WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Bé Hoàng Sa và đôi dép màu hồng

Từ sau 1975 có nhiều ngày trở nên ồn ào, náo nhiệt. Ngày cách mạng tháng Tám, ngày thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, ngày giải phóng miền Nam, ngày thương binh liệt sĩ, ngày phụ nữ, ngày nhà báo, ngày người cao tuổi, ngày thầy thuốc, ngày HIV, ngày bệnh lao, ngày thành lập Đảng… Ngày nào cũng là ngày kỷ niệm, cũng rất quan trọng và đáng nhớ. Hội hè, kỵ chạp, cúng giỗ ăn uống ngồm ngoàm, rước xách đều như nhau cả.

Ngày 20 tháng 11, ngày nhà giáo Việt nam Xã hội chủ nghĩa có lẽ là một ngày rộn ràng, náo nhiệt nhất trong năm. Trên các nẻo đường từ thành phố đến thôn xóm làng quê, học sinh, sinh viên các cấp kể cả phụ huynh, từng người, từng nhóm, từng đoàn lũ lượt đi bộ, đèo xe cặp đôi, cặp ba, hàng dọc hàng ngang tìm đến nhà thầy cô để tặng hoa tặng quà.

Trong cái ngày đặc biệt này cảnh sát giao thông cũng tham dự bằng thái độ dễ dãi, thông cảm. Thầy cô giáo đa phần chuẩn bị nhà cửa để đón tiếp học sinh, không ít vị trước đó đã gợi ý với môn đệ, với phụ huynh: nhà tôi thiếu cái này, cái kia. Nhưng cũng có đôi ba vị thấy sợ, thấy chướng, thấy xấu hổ nên từ sáng sớm đã khóa cổng, khóa cửa tìm chỗ trốn tránh.
Ngày 20 tháng 11 năm 1997, như thường lệ, tôi nhận ca trực lúc 5g chiều tại phòng hồi sức cấp cứu nhi, bệnh viện đa khoa Đà Nẵng. Phòng có 10 giường nhưng chỉ có 9 bệnh nhân. Sau khi thăm khám bệnh, xem lại y lệnh, tôi tự nhủ đêm nay có lẽ không vất vả là bao, chỉ một trường hợp xuất huyết não của trẻ 45 ngày tuổi đang thở máy là nặng, những bệnh còn lại tạm ổn.

Tôi vào phòng bác sĩ, bật truyền hình xem thời sự. Chị y tá Tâm(1) đưa tôi ổ mì kẹp thịt và nói:

– “Bác Thoa ăn đi kẻo chốc nữa có bệnh nặng lại ăn không được. Hôm nay Xuân(2) nó trực với em, vía nó nặng lắm, chắc không thư thả được đâu. Nói rồi chị quay sang bình nước lọc rót cho tôi một ly.

Các chị y tá rất tin vào vía của mỗi người: vía nặng, vía nhẹ. Trực với người này, vía nhẹ thì thong thả nhẹ nhàng, trực với người kia, vía nặng thì nhọc nhằn, vất vả, nhiễu sự.

Không tin chuyện vía nặng vía nhẹ, chậm rãi ngồi nhai bánh mì và xem truyền hình, tôi để tâm lắng nghe ông giám đốc sở Giáo dục đọc diễn văn nhân ngày nhà giáo Việt nam. Ông ta nói nhiều, nói dài, nhưng tôi chẳng nhớ điều gì ngoài câu tục ngữ ông lặp đi lặp lại nhiều lần: “ Muốn sang thì bắt cầu kiều – muốn con hay chữ phải yêu mến thầy ”. Không hiểu ông giám đốc sở Giáo dục nhấn mạnh câu tục ngữ này trong cương vị của mình có thích hợp không? Ông có gợi ý điều gì không trong bài diễn văn đậm đà tính chất dân gian của mình?

Sau biến cố 1975, từ miền Bắc tràn vào miền Nam nhiều thứ, mà nghe đâu một người lãnh đạo kháng chiến nổi tiếng tại khu 5 và Quảng Nam – Đà Nẵng – ông Hồ Nghinh, trong chỗ riêng tư, đã nhận định rằng là: “ một làn gió hắc ám và độc hại ”. Một trong những thứ hắc ám và độc hại đó, biểu hiện trong ngành giáo dục nói riêng, là những bóng đen núp sau chiêu bài ơn nghĩa. “ Khi người ta thiếu hoặc không có cái gì thì người ta hay nói nhiều, nói quá về cái đó ”. Ai đó đã nói với tôi câu này. Sau ngày “Giải phóng” tôi nghe quá nhiều từ “ơn” từ phía những người ở miền Bắc vào. Ơn Đảng. Ơn Bác. Ơn kháng chiến. Ơn ông bí thư. Ơn ông chủ tịch và ơn Thầy Cô…

“ Khi người ta thiếu cái gì…” Phải chăng nhận định đó không còn là của riêng ai, mà là của tất cả mọi người đã trải nghiệm một cách cay đắng, bẽ bàng, thấm thía sự phá sản, đảo lộn ngôn từ trong bối cảnh “cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa long trời lở đất”, “ đấu tranh này là trận cuối cùng..”.

