WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Khoảng cách chạy tội – Sự thật phũ phàng về Hiệp Định Paris 1973

Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay. Thay vì đưa đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau.Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được bạch hóa trong thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris 1973.

Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973

Hiệp Định Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1972.

Hiệp Định Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1972.

Cuộc hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục tiếp diễn dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế tắc.Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972.Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến.

Ngày 23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ.Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.

Trong khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.

Khoảng cách chạy tội

Việc mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy, chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo.

Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973. Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973.

Vì muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản.

Trên một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:

“We need a decent interval. You have our assurance.”

Theo những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.

Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris.

Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris.

Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:

“We will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the [South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971.

Hoa Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua trận.Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả.VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại trận cuối cùng.Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề này:

“The country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months. They will not give a damn if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March 17, 1973.

Ông Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt:

“We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two, after which–after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater. If we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a damn.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.

Cả hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCHcó thể sẽ mất sau cuộcbầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974.Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976.

Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng:

“Nhiều người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam.NhưngÔng ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June 2010.

Vào tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval).

Kéo dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh

Những tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:

Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ.

Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).

Để che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972) của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút quân qua nhiều năm.

Trong cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:

“We’ve got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard Nixon, September 4, 1971.

Quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972.

Đối với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu:

Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công.
Giữ lời hứa khi tranh cử.

Đối với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% – 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không.

Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày 11-3-1971:

Nixon: “We’ve got to get the hell out of there.”

Kissinger: “No Question.”

Tuy nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị.

Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm

Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát.

Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:

“In the proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it is only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen Van Thieu, Saigon, October 4, 1972.

Ông Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu:

“I don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20, 1973.

Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh.

Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris.

Sau khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh Phước Long vào đầu năm 1975 và bẩy ngày sau tỉnh Bình Long thất thủ. Khi không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để giải phóng miền Nam bằng cách xua quân ngang nhiên vượt qua biên giới Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán.

Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau, Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam.

Kết luận

Hoa Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên ánnặng nề những lỗi lầm đó. Về phía người Việt, hơn ai hết, chúng ta cũng có trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng Sản. Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh.

Gần đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH.

Giả sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ may nào cả, Ông Nguyễn Ngọc Bích sẽ không thâu tóm phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17 cho chính phủ của ông ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Để đỡ tốn giấy mực, tóm tắt lại, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 khốn nạn này do chính họ dựng lên.

© Nguyễn Quốc Khải

© Đàn Chim Việt

————————————————–

Tài liệu tham khảo:

1- Larry Berman, “No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,” The Free Press, 2001.

2- Finding Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,” January 27, 2012.’

3- Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh Dự,” 27-01-2012.

4- Kennedy Hickman, “Vietnam War end of conflict, 1973-1975,” Military History.

5- Ken Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From Vietnam,” Diplomatic History, Vol. 34, No. 3, June 2010.

6- Stanley Karnow, “Vietnam A History,” Penguin Books, 1997.

7- Jeffrey Kimball, “Decent Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the Vietnam War,”December 2003.

8- Henry Kissinger, “Years of Renewal,” Simon & Schuster, 1999.

9- Richard Nixon, “No More Vietnam,” Arbor House, New York 1985.
10. Frank Snepp, “Decent Interval,” Random House, 1977.

11. Global Security, “A Decent Interval – Who Lost Vietnam?” May 7, 2011.

12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp Định Paris 1973.”

Tags:

176 Phản hồi cho “Khoảng cách chạy tội – Sự thật phũ phàng về Hiệp Định Paris 1973”

  1. datnguyen says:

    Về H Đ Geneve 1954 chính phủ QGVN không ký mà Pháp ký với Trung Cộng và Việt Minh nên VNCH không có bổn phận phải thi hành HD Geneve
    Về Hiệp định Paris “Hội đồng hòa giải dân tộc” chỉ là hữu danh vô thực, một thành viên thí dụ ông Thiệu có quyền phủ quyết nên Hội đồng này chỉ để chơi cho vui và cho Mặt Trận (VC) đỡ mất mặt. Trên thực tế nếu có bầu cử tự do sau 1973 thì VNCH vẫn được ít nhất 95% số phiếu, Chính phủ cách mạng lâm thời (VC) cao lắm được 5%, ai bầu cho VC?
    BV biết là bầu cử tại miền nam không đi tới đâu (biết chắc VC sẽ thua VNCH) nên họ chỉ chờ cho Mỹ rút, đưa quân chiếm miền nam
    HĐParis chỉ có một số v/d then chốt:
    Mỹ rút quân
    Trao trả tù binh,
    Ông Thiệu vẫn làm TT
    BV còn được đóng quân tại miền nam VN
    Không liên hiệp

