biết một vài chi tiết để chứng thực.

    ● 2.- Xin ông Phan Đức Minh cho tài liệu về việc Tổng Thống Diệm chống việc quân Mỹ đổ bộ vào Việt Nam.

    Đồng thời, ông (Nguyễn Tường Tâm) cũng cho biết ông có yêu cầu ông Trần Bình Nam cho ông tài liệu đó, nhưng ông Trần Bình Nam đã thành thật trả lời rằng không thể cung cấp tài liệu đó cho tôi được.

    Xin góp ý nnhư sau:

    1.- Buổi nói chuyện của Tổng Thống Diệm với các sĩ quan Quân Đoàn I vào năm 1960 ở Đà Nẵng là hoàn tòan không có vì rằng từ ngày 1/1/1960 đến ngày 31/12/1960, Tổng Thống Diệm không hề đi Đà Nẵng. Xin đọc (1) sách Hai Mươi Năm Qua 1945-1964 – Việc Từng Ngày (Los Alamitos, CA: Xuân Thu – không đề năm) của tác giả Đoàn Thêm. (Cụ Đoàm Thêm làm việc trong văn phòng Tổng Thống Diệm), và (2) Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tầp I-C: 1955-1963 (Houston TX: Văn Hóa, 2000) của tác giả Chính Đạo.

    2.- Giáo-sư Nguyễn Mạnh Quang và Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu cũng đã cố gắng đi các thư viện truy tầm mà cũng không tìm ra một văn kiện nào đề cập đến Việc Tổng Thống Diệm chống quân đội Mỹ đổ bộ vào Việt Nam và việc Mỹ xin Tổng Thống Diệm sử dụng hải cảng Cam Ranh, nhưng bị ông Diệm từ chối.

    Trong lúc đi tìm tài liệu lịch sử nói về Việt Nam trong thời cận và hiện đại, Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu bắt gặp được mấy tờ phúc trình của Đại-sứ Pháp Lalouette gửi về chính quyền Pháp, trong đó có nói việc ông Diệm cho Đại-sứ Pháp biết rõ là Cuộc Chiến Việt Nam hiện nay trên thực tế đã giống như Cuộc Chiên Triều Tiên trước đây và “Ít nữa cho tới ngày 7/11/1961, (miền Nam Việt Nam) không những muốn đón nhận quân chiến đấu Mỹ và các nước bạn, mà còn tuyên bố đại đa số dân miền Nam tán thành (welcome) việc này (quân đội Mỹ đến Việt Nam.). Sự kiện này được sách sử ghi lại rõ ràng như sau:

    “Tư liệu trong kho Cambodge-Laos-Vietnam ghi nhận Ngô Đình Diệm ít nữa cho tới ngày 7/11/1961, không những muốn đón nhận quân chiến đấu Mỹ và các nước bạn, mà còn tuyên bố đại đa số dân miền Nam tán thành (welcome) việc này. Như thế, những lời tuyên bố chống Mỹ vào năm 1963 của vợ chồng Ngô Đình Nhu chỉ nhằm vào các cố vấn quân sự Mỹ sau khi Ngô Đình Nhu đã bí mật gặp nhiều đại diện Cộng Sản…” Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn (Thiên Mệnh Đại Pháp) 1884-1945 – Tập 3 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr 1038.
    Ngoài sự kiện lịch sử trên đây, lại còn có nhiều kiện khác như:

    a.- Ngày 11/11/1960, Tổng Thống Diệm Nhờ Linh-mục Raymond de Jaegher, người Bỉ, quốc tịch Mỹ, xin với Đại-sứ Mỹ Elbridge Durbrow cho Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Sàigòn để bảo vệ công dân Mỹ và kiểm sóat phi trường Tân Sơn Nhất. Sự kiện này được sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I-C 1939-1975 ghi lại rõ ràng như sau:

    “Thứ Sáu 11/11/1960… 13G30: Durbrow báo cáo Đại-tá Thi đang thương thuyết tại Dinh Độc Lập. Thi đã bắt giữ Đại-Tướng Tỵ và Trung Tướng Thái Quang Hoàng (Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô) làm con tin. Trên đài phát thanh, Thi khẳng định lập trường chống Cộng.

    Vẫn theo Durbrow, Diệm từng nhờ Raymond de Jaegher, một linh mục người Bỉ, đại diện Hội Thái Bình Dương Tự Do, Vùng Viễn Đông – yêu cầu TQLC Mỹ đổ bộ để bảo vệ công dân Mỹ và kiểm soát phi trường Tân-sơn-nhất. Durbrow tin rằng điều này không thể được. Cho tới 13G30, vẫn chưa có Mỹ kiều nào bị tổn hại. (FRUS, 1958-1960: I:633-4).” Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I-C 1939-1975 (Houston, TX: Văn Hóa 2000), tr. 186.

    b.- Ngày 29/9/1961: Diệm gặp Đô Đốc Harry D. Felt, Đại Sư Nolting, đề nghị ký một hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ. Chính Đạo, Sđd., tr. 229.

    c.- Ngày 20/10/1961: Taylor hội thảo với Diệm lần đầu tien. Diệm đề nghị một hiệp ước hỗ tương phòng thủ, gia tăng quân số Việt Nam Cộng Hòa và không yểm của Mỹ.

    d.- Ngày 27/10/1961: Taylor hội thảo với Diệm lần thứ hai:

    “Đề nghị đưa bộ binh Mỹ vào miền Nam Việt Nam dưới danh nghĩa là cứu lụt. Theo Taylor, Diệm rất tán thành.” Chính Đạo, Sđd.,tr. 231.