Tiếp theo lời khuyến dụ của ông giám đốc sở Giáo dục là tiết mục trình diễn một bản nhạc của một ca sĩ mà mới nghe qua tôi rất thích: “ Khi thầy viết bảng bụi phấn trắng bay bay, có hạt bụi nào vương trên bục giảng, có hạt bụi nào vương trên tóc thầy…”. Rõ ràng giai điệu tha thiết, lời ca đẹp, giọng hát ngọt ngào, xúc cảm… diễn tả hình ảnh và nghĩa cử của người Thầy lí tưởng và lòng biết ơn của người học trò lí tưởng. Cả hai đều không có thật trong cuộc sống nhãn tiền. Rõ ràng có một sự mâu thuẫn trầm trọng giữa thực trạng giáo dục, thực trạng đất nước với lời kêu gọi của ông giám đốc sở với giai điệu, lời ca, giọng hát của người nhạc sĩ, ca sĩ.

Miên man suy nghĩ về ngày nhà giáo, ăn chưa hết nửa ổ mì, chuông cấp cứu réo lên, các chị y tá bỏ lỡ bữa ăn đưa xe tiếp nhận bệnh nhân, tôi vớ chiếc ống nghe vội chạy theo.

Trên xe đẩy, một bé gái chừng 12 tuổi, da xanh tái, trán rịn mồ hôi, thở từng cơn ngắn được chuyển vào. Em bị té ngã khi cùng các bạn đi thăm thầy cô. Phòng cấp cứu ngoại khoa đã chụp phim cắt lớp(3) loại trừ chấn thương sọ não, em được chuyển vào phòng cấp cứu hồi sức nhi với chẩn đoán: hạ đường huyết(4).

Tôi bắt mạch, bàn tay em lạnh quá, mạch nhẹ và chậm, đếm thoáng 15 giây, án chừng mạch không quá 40 lần / phút.
Đặt em nằm lên giường cấp cứu, y tá Tâm cho thở oxy, tôi mắc vội monitoring kiểm tra các dấu hiệu sinh tồn(5). Điện tim(6) trên monitoring biểu hiện một cơn nhịp xoang chậm, 42 lần / phút, đoạn PR dài hơn bình thường: phân li nhĩ thất cấp I(7). Tôi vội cho thuốc nâng mạch và kiểm tra lại đường huyết.

Qua các thông tin sơ khởi, tôi biết được: Em đã cùng các bạn rong ruổi đi thăm thầy cô từ sáng sớm, chưa ăn gì trước khi bị ngất xỉu, té trên đường. Người đi đường và bạn bè gọi cấp cứu 05 đưa vào bệnh viện. Gia đình em ở Hòa Khánh (cách bệnh viện 7 – 8 km) đã được thông báo nhưng chưa vào kịp.

Sau khi làm các xét nghiệm khẩn, bơm glucose, nâng mạch bằng Atropin, mười phút sau tình trạng bệnh không cải thiện, trên monitoring nhịp tim còn 40 lần/phút, xuất hiện dấu hiệu phân li nhĩ thất cấp II. Không có máy tạo nhịp, tôi quyết định dùng thuốc Isuprel. Tủ thuốc trực cấp cứu không có Isuprel, muốn dùng phải mua ở các nhà thuốc bên ngoài bệnh viện. Người nhà chưa đến, người nuôi bệnh giường bên cạnh tình nguyện đi mua giùm.

Trong lúc chị y tá Tâm chuẩn bị bơm tiêm để chuyền Isuprel thì chuông điện thoại phòng trực réo lên. Chị hộ lý bắt máy và nói:

– “Có người trên Thành ủy cần gặp bác sĩ trực gấp”.

Tôi nói với chị hộ lý trả lời giùm rằng tôi đang cấp cứu bệnh nhân, có gì sẽ gặp sau. Chị hộ lý nói lại, và người bên kia đường dây gởi lời nhắn với bác sĩ trực:

– “Cháu Trương thị Hoàng Sa là con của một sĩ quan đang đóng quân ở Trường Sa, đề nghị các bác sĩ điều trị chu đáo”.
Vừa lúc ấy mẹ cháu Hoàng Sa đến. Chị hớt hải hỏi tôi về bệnh tình của con mình. Tôi giải thích tình trạng bệnh của Hoàng Sa và nói thêm:

– “Bệnh cần dùng thuốc Isuprel mà tủ thuốc trực không có, anh nuôi bệnh gường bên đã mua giùm, chị có thể trả lại tiền cho anh ấy”

Người mẹ tần ngần giây lát rồi bảo:

– “ Bác sĩ chờ cho tôi một chốc, tôi có người quen trên Thành ủy, tôi sẽ nhờ hỏi xem bệnh viện có thuốc tốt hơn không? Thuốc mua ngoài sợ không bảo đảm chất lượng”.

Đành phải hoãn tiêm chuyền Isuprel và chờ đợi. Tôi bồn chồn lo lắng, chữa bệnh cần thời gian tính. Thời khắc vàng đôi khi chỉ vài giây. Trong vài giây tìm được cái vein nhỏ xíu để chuyền thuốc là cứu được người bệnh, bằng không là thất bại, là tử vong. Tôi hết nhìn lên monitoring lại nhìn người mẹ đang nói chuyện qua điện thoại ở phòng bên mà lòng rối bời. Cầm bàn tay lạnh và xanh của Hoàng Sa, tôi tiên cảm điều không lành. Chị y tá Tâm nhắc tôi:

– “Bác Thoa, qui định của bệnh viện khi dùng thuốc ngoài danh mục bắt buộc phải có hội chẩn với bác sĩ trực giám đốc, bác là người hay quên nhất, khéo mà mang vạ vào thân, con cháu ông lớn đó”.