    Nixon đã biết trước là BV sẽ vi phạm HD nhưng bị Quốc hội trói tay , Dân chủ nắm 55% Hạ viện và Thượng viện, họ chống chiến tranh VN quyết liệt, không cho Nixon cưỡng bức thi hành Hiệp định (enforce the agreement) nên ông ta chỉ còn nước đứng ngó BV công khai chiếm miền nam VN
    HD Paris ký kết vội vã do sự thúc ép của Quốc hội
    Tại Paris Kissinger hàng tuần phải đánh điện báo cáo TT Nixon, hàng tháng phải bay về Mỹ, để xin lệnh TT giải quyết những vấn đề khó khăn, ông ta cũng chẳng có quyền gì nhiều.
    Nixon trên thực tế năm 1972 y như TT bù nhìn khi Dân chủ nắm hết Quốc hội (55% lưỡng viện), mọi chuyện liên quan Đông Dương khoảng 80% do Quốc hội Dân chủ định đoạt, họ trói chân trói tay tay TT Nixon và lật đổ TT năm 1974 qua vụ Watergate
    HD Paris là để người Mỹ ra khỏi Đông dương, họ quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu cùa Hà nội

    • Johnny To says:

      ĐỒNG Ý VỚI NHẬN ĐỊNH

      1) Chúng tôi đồng ý với nhận định cuả Ng. Đ. !

      2) HĐ Paris 1973 có giải Nobel Hòa bình {cho cả hai H. Kissinger và L Đ Thọ }
      là giải giá trị nhất trong lịch sử G.Nobel HB !

      3) Lê Đức Thọ là người VN độc nhất có Giải Noel HB (1973) !
      (còn tiếp)

      Hwy Tse, S&FR, Boston, USA

      • Johnny To says:

        TIẾP THEO…

        4) Hiệp định Paris 1973 là
        VĂN KIỆN ĐẦU HÀNG CỦA CỘNG SẢN BẮC VIỆT !

        5) Giải Nobel HB 1973 hoàn toàn do công trạng của Henry Kissinger, LĐ Thọ chỉ tiếp tay thôi; đồng thời, LĐ Thọ chỉ nhờ giới thiệu của H. Kissinger mới được giải trên.
        (còn tiếp)

        Hwy Tse, S&FR, Boston, USA.

  2. datnguyen says:

    Về H Đ Geneve 1954 chính phủ QGVN không ký mà Pháp ký với Trung Cộng và Việt Minh nên VNCH không có bổn phận phải thi hành HD Geneve
    Về Hiệp định Paris “Hội đồng hòa giải dân tộc” chỉ là hữu danh vô thực, một thành viên thí dụ ông Thiệu có quyền phủ quyết nên Hội đồng này chỉ để chơi cho vui và cho Mặt Trận (VC) đỡ mất mặt. Trên thực tế nếu có bầu cử tự do sau 1973 thì VNCH vẫn được ít nhất 95% số phiếu, Chính phủ cách mạng lâm thời (VC) cao lắm được 5%, ai bầu cho VC?
    BV biết là bầu cử tại miền nam không đi tới đâu (biết chắc VC sẽ thua VNCH) nên họ chỉ chờ cho Mỹ rút, đưa quân chiếm miền nam
    HĐParis chỉ có một số v/d then chốt:
    Mỹ rút quân
    Trao trả tù binh,
    Ông Thiệu vẫn làm TT
    BV còn được đóng quân tại miền nam VN
    Không liên hiệp