    NHẬN XÉT: Đã cương quyết chống việc quân đội Mỹ vào Việt Nam để bảo vệ chủ quyền, thì TẠI SAO lại còn mời Mỹ vào Việt Nam để làm gì?

    Một khi đã ký một thỏa hiệp phòng thủ chung với Mỹ thì đương nhiên là quân đội Mỹ phải trú đóng ở trên lãnh thổ Việt Nam giống như quân đội Mỹ đóng ở Đại Hàn vậy.

    ĐỀ NGHI: Mong rằng ông Trần Bình Nam, Phan Đức Minh và các ông đã từng đưa ra lập luận nói rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống lại việc chính quyền Mỹ muốn đứa quân vào Việt Nam cho nên mới bị Mỹ thuê người giết ông Diệm, hãy lên tiếng làm sáng tỏ vấn đề này để cho các ông khỏi mang tiếng là những người NÓI LÁO và PHỊA SỬ.

    Mong lắm thay!

    Lý Đương Nhiên

    • Tien Ngu says:

      Cũng may là các nhân chứng thời Ngô đình Diệm còn sống nhăn răng…

      Không thôi thiên hạ thấy Méo nó đưa trang này nói thế này, trang kia hát thế nọ, ngày tháng rành rạnh…y như thiệt.

      Ngày đó tháng đó, mấy tay như Trần bình Nam, Trần gia Phụng gì đó chắc…đứng kê bên nghe Ngô đình Diệm hát quá?

      Méo mần như ai cũng dễ bị tẩu hoả nhập ma như méo chắc?

  5. conmeo says:

    Bất hạnh coi thường dân miền Nam, và thành phần kháng chiến dân tộc.

    Ông Diệm lên cầm quyền trong hoàn cảnh đúng như ông tiên tri từ 1948: Ông lãnh đạo miền Nam, mà đất Nam kỳ là trọng tâm. Mỹ ủng hộ ông, hứa viện trợ Sài Gòn, tức phải dính líu với miền Nam.

    Nói cách khác, các điều kiện ông tiên liệu, ông muốn có, để tranh thủ với Cộng Sản, nay ông hội đủ. Và con đường ông phải theo có thể phác họa như sau:

    1. Lấy đất Nam kỳ làm gốc cho chế độ. Như Nguyễn Ánh đã làm hồi thế kỷ XVIII, để tranh thủ với Tây Sơn.

    2. Dùng nhân dân Nam kỳ làm nguyên tố củng cố, xây dựng miền Nam. Dựa trên quần chúng Nam kỳ làm thế ỷ dốc, để bảo vệ miền Nam, giữ cho Cộng Sản miền Bắc không huy động được dễ dàng các thành phần nằm vùng mà tuyên truyền và quấy phá. Đồng thời, để phát triển kinh tế, xã hội, với nhân lực, tài lực Nam kỳ.

    3. Vinh danh thành tích kháng chiến yêu nước. Vạch rõ mưu đồ Cộng Sản lợi dụng nhu cầu giải phóng của đồng bào, để thực hiện cách mạng vô sản.

    Đề cao anh em kháng chiến quốc gia. Xem chủ quyền miền Nam là thành quả kháng chiến. Đúng theo tinh thần Tuyên ngôn 1951 nói trên.

    Kết hợp các thành phần kháng chiến, phi kháng chiến vì hiểu thấu mưu đồ Cộng Sản, hoặc vì một lý do khác, để tổ chức quyền chính miền Nam.

    Đó là con đường kết hợp nhân dân, kết hợp kháng chiến vào chính quyền. Để thu hút vào chế độ các thành phần quần chúng nông thôn, đã từng là cơ sở trung kiên, suốt chín năm qua, của tổ chức kháng chiến chống Pháp. Sự kết hợp này có thực sự và chặt chẽ, sẽ đảm bảo cho tương lai miền Nam.

    Tất nhiên phải tùy thuộc vào một chính sách thể hiện trung thành những gì ông Diệm đã tiên tri từ 1948, thực hiện lời ông đã hứa trong Tuyên ngôn năm 1951:

    Dùng hai “Vú sữa”: quần chúng Nam kỳ và thành phần kháng chiến quốc gia mà nuôi dưỡng chế độ Sài Gòn.

    Chính sách ấy, ngoài chuyện mình trung thành với chính mình, còn là một chọn lựa sáng suốt, vì nông dân Nam kỳ không chấp nhận, thì chế độ tồn tại với ai và thế nào được. Trừ phi bắt chước Cộng Sản, dùng các biện pháp độc tài và đàn áp. Sáng suốt vì có nhìn nhận chủ quyền thu hồi ở miền Nam là sự nghiệp kháng chiến quốc gia, mới không để Hà Nội độc chiếm thành quả ấy về phần Cộng Sản trên cả nước.