Tôi nói với cô bác sĩ trẻ trực cùng phiên, bác sĩ Hồ Dung Diễm(8) làm các thủ tục mời giám đốc hội chẩn, đồng thời cố giải thích thêm một lần nữa về tình trạng khẩn cấp và trầm trọng của bệnh nhân nếu chậm chuyền thuốc. Nhưng người mẹ vẫn muốn chờ lệnh của Thành ủy và thuốc của bệnh viện.

Cầm ống thuốc đã pha, nhìn lên monitoring thấy nhịp tim chậm dần, chậm dần mà lòng tôi nóng như lửa đốt. Nhưng rồi tôi tự nghĩ: Ống thuốc trong tay mình có chắc là thuốc thật hay không? Ai bảo đảm đây không phải là thuốc dổm. Chị y tá Tâm cầm bơm tiêm nhìn tôi chờ y lệnh và cũng ngầm cảnh báo.

Gần ba mươi phút sau, bác sĩ giám đốc, chủ nhiệm khoa dược đến cùng với vị khách bên Thành ủy.

Trưởng khoa dược thông báo khoa không có Isuprel vì đây là loại thuốc ít khi dùng nên khoa không nhập về.
Bác sĩ giám đốc, dược sĩ trưởng khoa dược ngồi vào bàn, trầm ngâm, chậm rải vuốt tờ biên bản thật thẳng, để lại thật ngay ngắn và thong thả ký biên bản hội chẩn: – “Bệnh viện không có Isuprel, quyết định sử dụng thuốc ngoài danh mục”. Ký xong ba vị đứng dậy ra về. Vị khách Thành ủy đến vỗ vai người mẹ và nói:

– “Chị an tâm, bác sĩ sẽ làm tốt thôi.” Người mẹ khúm núm vâng dạ cám ơn.

Trên monitoring lúc này nhịp tim của bệnh nhân còn 32 lần / phút, biểu hiện phân li nhĩ thất cấp III, hội chứng Adams Stocks, PaO2 còn 60mmHg(9). Tình trạng gần như vô vọng. Isuprel thật hay Isuprel giả không còn là vấn đề nữa rồi. Tôi và các chị y tá đã làm hết sức mình nhưng kết quả hoàn toàn không tốt như lời phán của lãnh đạo Thành ủy. Cái thật, cái giả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã lấy đi cái may mắn sống còn của em bé 12 tuổi mà mới chiều nay thôi còn cười nói với bạn bè, đi hết nhà này đến nhà kia tặng hoa và quà cho thầy cô giáo.

Cầm bàn tay lạnh ngắt, mạch lặng như tờ, tôi biết mình đã thất bại. Điện tim trên monitoring là một đường thẳng, tiêm Adrenaline xuyên tim, ấn tim ngoài lồng ngực, bóp bóng oxy hỗ trợ…, hơn ba mươi phút không hiệu quả, tôi rã rời buồn bã báo với người nhà: Cháu đã ra đi.

Tiếng khóc vỡ òa của người mẹ xé lòng tất cả chúng tôi trong phiên trực.

Trở về bàn làm việc, ngồi viết giấy khai tử, đầu và hai vai tôi nặng trĩu như bị đè bởi cả khối trời.

Bốn ngày sau, 11 giờ 30 trưa, chuẩn bị nghỉ, thấy mẹ cháu Hoàng Sa đứng tần ngần trước cửa ra vào phòng bệnh, tôi đến với chị và hỏi:

– “Chị cần gì không? Chúng tôi có thể giúp gì cho chị?

Không trả lời tôi, chị đi thẳng vào bệnh phòng, đến giường số 2 nơi cháu Hoàng Sa nằm cách đây 4 ngày. Chị đi quanh, rồi đứng lại vịn thành giường, hết nhìn vào em bé đang nằm điều trị, lại nhìn xuống nền nhà, miệng lẩm bẩm: “Đôi dép màu hồng của con đâu rồi”? Đi theo chị quanh giường số 2, tôi nói:

– “ Chúng tôi không thấy có đôi dép nào ở đây cả, chị về nhà xem lại có ai để đâu đó không?

Không trả lời tôi, chị đứng nhìn thật lâu đứa bé đang nằm trên giường số 2 rồi lặng lẽ ra về.

Ngày hôm sau, 11 giờ 30 trưa, người mẹ đó lại xuất hiện, đi quanh giường số 2, hỏi thăm các cô y tá về đôi dép màu hồng rồi lặng lẽ ra về.

Ngày thứ ba cũng thế. Tôi bắt đầu thấy có cái gì đó không ổn ở người phụ nữ này. Tôi mời chị về phòng nói chuyện. Tôi cố giải thích cho chị là chúng tôi đã làm hết những gì có thể làm được. Cái chết của Hoàng Sa, con chị có thể là số mệnh… Tôi nói nhưng hình như tôi cũng không biết mình đang nói gì.