    Nixon đã biết trước là BV sẽ vi phạm HD nhưng bị Quốc hội trói tay , Dân chủ nắm 55% Hạ viện và Thượng viện, họ chống chiến tranh VN quyết liệt, không cho Nixon cưỡng bức thi hành Hiệp định (enforce the agreement) nên ông ta chỉ còn nước đứng ngó BV công khai chiếm miền nam VN
    HD Paris ký kết vội vã do sự thúc ép của Quốc hội
    Tại Paris Kissinger hàng tuần phải đánh điện báo cáo TT Nixon, hàng tháng phải bay về Mỹ, để xin lệnh TT giải quyết những vấn đề khó khăn, ông ta cũng chẳng có quyền gì nhiều.
    Nixon trên thực tế năm 1972 y như TT bù nhìn khi Dân chủ nắm hết Quốc hội (55% lưỡng viện), mọi chuyện liên quan Đông Dương khoảng 80% do Quốc hội Dân chủ định đoạt, họ trói chân trói tay tay TT Nixon và lật đổ TT năm 1974 qua vụ Watergate
    HD Paris là để người Mỹ ra khỏi Đông dương, họ quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu cùa Hà nội
    Cam on qui’ vi
    DN

  3. Nam says:

    Như tác giả đã kết luận: ” Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh” và xin thêm một câu: “Hãy luôn kiên cường và mạnh mẽ để đừng bị ngoại bang áp đặt và chèn ép”.

  4. Người HN says:

    Quá đã, quá đã, đọc phần kết luận của bài này mới hiểu tại sao người ta nói đám này là bại não, lập luận thế mà mong có ai đó theo, có ai đó đồng tình thì nhí nhố thật, quả là chuyện ruồi bu, chuyện khôi hài của những kẻ có trí não chậm phát triển!

    • Choi Song Djong says:

      @Người HN.
      Với cái cách viết bình luận của ông cho tôi nhiều nghi ngờ về cái hộ khẩu “người Hà Nội”.Khi xưa dân Thủ đô hay được đặc cách ví von là thanh lịch,văn hóa.Nhưng từ khi cách mạng tháng 8 thành công và 5 cửa ô tràn ngập dân quân kháng chiến về thành thì kết quả sau đó đến nay ai ai cũng rõ.
      Thưa ông Người HN,theo dõi những còm của ông từ trước đến giờ,tôi đã nhận ra ông cũng là một trong những r.r về thành.Tội nghiệp Hà Nội,thành phố ngàn năm văn vật nhưng nay vì chiến cuộc bị mất đi chữ văn.

      • Người HN says:

        Ok, ông Choi, tác giả bài viết này nói ý đồ của đám ông Bích là bệnh hoạn, tôi nói tiếp ý tưởng đấy xuất phát từ cái đầu của đám bại não, não chậm phát triển. Ông thấy động lòng hay sao vậy, hay ông cho là tôi bất lịch sự ha, vậy ông còn nhớ một tên cờ vàng khác gọi ông là gì không, chắc ông chẳng quên nhỉ, tôi sợ rằng nếu chỉ riêng việc tôi nhắc lại đúng từ ngữ các ông rủa nhau thì đã cảm thấy thiếu tôn trọng bạn đọc của ĐCV rồi đấy ông à!

  5. Áo vải cờ đào says:

    Bài viết theo dạng…Chung chung và chỉ nói lên một nửa của sự thật, đổ hết tất cả mọi tội lỗi “khai tử” chế độ QG VNCH cho chính quyền Mỹ và “Khoảng cách chạy tội” của các “chính khách” Mỹ như…Chuyện đã rồi!…Và hình như phần còn lại là: Trích. “Về phía người việt, hơn ai hết, chúng ta cũng có trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đưa phần đất này vào tay cộng sản.” Ngưng trích, phần kết luận của TG và xin được nêu lên một vài khía cạnh khác nữa “vì, nói vậy mà không phải vậy”…Một nửa kia của “Sự thật phũ phàng về Hiệp Định Paris 1973″ hầu như mọi người điều biết là: Mỹ tham chiến ở Đông Dương và đặt chân đến VN để cùng QG VNCH (1/2 nước VN) làm tiền đồn chống, ngăn sự bành trướng của tập đoàn CSQT với âm mưu nhuộm đỏ ĐNA, mà bọn lãnh tụ BBP HN (1/2 nước VN) đã hồ hởi cuối đầu làm tay sai cho ngoại bang TC và LX, núp dưới…Bình phong CNCS đánh ĐQTB (nếu không được VT đầy đủ súng đạn của CS đàn anh thì CSBV lấy cái chó gì để xâm chiếm MN sau HĐ Paris 1973?). Mỹ đã đi đêm bắt tay với BK, đồng nghĩa Mỹ đã đạt được Thế thượng phong trong ván cờ NGA+HOA liên hợp! Tránh xảy ra thế chiến thứ 3 cũng như hậu quả tàn khốc, khó lường trước sự thiệt hại của cuộc cờ CS và TB, có thể “lưỡng bại câu thương”!! Vì vậy, Mỹ…Nhường TC một nước cờ…Tự rút lui khỏi MN VN để cho ra đời cái “quái thai HĐ Paris 27/1/1973″ vì đau lâu tốn thuốc!!! Đổi lại, Nga, tàu rạng vỡ tình đồng chí anh em và một nửa nước VN, gián tiếp bức tử VNCH theo truyền thống “Tây Phương”…Không có kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi…Cường Quốc là trên hết! The end of south Viet Nam and for the future of U.S.A, ofcourse…It’s life and also lifes go on!! Mỉa mai đến thế là cùng!!! Vì vậy câu kết luận của TG, xin trích; “Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 khốn nạn này do chính họ dựng nên.” Là không…Được công bình với Lịch Sử!…Hiệp Định Paris và sự thật là: Mỹ nhục nhã đặt bút ký, CSBV hèn hạ cuối đầu ký và VNCH thì, đúng là…Khốn nạn cho cái HĐ Paris 1973… Ký để…Tự sát và vì sao???!!!….. Avcđ.