    Can đảm vì đây là một chọn lựa nguy hiểm. Nguy cơ tiềm tàng trong một chính sách như vậy thật lớn, đòi hỏi một khả năng lãnh đạo cao, một lòng tự tin lớn. Đòi hỏi một “homme d’Etat”.

    Ông Diệm không có đủ khả năng chính trị và tự tin, thành ra chọn lựa mà ông đã tiên liệu và cho là thiết yếu từ 1948, từ 1951, thì nay, lên cầm quyền, ông sợ là không thiết thực. Nên đứng trên đất Nam kỳ để đối đầu với miền Bắc, ông khoét mất ngay hai cái “Vú sữa” của miền Nam!

    Hồ Sỹ Khuê

    Trích từ “Lịch trình Hình thành và Giải thể của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, (Văn Nghệ, USA, 1992)

  6. conmeo says:

    Mặt tiêu cực trong con người ông Diệm.

    1. Thiếu tầm vóc:

    Không có đủ tầm vóc một lãnh tụ quốc gia, một chính khách quốc tế. Vì học thức giới hạn, kiến thức thiếu sót, nên không am hiểu đến nơi các biến chuyển lớn trong thế giới, sau thế chiến thứ hai; không nhìn rõ được các vấn đề đất nước, trong thời điểm thiếu ổn định về mọi mặt sinh hoạt xã hội lúc bấy giờ, khi hòa bình trở về và đất nước qua phân. Thành ra không phân biệt được vấn đề chính, vấn đề phụ, và định sai thứ tự ưu tiên các công việc phải làm.

    2. Nhân sinh quan hẹp hòi:

    Ông Diệm trọng đạo đức, thuần thành về tín ngưỡng. Đau đáu lo giữ mình đến nỗi quên người, nên sợ kẻ khác làm hỏng việc mình. Thành ra không giám tin ai và thường ngờ vực tất cả, hóa ra người lãnh đạo mà rất quả giao. Lẫn lộn tốt, xấu, theo đạo đức bình thường, với điều hay, dở, trong hành động nhà nước. Cuối cùng đi đến độc tôn, độc đoán, mình cho là phải mình cho là trái đều là phải, là trái, không ai cãi được. Nên không chịu nổi ai nói khác mình, không chấp nhận đối lập.

    3. Không dám tin người:

    Thung dung được với người thân tín sẵn, mà lúng túng với người chưa quen. Thành ra chỉ biết có anh em, thân quyến trong gia đình, chỉ gần tay chân bộ hạ. Khi lên cầm quyền, trong vấn đề dùng người, chỉ chọn kẻ chịu làm tay sai, không chọn người cộng tác ngang hàng.

    4. Quan liêu gia đình:

    Gia đình và thủ túc nhiều tham vọng quyền lực, quyền lợi. Từ Trung, từ Bắc vào, làm thêm nặng cái tội tổ tông của chính quyền Diệm.

    5. Xung khắc về bản chất giữa ông Diệm và dân Nam kỳ:

    Nam kỳ dưới chế độ thuộc địa trực trị có luật pháp rõ ràng, nên được đảm bảo ít nhiều tự do. Nay kháng chiến thành công, dân tại chỗ đòi dân chủ, không sẵn sàng chấp nhận một nhà nước câu thúc quá đáng. Ông Diệm, xuất thân là đại thần triều đình Huế cũ, cá tính con người ông không để cho ông sử dụng quyền bính cách khác hơn là quan liêu, lệnh từ trên ban xuống, không có đối thoại, trao đổi với ai.

    Người Nam kỳ tính phóng khoáng, cởi mở, cả tin, không có tham vọng quyền bính, không bận tâm chính trị mấy. Vì thế, mà sau kinh nghiệm kháng chiến, họ không thích Cộng Sản, nhưng đã từng tranh đấu với nhau, họ không chống Cộng. Ông Diệm và tả hữu tay chân lấy việc chống Cộng làm quốc sách, chê người Nam kỳ là ấu trĩ.

    6. Không biết sử dụng thành quả kháng chiến Dân Tộc:

    Thành quả kháng chiến là niềm tự hào của dân Nam kỳ. Nhưng lại là vết hằn trong tâm thức ông Diệm. Quần chúng Nam kỳ kháng chiến theo truyền thống Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân v.v… để giải phóng đất nước. Không phải để theo Mác, theo Lênin. Họ xem kẻ thù chính là thực dân Pháp.

    7. Ông Diệm không tham dự kháng chiến.