Với đôi mắt ráo hoảnh, vô thần, chị nhìn tôi một lúc rồi bảo:

– “Bác sĩ có thấy đôi dép màu hồng của Hoàng Sa đâu không? Ở nhà tôi không nghe tiếng dép của nó đã mấy ngày rồi”.
Nói xong, chị đứng dậy nhìn quanh chiếc ghế đã ngồi như tìm kiếm vật gì. Tôi tiễn chị ra cửa phòng mà lòng quặn thắt.
Những ngày tiếp theo, người mẹ ấy không vào phòng bệnh nữa, chị đến phòng hồi sức nhi, đứng ngoài nhìn vào qua cửa kính rất lâu, rồi đến thắp hương nơi chiếc trang nhỏ đặt trên gốc cây sứ trong vườn hoa cạnh phòng cấp cứu. Thắp hương xong, chị đến ngồi trên chiếc ghế đá dưới gốc cây bàng sau phòng bệnh. Cứ thế, mỗi trưa chị đến thắp hương, ngồi lại lẩm bẩm nói chuyện một mình, đến nửa chiều lại ra về.

Một hôm, khoảng 15 ngày sau khi cháu Hoàng Sa ra đi, một người đàn ông dáng vóc khỏe mạnh, nước da ngăm đen đến tìm chị đang ngồi trên chiếc ghế đá dưới gốc cây bàng. Ông trìu mến, dỗ dành, đưa chị về.

Người đàn ông nọ đến gặp tôi tại văn phòng khoa mấy ngày sau đó. Anh tự giới thiệu là bố của Hoàng Sa, anh đến nhận giấy khai tử của con và để cám ơn chúng tôi. Anh còn cho biết thêm anh là chiến sĩ đóng quân trên đảo Trường Sa lớn. Khi con mất anh không về kịp. Hoàng Sa là con gái duy nhất của anh chị, họ đến với nhau khi chiến tranh kết thúc, đã lớn tuổi và khó khăn lắm mới có được mụn con. Tôi nhận ra trên khuôn mặt rám nắng và rắn rỏi của anh nỗi đau dường như bất tận. Anh nói lời cám ơn khiến lòng tôi đau xé. Tôi thầm nghĩ: Không biết người chiến sĩ kia có còn giữ vững được tay súng trước đầu sóng ngọn gió nữa không?

Cái chết của cháu Hoàng Sa không chỉ gây đau thương cho mẹ cha, gia đình và bạn bè của cháu, nó là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước đã tích lũy từ “ Huế, trường y của tôi và cả miền Nam Giải phóng ”. Ba năm thật dài tại bệnh viện tỉnh Daklak và 15, 16 năm vô cùng khó khăn căng thẳng của chính tôi tại bệnh viện Đà Nẵng. Có quá nhiều đêm không ngủ với ý nghĩ rằng mình đang bị khủng hoảng và rối loạn tâm thần.

Bà mẹ Hoàng Sa thơ thẩn đi tìm đôi dép màu hồng của đứa con duy nhất.

Còn tôi ngày càng quẩn quanh với quá nhiều câu hỏi khởi đầu bằng chữ nếu.

– Nếu không có cuộc hội chẩn giám đốc quái gở…?

– Nếu bệnh viện Đà Nẵng có sẵn ống thuốc Isuprel và người mẹ của Hoàng Sa không kêu cầu Thành ủy?

– Nếu đảng Cộng sản và nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam có chính sách lao động, lương bổng hợp lý thay vì kêu gọi mọi người “muốn con hay chữ phải yêu mến thầy”

Nếu… nếu… nếu…?

Và cuối cùng: Nếu đảng Cộng sản không đối lập quyền tuyệt đối của mình với trí khôn bình thường và tình yêu thương con người một cách bình dị của nhân dân.

Chồng tôi, anh C. S, đâm hoảng khi thấy tình trạng sức khỏe của tôi không được cải thiện sau khi rời Ban mê thuột. Anh khuyên tôi tạm thời quên đi những tra vấn không lối thoát. Anh ấy nói rằng:

– “Không có lời giải đáp cho chữ nếu khi nhìn lại lịch sử”.

Tôi nói: “Em không nhìn lại lịch sử, mà em, chúng ta đang đối diện với đảng Cộng sản với một đường lối không bình thường và những con người nhẫn tâm trước chết chóc, đau khổ của kẻ khác. Sự tham luyến quyền lực và vật chất của đảng Cộng sản là quá độ”.