  6. Nguyễn Quốc Khải says:

    Hiệp Định Paris 1973 đề cập về tổng tuyển cử ở Chương IV, Điều 9 (b) như sau:

    “Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.”

    Bản tiếng Anh:

    “The South Vietnamese people shall decide themselves the political future of South Viet-Nam through genuinely free and democratic general elections under international supervision.”

  7. Cú Vọ says:

    Ông Dat Nguyen!
    Ở mục này có ý nghĩa gì vậy?
    “Điều 9:
    Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam dưới đây:
    a) Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng.
    b) Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông quan tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
    c) Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoăc cá nhân nào đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.” Hết trích.

    Đọc lai một phần của Hiệp Định Paris thì thấy rõ ý đồ xâm lược MN của cs MB là: biến từ không thành có, rồi từ có thành tranh chấp, sau đó dùng vũ lực hiếm đoạt. Đó là : từ 2 quốc gia sau hiệp định Geneve 1954 là VNCH và VNDCCH, cs MB đã để lại quân ở MN, sau đó thành lập MTDTGPMN với CPLTMNVN, cuộc chiến diễn ra giữa VNCH và CPLTMNVN đến trước khi hiệp định Paris 1973. Mỹ rút quân khỏi VN sau hiệp định Paris, cs MB đã tấn công VNCH bằng vũ lực chiếm MNVN.
    Ngày nay TQ cũng đang giở chiêu này ở biển Đông. Từ không có chút gì trên biển Đông, sau được cs MB cho phép đánh chiếm Hoàng Sa 1974 mà họ làm ngơ (dù là đang thuộc chủ quyền của VNCH nhưng đó là của VN chứ không phải của TQ, chưa kể đến công hàm của PVD 1958), sau đó 1988 giả vờ bị đánh chiếm và thua (vì không hề đưa quân ra chiếm lại), cs VN dâng một số đảo Trường Sa cho cs tàu.
    Bây giờ BK mới giở trò từ có đến tranh chấp. Rồi từ tranh chấp này sẽ dùng vũ lực để chiếm cả biển Đông.
    Cuối cùng có lẽ chưa dừng ở đây.
    Rất nhiều vùng đất trên VN đã có sự hiện diện của bọn tàu, rất nhiều đất đai, bờ biển mà bọn tàu đã thuê 50 năm. Như vậy là chúng đã biến từ không có thành có. Rồi từ có này sẽ thành tranh chấp. Sau cùng sẽ dùng vũ lực chiếm lấy, cs VN giả vờ thua, chịu quy phục làm tay sai, chịu làm một khu tự trị của tàu. Nước VN sẽ biến mất trên bản đồ TG.
    Mọi việc sẽ diễn ra với sự thỏa thuận ở Thành Đô 1990 của cs VN và cs tàu từng bước như thế này chăng?

    Ôi! Chỉ còn 8 năm nữa sẽ rõ tất cả.
    Nếu như thế thì Vikileak của J.Assange đưa ra là đúng sao?
    Khủng khiếp quá!