    Đứng ngoài vòng một thời, và một thời gian sau đó xuất ngoại sang sống ở Hoa Kỳ. Sự kiện lịch sử này có thể giải thích. Kháng chiến do người Cộng Sản lãnh đạo. Quần chúng nhằm mục đích ngắn hạn tranh thủ độc lập, không cần nhìn xa hơn để ngờ vực, Cộng Sản mưu đồ cách mạng vô sản thế giới, không cần chú ý đến mục đích dài hạn của đảng Cộng Sản. Ông Diệm chống Cộng, kẻ thù chính của dân tộc, trong con mắt ông, là Cộng Sản. Ông không thể tham dự kháng chiến, không thể tranh đấu dành độc lập chung với Cộng Sản. Một phần vì ông không chấp nhận lãnh đạo Cộng Sản trong kháng chiến. Phần khác, ông muốn tranh đấu giành độc lập theo một đường lối khác. Thái độ ông khả kính. Đường lối ông có giá trị. Nehru ở Ấn Độ, Soekarno ở Nam Dương chứng minh nhận xét này. Và có lẽ họ đã mở đường cho ông Diệm. Cho nên, nhất thời, ông không thể để cho phong trào quần chúng trong nước lôi cuốn vào cuộc kháng chiến mà ông biết về sau tất nhiên bị Cộng Sản lợi dụng. Lịch sử sẽ ghi nhận định của ông là đúng.

    Kháng chiến thành công. Pháp phải từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam và ông Diệm được đưa lên cầm quyền trên nửa phần phía Nam đất nước. Trên đó Nam kỳ là địa cư chính và trọng yếu nhất. Đây là cớ sự tạo một mặc cảm thật tế nhị, thật phức tạp, trong tâm thức con người Ngô Đình Diệm.

    Nam kỳ kháng chiến đã phần nào ngược với chủ trương chống Cộng của ông. Nên ông mặc cảm như phong trào này cũng chống ông. Nay kháng chiến thành công trên mảnh đất Nam kỳ ông trực tiếp tiếp thu kết quả. Trong tiềm thức ông, ông thấy có chi đó bất ổn. Tâm lý tự xem mình là người phi thường khiến ông hóa giải điều bất ổn này một cách sai lạc. Đến chỗ đố kỵ người Nam kỳ.

    8. Mặc cảm đố kỵ người Nam kỳ.

    Những người từ nay bị đặt dưới quyền ông, ông Diệm muốn thoát ngoài tình trạng này bằng cách đặt mình lên trên lẽ thường của mọi người. Cách xử sự này hợp với bản tính tự cao tự đại của con người ông. Đưa ông đến việc cho mình là người mang một sứ mệnh thần thánh cứu dân, cứu nước, không cần phải theo sát tâm lý, nguyện vọng “thiển cận” của nhân dân. Nhất là nhân dân Nam kỳ, đương nhiên thuộc trách nhiệm lãnh đạo của ông.

    Tâm lý tự tôn để tự ổn này được gia đình ông, tay chân bộ hạ ông cổ súy, phụ họa vào. Cớ sự này đã tạo nên cho ông, cho tả hữu quanh ông, một tâm trạng kẻ cả mà người miền Nam từng biết rõ, và đã tạo ảnh hưởng nặng nề cho tư thế lãnh đạo của ông.

    Tâm trạng kẻ cả của ông Diệm, của gia đình và tả hữu ông, đối với dân Nam kỳ, có thể tóm tắt trên vài điểm chính:

    - Người Nam kỳ thiếu ý thức chính trị (hàm nghĩa: ồ ạt chạy theo Cộng Sản để kháng chiến).

    - Người Nam kỳ ấu trĩ về văn hóa. Vụ tờ báo “Tự Do” của Phạm Việt Tuyền nêu nhận định là “Nam kỳ không có văn chương” đã một thời khiến dân Nam kỳ phẫn nộ.

    - Người Nam kỳ đạo đức thấp. Ông Diệm và thân quyến đã võ đoán như vậy khi thấy xã hội Nam kỳ, dù muốn dù không, cũng chịu ảnh hưởng sinh hoạt của người Tây phương nhiều hơn đồng bào các nơi khác.

    - Người Nam kỳ phản quốc. Hàm ý họ hết theo Pháp thì theo Cộng. Ngô Đình Nhu đã nói lên lời: “les Cochinchinois sont des traitres” (dân Nam kỳ là phường phản bội) với người viết, ngay tại sảnh đường dinh Độc Lập. Và cũng chính Nhu đã muốn dựng lên Vụ án Tôn Thọ Tường, giao cho một Hội Đồng Nhân Sĩ tay chân tổ chức. Một người hiểu chuyện, đã bảo Nhu: “Người Nam kỳ từng cùng Phan Văn Trị lên án Tôn Thọ Tường. Tường làm việc cho thực dân 60 năm trước Ngô Đình Diệm là phản quốc,vậy Diệm làm việc cho thực dân 60 năm sau Tường, lại không phải là phản quốc hay sao?” Việc làm lố bịch này phải dẹp sớm, nên ít người biết.

  7. mackeno says:

    Cám ơn BBT DCV cho mở trang mạng nầy…để nhiều nhà học vị cao …! xả nổi câm hờn gia đình trị NĐD.