– “Nhưng đảng cộng sản ngày nay không rơi xuống từ trên trời mà là kết quả của một khủng hoảng nhân loại diễn ra trên bình diện toàn cầu. Không có sự bóc lột dã man những người cùng khổ trong thế giới Tư sản, không có chủ nghĩa thực dân và khai thác thuộc địa bạo tàn, không có những cuộc chiến tranh thế giới giữa các đế quốc để giành tài nguyên và khu vực ảnh hưởng, sẽ không có chủ nghĩa Cộng sản và phong trào Cộng sản quốc tế. Không có các phong trào yêu nước lần lượt thất bại và sự hình thành của đảng Cộng sản với hai ngọn cờ Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội và cả cuộc kháng chiến trường kỳ, khốc liệt, đẫm máu, và các cuộc cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, cải tạo văn hóa bạo ngược và thô thiển. Tất cả những thứ ấy nằm trong một bối cảnh mà các cực đối lập tương sinh, tương tác và vận hành theo chuyển động quán tính. Khi cuộc sống nhân loại bị kéo lệch về phía bên này thì một phản động lực tất yếu vận động theo chiều ngược lại, kéo lệch cuộc sống về phía bên kia. Cuộc vận động ấy không chỉ diễn ra trên bình diện nhân loại, nó còn diến ra trong những phạm vi nhỏ hơn đến mỗi một cá nhân. Lý tưởng và bản năng, trí tuệ và u mê, vị kỷ và vị tha, hy sinh và cưỡng đoạt, giải phóng và nô lệ chỉ là hai mặt của một tồn tại. Nếu em nhận ra mình đang đứng ở đâu, vào thời điểm nào trong cuộc vận hành ấy thì nỗi khổ và sự giằng xé của em sẽ lắng xuống, tâm thần em sẽ trở lại bình thường. Từ bình thường anh dùng trong trường hợp này em phải hiểu một cách tương đối. Anh không nói chúng ta sẽ sống hạnh phúc và khỏe mạnh đầy đủ giữa một bối cảnh ngày một bế tắc và thối rữa như thế này. Anh chỉ nói em không nên để cho những bi lụy nó hủy hoại thân tâm và cuộc sống gia đình mà em đã góp phần tạo dựng. Vợ – chồng, mẹ – con, thầy thuốc – bệnh nhân, gia đình – cộng đồng, đất nước và thế giới… Em có tồn tại mới có hy vọng cải thiện các mối tương quan ấy. Những bức xúc, phẫn nộ, giằng xé của em tại bệnh viện và của chúng ta giữa đất nước và thế giới chúng tỏ em, anh, chúng ta chưa hoàn toàn tuyệt vọng”. Nhiều lần anh Chu Sơn luận giải với tôi những điều đại loại như thế. Và có lẽ anh cũng tự thuyết phục chính mình bằng những luận giải như thế.
Đành rằng chúng tôi không nên quá bi lụy, hoảng hốt để mình rơi vào tình trạng thụ động suy sụp tinh thần một cách bệnh lý. Nhưng chúng tôi cũng không đủ bản lãnh để nhẫn nhục chịu đựng và an nhiên tự tại như một nhà tu hành trong một thế giới không có lương tâm. Trong cái thế chẳng đặng đừng, chúng tôi âm thầm chịu đựng và đơn độc chống lại cái ngu, cái ác hoành hành ngang ngược như một dịch bệnh. Nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu, chính xác là tất cả những nỗ lực của chúng tôi như muối bỏ biển, như nước chảy lá môn, như sương đêm trước nắng cháy sa mạc. Bất quá chỉ hành xử có tính cách lương tâm.

Tại bệnh viện Đà Nẵng, khoảng 1500 con người gồm y bác sĩ, y tá, y công, dược sĩ, dược tá, nhân viên hành chánh, bảo vệ… từ ba nguồn khác nhau: Mỹ – Ngụy lưu dung, trên núi xuống, ngoài Bắc vào, tất cả bị sai khiến bởi bộ tứ: Đảng ủy, ban giám đốc, công đoàn, đoàn thanh niên. Bộ tứ trên danh nghĩa chứng tỏ có một tập thể, thực tế quyền lực chỉ có một: Đảng. Đảng ủy: đảng, công đoàn: đảng, giám đốc: đảng, thanh niên: đảng. Tôi không nói mọi đảng viên đều ngu dốt và độc ác. Tôi cũng không nói mọi người ngoài đảng, đặc biệt là người miền Nam (Mỹ – Ngụy, lưu dung) đều hoàn hảo. Cái ác, cái đê tiện, cái xấu xa, cái ngu dốt, cái tối tăm ở đâu và bất cứ nới nào cũng có không ít thì nhiều. Có điều trong chế độ Cộng sản, đặc biệt trong cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, cái ác, cái xấu, cái đê tiện, cái ngu dốt tối tăm, cái vô trách nhiệm, cái dửng dưng vô cảm, trơ lì ngày một tăng trưởng và những con người mang những thuộc tính ấy ngày một nhiều thêm. Trái lại, những con người lương thiện ngày một ít đi. Để rồi từ đất nước đến mỗi thành viên, cơ phận, gia đình, con người, và những chi tiết tồn tại trong đó rơi vào tình trạng suy đốn, băng hoại như một căn bệnh nan y.

Trở lại cuộc hội chẩn giám đốc kỳ quái mà tôi đã tham dự với cái chết của cháu Hoàng Sa. Thành phần tham dự hội chẩn gồm có: bác sĩ giám đốc là một bác sĩ chuyên khoa X-Quang, trưởng khoa dược là dược sĩ từ Bắc vào, ông khách Thành ủy có lẽ là chuyên khoa lãnh đạo, bác sĩ Hồ Dung Diễm và tôi, bác sĩ chuyên khoa II nhi(10), trưởng tua trực. Cuộc hội chẩn bắt đầu sau khi cháu Hoàng Sa vào viện khoảng 30 phút, kéo dài khoảng 5 phút. Tôi báo cáo tóm tắt tình hình bệnh và đề xuất hướng điều trị. Giám đốc ngồi nghe và vuốt thật thẳng tờ biên bản hội chẩn. Trưởng khoa dược báo cáo khoa dược không có thuốc Isuprel, đề nghị cho dùng thuốc ngoài danh mục (mua ngoài). Ông khách Thành ủy chứng kiến từ đầu đến cuối và ra lệnh chúng tôi tích cực cứu chữa cho cháu Hoàng Sa. Ông nhấn mạnh cháu Hoàng Sa thuộc gia đình có công với cánh mạng, hiện tại cha cháu là sĩ quan đang bảo vệ Trường Sa, mẹ của cháu là giáo viên, cả hai đều là đảng viên. Cuộc hội chẩn kết thúc với biên bản được ký bởi giám đốc bệnh viện, trưởng khoa dược và cuối cùng là tôi. Như thế là sau khi ký vào biên bản hội chẩn tôi mới có quyền điều trị cho cháu Hoàng Sa với liều thuốc Isuprel mà y tá Tâm chuẩn bị hơn 30 phút trước. Và kết quả Hoàng Sa đã chết sau bao nỗ lực tuyệt vọng của chúng tôi. Xin mở một ngoặc đơn giải thích ở đây, nếu không có cuộc điện thoại của Thành ủy, nếu mẹ cháu Hoàng Sa không quá tin vào quyền lực của thành ủy thì tôi có thể sử dụng thuốc ngay từ đầu, Hoàng Sa sẽ có cơ may nhiều phần trăm được cứu sống.