  8. p says:

    Diệm thua Hồ

    Nếu HCM là con tắc kè hoa đổi màu liên tục đễ mị dân . Cùng hòa nhập với dân chúng . Như xắn quần lội ruộng với nông dân dù cho giả vờ chia ngô khoai cho dan nghèo …v v …

    Trong lúc Diệm đi kinh lý đến nông thôn nơi người nông dan tay bùn chân lấm = cây cù nèo, áo vết cà vạt chỉnh chu kèm theo một toán an ninh mật vụ hộ tống hùng hậu …xem ra dân sợ ông Diệm hơn là thân thiện

    Diệm là con cáo dùng người theo cách của anh em Diệm chọn . Người công giáo tại Hố Nai – Biên Hòa . Tam Tòa – Thanh Bồ – ĐN ,dân bản xứ cũng ko được Diệm ưu ái bằng
    Tại sao người dan MNVN sống nơi chôn nhau cắt rốn lại chán nản với chính quyền đệ nhất VNCH . Tại sao năm 1960 cs ko bao nhiêu ? Trong lúc CQ Diệm tại xã có 1 trung đội nghĩa quân trang bị cối cá nhân , súng phóng lựu , súng trung liên , súng trường , súng liên thanh . Quận thì có đại đội bảo an và các loại an ninh mật vụ cảnh sát trang bị đầy đủ mọi mặt …Trong lúc có hàng rào ấp chiến lược mỗi cử tri phải đóng bàng tiền hoặc bằng hiện vật tương đương hơn 4 m2 . Diệm bắt dan không theo cs đi học tập ( tố cộng ) người dân lương thiện làm ăn , nếu bị ai vu oan thì cũng bị mật vụ an ninh đánh no đòn > chơi tró ( đánh nhầm hơn bỏ sót ) đánh ít ko khai đánh nhiều phải khai . Như vậy làm cho số dân bất mãn nửa đêm bỏ nhà theo cs . Người dân vùng cs bỏ xứ đến khu dồn cũng bị phân biệt đối xử thậm tệ . Bà Nhu nắm liên hiệp phụ nữ liên đới cũng lộng hành không kém có lúc dựa hơi cha Thục lấy đà lấn tới . Tôi học dưới mái trường VNCH tôi đã nhận thấy và có ý thức đánh giá thời cuộc . Lúc đó tôi theo dõi thời sự và cũng cần đến TT từ BBC nên tôi cũng có cái nhìn đa chiều không theo bè phái hưởng lợi . Tôi đã chán cảnh nồi da xáo thịt , huynh đệ tương tàn .Tôi nói theo suy nghĩ và đã nhìn thấy thực tại . Nhìn chung cho tới hiện nay VN đang ngụp lặn trong tình cảnh xào xáo đấu đá tranh giành phe phái từ ( nhóm lợi ích ) dân tình gánh chịu mọi hậu quả !!!

    • Bút Thép VN says:

      Diệm thua Hồ về mặt lươn lẹo, dối trá và bất nhân là cái chắc.

      Những người công giáo tại Hố Nai – Biên Hòa . Tam Tòa – Thanh Bồ – ĐN , là những người di cư chạy trốn cộng sản từ miền Bắc, được chính phủ ưu tư lo cho có nơi ăn chốn ở thì cũng là chuyện bình thường, đâu có thể bất nhân vô cảm như VC, cứ lùa dân đi vùng kinh tế mới rồi bỏ rơi, sống chết mặc bay! Về mặt đạo đức thì ai hơn ai?

      Ông học dưới mái trường VNCH mà ăn nói như trên thì kém quá, không đủ ý thức đánh giá thời cuộc? Không đủ khả năng để nhận biết, ai đã gây cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn?

      Nếu ông đã nhìn thấy thực tại là hiện nay VN đang ngụp lặn trong tình cảnh xào xáo đấu đá tranh giành phe phái từ ( nhóm lợi ích ) dân tình gánh chịu mọi hậu quả, thì ông cũng phải biết nó xuất phát từ đâu chứ?

    • Tien Ngu says:

      Thưa,

      Đó chỉ là cái nhìn so sánh của lũ tiểu nhân mắt hí thôi. Người có ý thức đàng hoàng, không ai…mắt hí tiểu nhân như thế.

      Quốc thái, dân an, đó mới chính là điều đáng…xem xét của một bậc hiền nhân.

      Với cái mục tiêu quốc thái dân an, có ba ton, đập vô mặt lũ điếm, cũng là điều…phải đạo. Nay chúng nó xã hờn căm, tha hồ hát láo, cũng là…chuyện phải có…

      Dưới cú lừa của Hồ chí Minh và lũ Cộng, quốc có thái, dân có an?