“Hội chẩn giám đốc” hay nói một cách thông thường là “duyệt giám đốc” diễn ra khắp các bệnh viện lớn nhỏ trong cả nước suốt nhiều chục năm Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối đã cướp đi những cơ may sống sót của rất nhiều bệnh nhân. Trường hợp cháu Hoàng Sa chỉ là một thí dụ.

Xin nói thêm về hoạt động “Hội chẩn” để biểu thị quyền làm chủ tập thể trong các bệnh viện Việt nam Xã hội chủ nghĩa. Có rất nhiều loại hội chẩn, chỉ xin nói về hai loại phổ biến trong bệnh viện:

Hội chẩn chuyên môn, đây là một hoạt động thuần túy chuyên môn, nhưng bao giờ cũng có đại diện giám đốc tham dự, đa phần là phó giám đốc. Hội chẩn diễn ra tại các bệnh phòng trong các trường hợp có vướng mắc về chẩn đoán cũng như điều trị. Chẳng hạn bệnh nhi tim mạch thỉnh thoảng mời bác sĩ của khoa chẩn đoàn hình ảnh hay khoa ngoại lồng ngực… Hội chẩn giữa các bác sĩ nội ngoại khoa hay sản khoa khi có sự cần phối hợp.

Để có một chẩn đoán chính xác và giải pháp điều trị đúng đắn ở bất cứ chế độ nào cũng cần những cuộc hội chẩn như thế. Có điều ở đây người đại diện giám đốc là người có phán quyết sau cùng.

Hội chẩn giám đốc về các vấn đề ngoài chuyên môn như hội chẩn để có quyết định sử dụng thuốc ngoài danh mục, hội chẩn chuyển viện… Đây thực chất là sự giám sát của đảng. Đặc biệt là “hội chẩn dùng thuốc ngoài danh mục” là một “sáng tạo” tại các cơ sở điều trị của ngành y tế Việt nam trong bối cảnh “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Tại các bệnh viện công, khoa dược căn cứ vào tình hình thuốc hiện hữu trong kho mà lên một danh sách và thông báo cho các khoa phòng sử dụng: đây là thuốc trong danh mục. Hàng năm khoa dược cũng tổ chức các buổi tham khảo ý kiến các bác sĩ để biết các bác sĩ cần gì cho bệnh nhân, nhưng đó chỉ là việc làm lấy lệ. Khoa dược mua, nhập thuốc gì là còn tùy thuôc vào ý đồ của các đối tác là các công ty, các hãng thuốc ngoại. Ví dụ khoa nhi đã bao lần đề nghị nhập thuốc ở dạng si rô hay dạng bột thơm cho trẻ em, nhưng gần 25 năm trong công việc điều trị nhi khoa tại bệnh viện Đà Nẵng, tôi chỉ được dùng các loại thuốc kháng sinh dạng viên của người lớn: viên nén hay viên con nhộng(11) hàm lượng 500mg hay 250mg. Khi sử dụng y tá phải mở bỏ vỏ hay tán mịn rồi chia hai, chia ba, chia bốn, chia năm tùy theo trọng lượng của cháu bé. Các cháu phải uống thứ thuốc bột đắng, gây ói mửa, tác dụng chỉ còn vài chục phần trăm. Nhiều gia đình xin tự mua thuốc ở ngoài, nhưng bác sĩ cũng ngại vì lỡ có chuyện không hay, mọi trách nhiệm người bác sĩ phải gánh chịu. Một dược sĩ đã nói với tôi: “Các hãng thuốc nước ngoài đã đúc những chìa khóa bằng vàng để mở tất cả các cửa lớn bé từ Trung ương xuống địa phương. Người bệnh trong các nước Xã hội chủ nghĩa sử dụng thuốc đắt hơn nhiều lần so với người bệnh trong các nước Tư bản”.

Trở lại vấn đề “thuốc trong danh mục”. Bác sĩ ở các khoa phòng căn cứ vào danh mục thuốc do khoa dược thông báo để kê đơn điều trị hoặc ghi vào bệnh án. Thuốc trong danh mục thông thường đáp ứng yêu cầu điều trị các bệnh phổ biến. Trong trường hợp đặc biệt, như trường hợp cháu Hoàng Sa, khoa dược không có. Tại sao? Một bệnh viện lớn như bệnh viện Đà Nẵng lại không có các loại thuốc đặc biệt này là một vấn đề cần thảo luận. Theo khoa dược: vì thuốc ít sử dụng, nếu mua về để quá hạng phải bỏ đi, khoa dược không chuẩn bị những loại thuốc như thế là để tiết kiệm tiền của nhân dân. Lí giải như thế là gian, theo nhận định của tôi và nhiều y bác sĩ khác. Bằng cớ là các nhà thuốc tư nhân phạm vi hoạt động nhỏ hơn khoa dược rất nhiều lại có thuốc đặc dụng để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Động cơ là lợi nhuận.