      • p says:

        Gia đình trị của Diệm , ưu ái cho dân Bùi chu – Phát Diệm theo đạo thiên chúa giáo, kỳ thị Phật giáo …còn dân nghèo MT VN chúng bắt đi di dân đến nơi khỉ ho cò gáy , như Bình Tuy – Sùng Nhơn 2 , Kiến Tường – Mộc Hóa …sau đó sống ko nđến rừng thiêng nước độc .
        Hồ – Diệm chả khác nhau cả 2 đều mị dân ” lấy vãi thưa che mắt thánh ” láo phét , gian trá vì Hồ Diệm cùng học một thời tại Huế .!!! Sĩ quan , hạ sĩ quan trong quân đội VNCH thuộc dân Bắc di cư vào Nam 54 >dựa hơi Diệm đánh tân binh quân dịch như tù , phạt như nô lệ

  9. conmeo says:

    Về việc kỳ thị tôn giáo, bản thân kẻ viết không muốn nhắc đến. Chỉ mong sao các tôn giáo hiện tại tâm thành Đoàn Kết trước quốc thù Cộng Sản vì tất cả các tôn giáo đều đã bị đại khủng bố ở quê nhà.. Nhưng vì có kẻ biện hộ ông Diệm đã nói: Họ chưa thấy ông Diệm ký một sắc lệnh nào nâng đỡ ưu tiên cho Công giáo hay bóp nghẹt Phật giáo mà gọi là kỳ thị?. Vụ tranh đấu Phật giáo đâu phải bất thần nổ ra từ Phật Đản 1963 mà nó đã tiềm tàng âm ỉ từ nhiều năm về trước. Thời ông Diệm tại miền Trung, mỗi tỉnh có một vị Linh mục hầu như cố vấn và giám sát Tỉnh trưởng. Những Tỉnh trưởng nào dù lương hay giáo, nếu có hành vi trái ý vị Linh mục thì rất khó tại vị. Vị linh mục sẽ đề nghị lên ông Cố vấn chỉ đạo Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (ông Ngô Đình Cẩn) có biện pháp (hoặc thuyên chuyển hoặc cách chức)..

    Vì cảm thông uy quyền ngầm của các vị Linh mục, nên các Tỉnh, Quận trưởng thời nhà Ngô không có ai gan làm trái ý những yêu cầu, đề nghị của các vị Linh mục. Nhiều vùng Linh mục đi giảng đạo nơi nào, có thể yêu cầu Xã trưởng cho mượn Trụ Sở Xã, triệu tập dân xã v.v… Trong khi đó các tôn giáo khác muốn hội họp phải xin phép khó khăn. Nhiều Linh mục còn lộng hành hơn nữa là nhận đơn kiện cáo hoặc thỉnh nguyện của các con chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến Quận trưởng bảo xử theo ý của Linh mục.

    Người ta rỉ tai nhau cho biết các Cha rất có thế lực. Cứ vào Công giáo sẽ như ưu dân, sẽ được đề bạt v.v… Có nhiều Linh mục tổ chức Hội chợ, tổ chức sổ số Tombola không cần giấy phép Bộ Nội Vụ. Khi tiêu thụ Tombola, các Linh mục đã nhờ các Quận trưởng gởi cho các xã bán. Nhiều xã đã xuất công quỹ để mua Tombola ủng hộ các Cha. Người viết biết rất rõ có một nhà thờ ở một tỉnh miền Trung, do Tỉnh trưởng dùng uy quyền chiếm trên 2 mẫu đất công, ở một địa điểm tốt đẹp và lươn lẹo dùng phương tiện công quỹ của tỉnh để xây cất tòa nhà thờ đồ sộ ấy. Công việc nửa chừng thì ông Diệm đổ, viên Tỉnh trưởng bị bắt và nhà thờ xây cất nửa chừng phải bỏ dở.

    Còn biết bao nhiêu tranh chấp lặt vặt phi lý như những thắng cảnh từ lâu vốn là của Phật giáo như Núi Bút Quảng Ngãi, Ngũ Hành Sơn Quảng Nam, chính quyền địa phương đã muốn giúp các linh mục thiết lập nhà thờ ở những nơi ấy nhưng đã bị Phật tử phản ứng quyết liệt.

    Thời gian thuận lợi 1954-1958 bất kỳ ai cũng có thể cầm quyền làm bằng hoặc hơn ông Diệm. Không cần ông Diệm chống Pháp, Pháp cũng rút, vì Hiệp định Genève đã quy định, và vì Pháp đã ký kết với chính phủ Bảo Đại giao trả độc lập cho Việt Nam. Trước khi ông Diệm về chấp chánh đã có gần 40 nước trong thế giới Tự Do công nhận và bang giao với Việt Nam kể cả Anh, Mỹ và Tòa Thánh Vatican. Nếu nói những khó khăn của ông Diệm thời đó, thì cũng phải nói đến những thuận lợi, tiện nghi của ông Diệm trong việc tiếp thu một chính quyền có sẵn tất cả và Đất Nước Đã Chấm Dứt Chiến Tranh.

    Đến đây kẻ viết muốn hỏi nhỏ quý vị đang suy tôn ông Diệm: Ông Diệm từ một đường quan Tri Huyện, lần lượt lên Quản Đạo, Tuần Vũ rồi Thượng thư Bộ Lại, nếu thật sự chống Pháp, sao đường công danh của lãnh tụ quý vị lại hanh thông như vậy? (trong thời Pháp thuộc muốn xin một chân giáo viên mà có thành tích chống Pháp bị ty Liêm Phóng (Service de Sureté phê “Avis défavorable” vào hồ sơ là đương sự xem như… “lúa”, chỉ có về nhà… xua gà cho vợ). Vậy tại sao đường công danh của “chí sĩ” Ngô Đình Diệm lại lên vùn vụt?.

    Việc từ quan của ông Diệm chỉ vì chống nhau với ông Phạm Quỳnh đương triều, nhưng ở đây người viết không đề cập đến vấn đề đó.

    Ông Diệm tự phong mình là người thành tín quân tử, nhưng việc truất phế Bảo Đại là Đại Phản Phúc. Nếu nói chống ông Bảo Đại, thì ai cũng có quyền chống, nhưng trừ ông Diệm. Vì cha, anh ông Diệm và cả ông Diệm vốn là tôi con nhà Nguyễn. Ông Bảo Đại trên nguyên tắc đã tín nhiệm ông Diệm, đã phú thác việc nước cho ông Diệm và ông Diệm đã phục mệnh. Trước và sau khi truất phế ông Bảo Đại, ông Diệm, (qua Bộ Thông Tin) đã thuê bọn bồi bút (hầu hết báo chí thời Diệm) mở một chiến dịch dài hạn đả kích, bêu xấu, vu cáo nhục mạ ông Bảo Đại một cách tàn tệ.

    Thiết nghĩ một người có lương tâm tối thiểu, không ai nỡ hành xử như thế! Cũng phải khen việc “Trưng cầu dân ý” tổ chức thật chu đáo. Đến Bà Từ Cung mà cũng bỏ phiếu truất phế ông Bảo Đại!.

    Tóm lại: Ông Diệm Đã Làm Hỏng Đại Cuộc, đã sát hại nhiều phần tử quốc gia, đã tự tâm thiên vị làm hư Công giáo, đã kỳ thị khủng bố Phật giáo đã Lường Gạt Phản Bội Và Vô Cùng Tham Quyền Cố Vị. (Ông đã vận động Quốc Hội thông qua đạo luật cho ông ứng cử lần thứ 3).

    Do những hành động tham nhũng, đàn áp, khủng bố đại thất nhân tâm như đã kể trên, của bộ máy chính quyền gia nô, do ông lãnh đạo, đã xô đẩy hàng hàng lớp lớp thanh niên, phụ lão, những người vốn không phải Cộng Sản đã ngã về Cộng Sản. Ông Diệm hô hào chống Cộng, độc quyền chống Cộng, cho đến đầu năm 1963 thì toàn quốc ở trong cái thế cài răng lược với Cộng Sản và ông đã tuyên bố trước đó: “Tổ Quốc Lâm Nguy!”.

    Sau khi ông chết, thì tay chân tôi tớ ông vẫn cầm quyền. Hậu quả của Ngô Đình Diệm để lại sau 63 là một ngôi nhà mục nát sửa sang gì cũng khó lòng đứng vững. Bàn cờ nhà Ngô đã đi bậy bạ… Khi sang tay khác đánh cờ, nếu gặp phải tay cao thủ thì còn có thể gỡ gạt…, nhưng không may, bàn cờ lại rơi vào các tay thấp như vịt, cho nên họ chỉ loay hoay lên Tướng, xuống Sĩ và giục Tốt mà thôi!

    Trách Mỹ lật đổ nhà Ngô ư? Mỹ bồng nhà Ngô lên thì Mỹ lại hạ nhà Ngô xuống, có gì mà đáng trách.

    Sau khi ông Diệm chết, tay chân nhà Ngô còn trong quân đội, trong chính quyền đã âm mưu phá nát thêm Quốc gia, bí mật mở cửa cho Cộng Sản thao túng vì muốn chứng tỏ: Không có “Cụ” của chúng thì tai hại thế đó. (Đây là một hiện tượng nguy hiểm cho quốc gia sau ngày Diệm đổ mà ít ai để ý). Chỉ tiếc Dương Văn Minh nhu nhược, đã lật Diệm mà chỉ lật nửa chừng, chỉ hạ cái chóp bu còn tay chân vẫn để y nguyên như cũ, sau Diệm có thể gọi là “Diemist sans Diem”.

  10. conmeo says:

    Ai cũng chưởi ông Thiệu độc diễn. Nhưng sự độc diễn của ông Thiệu còn thật thà hơn ông Diệm, là khi ông Diệm ứng cử nhiệm kỳ 2 (1961) có các ông Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Đình Quát dàn cảnh. Mỗi lần ông Quát, ông Truyền đọc diễn văn tranh cử trên đài không có ai nghe được gì hết vì đài bị phá. Cán bộ các ông ấy đi về các tỉnh vận động liền bị Công an tổ chức những nhóm anh chị du côn hăm dọa họ xin tý huyết. Khắp nơi, ngày bỏ phiếu họ trốn về không dám ở lại các tỉnh. Vậy mà sau khi kiểm phiếu Quận trưởng, Xã trưởng phải… chịu khó tráo sửa biên bản để Ngô Tổng thống được 95% số phiếu.