Khi điều trị tại bệnh phòng với thuốc ngoài danh mục, phải có sự duyệt ký của giám đốc, bác sĩ điều trị không được phép kê đơn cho bệnh nhân mua thuốc ở các quầy thuốc tư nhân mặc dù các cửa hàng này đã có giấy phép của nhà nước, có dược sĩ chịu trách nhiệm và cũng được sở y tế quản lý. Phép tắc này diễn ra dưới các hình thức:

Hoặc là giám đốc ký vào một tờ trình do y tá hành chính có nhiệm vụ lãnh thuốc trình ký tận nơi ông ta ngồi. Tình trạng này diễn ra hàng ngày. Để có chứ ký của giám đốc, y tá phải đi nhiều lần, có khi nhiều ngày vì giám đốc bận “đi họp” ở đâu đó.

Hoặc là trong trường hợp trực cấp cứu, giám đốc hay người trực thay giám đốc (đa phần là các phó giám đốc kể cả phó giám đốc đời sống hay vật tư) ký vào biên bản hội chẩn của ít nhất là hai bác sĩ đang trực tại phòng cấp cứu. Biên bản này cũng do y tá trực trình ký tại phòng trực giám đốc. Đôi khi người trực giám đốc đi đâu đó chỉ để lại điện thoại, y tá trực gọi điện và người trực giám đốc “ký miệng”, sáng mai ký thực vào giấy.

Hoặc là giám đốc quyết định một cuộc hội chẩn tại nơi bệnh nhân đang nằm (như trường hợp cháu Hoàng Sa) để bày tỏ sự quan tâm của Đảng đối vói những gia đình quan trọng cần biệt đãi (gia đình cán bộ cấp cao, gia đình có công cách mạng, gia đình danh tiếng…)

Các cuộc “hội chẩn giám đốc’ như thế thông thường dẫn đến các kết quả như sau:
Một là chậm trễ trong việc xử lí cấp cứu. Cái sống cái chết của bệnh nhân (đặc biệt là bệnh nhân nhi) trong nhiều trường hợp chỉ tính bằng giây.

Hai là bác sĩ điều trị cảm nhận một cách cay đắng rằng mình bị Đảng tước đoạt trách nhiệm và quyền hạn trong phạm vi nghề nghiệp. Trong trường hợp bệnh nhân tử vong (do xử lý cấp cứu trễ) người bác sĩ trực tiếp điều trị bị một chấn thương tâm lý lâu dài: rằng là mình thấy chết mà không cứu.

Ba là người bác sĩ do chấp hành mệnh lệnh của Đảng lâu ngày trở nên trơ lì, khoanh tay đứng nhìn bệnh nhân từng bước rơi vào tình trạng nguy hiểm, tử vong. Mãi đến thời điểm này (2012), nhiều vụ hành hung, kiện tụng xảy ra tại rất nhiều bệnh viện trong cả nước, lý do bác sĩ điều trị chờ “hội chẩn giám đốc”.

Một câu nói cửa miệng của các bác sĩ đào tạo tại miền Nam trước 1975 được “lưu dung” tại các bệnh viện: “linh hồn ai nấy giữ”. Câu nói này phát xuất từ các bác sĩ đã trải qua một trong hai kinh nghiệm:

Hoặc là khám chữa bệnh cho một ông bà lớn (hoặc thân nhân của họ), kết quả khả quan không nói gì, kết quả xấu, lập tức bị kết tội phản động, tay sai Mỹ Ngụy mai phục.

Sau kinh nghiệm đắng cay đó, các bác sĩ lưu dung tìm mọi lý do để từ chối không nhận khám chữa trị cho những bệnh nhân thuộc thành phần trên. Họ thường chọn biện pháp “hội chẩn giám đốc” để tránh trách nhiệm.

Hoặc là do nóng lòng trước tình trạng cấp cứu của bệnh nhân, người bác sĩ quên rằng mình cần phải “hội chẩn giám đốc”. Kết quả tốt không nói gì, kết quả xấu tức thì bị hành hung, chưởi bới, kiện tụng, có khi bị bêu riếu trên báo chí, hoặc bị kỷ luật, bị thuyên chuyển công tác vì đã vượt quá qui định của lãnh đạo (hội chẩn giám đốc).
Trong các chế độ phi Xã hội chủ nghĩa, trọng tài cho những trường hợp trên là Y sĩ đoàn, sự sai phạm được người có chuyên môn và pháp luật phán xét. Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, không có quyền lực nào ngoài quyền lực tuyệt đối của Đảng Cộng sản cả, nên người bác sĩ phải giữ “linh hồn của mình” mặc dù y biết chắc chắn nếu giữ gìn kiểu ấy lâu ngày linh hồn của y sẽ biến dạng, hoặc y không còn linh hồn nữa.