    Về kinh tế, tất cả tài nguyên từ trên núi xuống bể, mọi dịch vụ tài chánh từ Quảng Trị đến Cà Mâu, thượng vàng hạ cám, đều do tay chân quyến thuộc nhà Ngô bao thầu, thao túng, chiếm đoạt khai thác. Người viết không muốn bẩn bút nhắc đến những ai trong thân tộc hoặc tay chân Ngô triều vốn là Tay trắng chỉ trong vài năm “làm kinh tài cho đoàn thể” đã trở nên triệu phú kếch xù!

    Ông Diệm nói chống Cộng nhưng tất cả việc làm của Ngô triều đều bắt chước Cộng Sản. Cộng Sản bắt dân suy tôn Hồ Chí Minh thì ông Diệm cũng bắt dân suy tôn mình. Cộng Sản có Quốc Hội bù nhìn, thì ông Diệm cũng tổ chức một cái Quốc Hội nghị gật tay sai. (Quốc Hội gì mà cả một khóa họp chỉ ê a thảo luận các luật gia đình để có lợi cho bà “Đệ Nhất Phu Nhân”?) Cộng Sản có cái đảng Lao Động làm nòng cốt, Mặt Trận Cứu Quốc Liên Việt làm ngoại vi, thì ông Diệm cũng có cái Đảng Cần Lao làm cốt và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, Tập Đoàn Công Dân, Phụ Nữ Liên Đới làm ngoại vi. Nhưng có một điều khác là Cộng Sản, từ Đảng đẻ ra chính quyền, còn ông Diệm thì có chính quyền rồi mới dùng nhân sự, phương tiện của chính quyền đẻ ra Đảng. Nên tất cả tổ chức của ông Diệm chỉ là bèo bọt, chính quyền đổ thì đảng đổ theo.

    Cộng Sản độc quyền ái quốc, ai khác mình là phản động Việt gian, thì ông Diệm cũng độc quyền chống Cộng, ai khác mình là Cộng Sản phải giết! (Đã biết bao người chống Cộng, từng bị Cộng Sản giam cầm, đến khi ông Diệm cầm quyền thì hồ sơ của họ trở thành là những người hoạt động cho Cộng Sản! Biết bao đảng viên Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân một sớm một chiều hồ sơ của họ biến thành Cộng Sản di hại cho họ mãi sau khi ông Diệm đổ).

    Cộng Sản có chủ thuyết Mác Xít, giai cấp đấu tranh thì ông Diệm cũng ráng nặn ra cái chủ nghĩa nhân vị nhưng hoàn toàn vô vị… (vô vị vì ngoài tay chân ông Diệm ra toàn dân có ai để ý hoặc tìm hiểu các thuyết nhân vị là gì đâu?). Cộng Sản có hiến pháp nhưng không bao giờ thực thi, thì ông Diệm cũng bắt chước mà dẫm nát lên Hiến Pháp của mình.

    Tự do đi lại, hội họp, ngôn luận v.v… những quyền tối thiểu ấy có ghi trong Hiến Pháp, nhưng suốt 9 năm ông Diệm cầm quyền có bao giờ thực thi đâu?. Báo chí thời Diệm trừ tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện bị đóng cửa đưa ra Tòa và tờ Tân Dân của Cụ Lộc phải đình bản, còn tất cả đều nói theo luận điệu của đài Sài Gòn. Thế cho nên bao nhiêu hành vi gian ác bất lương, tham nhũng của tay chân cán bộ nhà Ngô có bao giờ được công khai phanh phui như trong các Chính phủ khác?.

    Từ xưa đến nay chưa có một vị lãnh đạo quốc gia nào làm phiền nhiễu dân chúng như ông Diệm. Mỗi lần ông Diệm đi kinh lý một tỉnh nào thì toàn dân tỉnh ấy phải chuẩn bị cơm nước từ khuya, quần áo tươm tất, đi bộ lên tỉnh để cầm cờ tung hô ông Diệm. (Gia đình nào không có lý do chính đáng mà vắng mặt sẽ bị Xã, Ấp ghi vào sổ đen rất nguy hiểm). Còn các cơ quan Hành chánh, Quân sự Tỉnh, Quận được huy động tối đa trong việc đón tiếp. Phải bố trí công an chìm nổi, phải tổ chức huấn luyện cho những người đứng gần ông Diệm thưa bẩm những gì… phải dàn cảnh sao cho xôm tụ, cho Tổng thống hài lòng. Thành thử dù nghìn lần đi kinh lý, ông Diệm chỉ thấy cái giả dối, hào nhoáng bề ngoài, làm gì biết được ẩn tình dân chúng bên trong..Thời gian ông Diệm cầm quyền ở nhiệm kỳ I, trong nước chưa có chiến tranh nhưng mọi tự do đều bị bóp nghẹt: không có giấy chứng nhận đi bầu cử thì không được ra khỏi làng để đi chợ..

    Có một điều kỳ lạ tại sao ông Diệm lại bãi bỏ Lễ Tổ Hùng Vương? nhưng có người mách: điều kỳ lạ này có thể hỏi Đức Cha Cố Vấn cho ông Diệm..

Phản hồi