Đến thời điểm này, cũng do sự can thiệp toàn diện và tuyệt đối của Đảng vào các quy trình hành xử chuyên môn, các bác sĩ trẻ xuất thân từ mái trường Xã hội chủ nghĩa, đa phần – tôi nói đa phần – sợ phiền hà do không chấp hành hội chẩn giám đốc, và nhất là do bản chất của nền giáo dục – đào tạo Xã hội chủ nghĩa, nên đã răm rắp tuân thủ mệnh lệnh của Đảng. Lâu dần tất cả đã chai lì trước những nỗi đau của đồng bào, đồng loại. Do Đảng lãnh đạo, người thầy thuốc tại Việt nam Xã hội Chủ nghĩa, đa phần – tôi nói đa phần – quên rằng mình cũng là Con người đã từng có một linh hồn.

Khi viết những dòng cuối của đoạn ký ức xao xuyến và không vui này tôi nghĩ nhiều hơn về hai ông bà là cha mẹ của người bệnh nhi bé nhỏ xấu số của tôi cách đây 15 năm, người mà hằng năm cứ đến ngày nhà giáo tôi không thể không nhớ đến, bởi cái chết của cháu đã gây cho tôi nỗi trăn trở không nguôi suốt quãng đời còn lại của người thầy thuốc trên đất nước bị tròng kéo theo con đường khổ nạn: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đảng Cộng sản, người mà mỗi ngày khi đọc báo, xem truyền hình, hay khi thực hiện các mối giao tiếp, thậm chí cả khi ngồi một mình, tâm trí tôi cũng vướng bận nghĩ về. Bởi cái tên của cháu còn nhắc nhở tôi về một vùng lãnh thổ của đất nước, một phần máu thịt của dân tộc đang bị chiếm cứ bởi bọn bành trướng Trung quốc: Hoàng Sa.

Tôi không biết vào thời điểm này hai ông bà là cha mẹ của Hoàng Sa đang ở đâu, làm gì? Bà đang ở Hòa Khánh – Đà Nẵng, đang đi dạy học hay đang vẫn vơ đi tìm đôi dép màu hồng trên những nẻo đường tối tăm và giữa những con người trở nên xa lạ. Còn ông? Ông đang ở đảo Trường Sa lớn hay một nơi nào đó trên biển Đông, nói và làm theo mệnh lệnh của Đảng. Hay ông đang đăm đăm nhìn về phía bãi cát vàng mà lòng quặn thắt nhớ thương căm hờn lẫn lộn. Hoàng Sa, đứa con gái bé bỏng của ông đã chết. Hoàng Sa, vùng biển đảo mà ông cùng vợ khi đặt tên con đã thề nguyền sẽ đem cuộc sống và cả máu xương của mình để giành giật lại trong bạo lực của kẻ thù mà ông bà đã nhìn rõ mặt, gọi đúng tên: Trung Quốc. Nhưng Hoàng Sa đối với ông vào thời điểm này (2012) lại bị trùm phủ bởi một bầu trời đen tối của tấn bi kịch mới. Theo lệnh của Đảng Cộng sản – bởi ông là đảng viên – ông không cần nhìn rõ mặt kẻ thù, ông không được gọi đúng tên chúng, ông chỉ được khoanh tay đứng nhìn “kẻ lạ” đang hoành hành ngang ngược trên đảo, trên biển, “kẻ lạ” đang tấn công, đuổi bắt, đánh đập, giam cầm ngư dân ruột thịt của ông. Dường như ông đang lẩm bẩm một mình. Giữa sóng gió muôn trùng không ai nghe rõ lời ông: Kẻ lạ, Đảng lạ, kẻ lạ, Đảng lạ… Và rồi cũng như vợ ông đang đi tìm đôi dép màu hồng giữa cuộc đời ngày thêm tối tăm và xa lạ.

Ông đang đi tìm Đảng của ông, cũng màu hồng của một thời trai trẻ, giữa mịt mùng sóng gió của biển khơi. Tôi không biết đại dương và nỗi đau đớn tuyệt vọng của cặp vợ chồng là cha mẹ của cháu Hoàng Sa cái nào lớn hơn, lúc này và đến bao giờ?

Nguyễn thị Kim Thoa

—————————————–

Ghi chú

(1): Chị Nguyễn thị Tâm, y tá của phòng hồi sức cấp cứu nhi, bệnh viên đa khoa Đà Nẵng, chị Tâm là em ruột thi sĩ Nguyễn Nho Sa Mạc.
(2) Chị Thanh Xuân y tá của phòng hồi sức cấp nhi, bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng. (Phòng Hồi sức cấp cứu nhi bệnh viên Đà Nẵng là đơn vị đã được phong tặng danh hiệu: Đơn vị Anh Hùng).
(3) Chụp phim cắt lớp: CT scanner.
(4) Hạ đường huyết: hypoglycémie.
(5) Dấu hiệu sinh tồn: signe vitale.
(6) Điện tim còn gọi là điện tâm đồ (ECG: Electrocardiogramme).
(7) Phân ly nhĩ thất: Bloc A – V ( bloc atrio – ventriculaire)
(8) Hồ Dung Diễm là bác sĩ hay trực cặp với tôi.
(9) PaO2: nồng độ oxy trong máu động mạch.
(10) Chuyên khoa I, Chuyên khoa II: bằng cấp sau đại học thuộc hệ thực hành của từng chuyên ngành.
(11) viên nén: comprimé, viên nhộng: capsule.

Phản hồi