  8. Vũ duy Giang says:

    Nếu đúng là HĐ.Paris KHÔNG có điều khoản:”HĐ.Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền nam VN”, nhưng
    Chương 1,Điều 1 khẳng định:”Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập,chủ quyền,THỐNG NHẤT, tòan vẹn lãnh thổ của VN,như HIỆP ĐỊNH GENèVE năm 1954 về VN đã công nhận”.

    Mà HĐ.Genève 1954 đòi hỏi TỔNG TUYỂN CỬ ở cả 2 miền Bắc và Nam VN để THỐNG NHẤT đất nước VN,sau khi đã bị chia đôi trong 2 năm. Nhưng chính phủ VNCH của TT.Ngô đình Diệm đã không tôn trọng điều khoản này, vì lý do là phái đoàn VNCH(miền nam VN do các Ngoại trưởng Nguyễn quốc Định, và Trần văn Đỗ thay nhau cầm đầu) đã KHÔNG ký HĐ.Genève, chỉ có Ngoại trưởng Phạm văn Đồng ký,nhân danh chính phủ VNDCCH(Bắc VN),cùng với đại diện các cường quốc khác,như Pháp,TQ,
    Ngay,v..v…

    Như vậy thì nếu ông Nguyễn ngọc Bích,Chủ tịch UB lãnh đạo lâm sàng VNCH”có vận động QT làm sống lại HĐ.Paris 1973″, thì XHCNVN cũng chẳng cần đáp ứng bằng HĐ.Genève 1954 đòi hỏi tổng tuyển cử để THỐNG NHẤT nước VN, vì CSVN đã thực hiện bằng võ lực từ năm 1975 rồi !!

    Thật đúng là:

    “Không tròn QUÁ KHỨ thương vay
    Nghe BUỒn Hiện tại,Tương lai,có gì? “

    • Johnny To says:

      QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI !

      Đồng ý với hai câu thơ cuối của bạn VDG.

      Quá khứ sờ sờ ra đó mà chả nắm vững thì nói gì đến hiện tại hỡi trờI;
      còn tương lai thì càng mù tịt,… phaỉ không hà ?

      Ngạn ngữ có câu: “THÔNG KIM, BÁT CỔ”;
      cần nói thêm, có thông “kim”, bát “cổ” mới có khả năng dự phóng về “tương lai” ! ?
      (còn tiếp)

      Tô Mỹ Hòa, S&FR, Boston, USA.

  9. Người Tự Do says:

    Cả bài viết với nội dung cũ không hấp dẫn.
    Duy nhất câu kết cô đọng nhất : ” Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh.”
    VNCH thất bại chính ở điểm này .
    VNDCCH thắng vì họ luôn nêu cao và thực hiện khẩu hiệu : ” Không có gì quý hơn độc lập tự do ! “

  10. Dat nguyen says:

    trich’

    “Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam….”

    Hoàn toàn không có điều khoàn nào trong hiệp định Paris nói về tổng tuyển cử tại VNCH, quí vị có thể coi trong Chiến tranh VN toàn tập của Ng đức Phương trang 944-954, hay vô link
    http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%e1%bb%87p_%c4%91%e1%bb%8bnh_Paris_1973

    HIỆP ĐỊNH CHẤM DỨT CHIẾN TRANH
    LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM
    ________________________________________
    Các bên tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam,
    Nhằm mục đích chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, góp phần củng cố hòa bình ở châu Á và thế giới,
    Đã thảo luận, cam kết tôn trọng và thi hành những điều khoản sau đây:
    Chương I: CÁC QUYỀN DÂN TỘC CƠ BẢN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
    Điều 1:
    Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Giơ-ne-vơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư về Việt Nam đã công nhận.
    Chương II: CHẤM DỨT CHIẾN SỰ – RÚT QUÂN
    Điều 2:
    Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam Việt Nam kể từ hai mươi bốn giờ (giờ GMT), ngày hai mươi bảy tháng giêng năm một nghìn chín trăm bảy mươi ba.
    Cùng ngày giờ nói trên, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Hoa Kỳ chống lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không, trên biển bất cứ từ đâu tới, và sẽ chấm dứt việc thả mìn tại vùng biển, các cảng và sông ngòi của Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hoa Kỳ sẽ tháo gỡ, làm mất hiệu lực vĩnh viễn, phá huỷ tất cả những mìn ở vùng biển, các cảng và sông ngòi ở miền Bắc Việt Nam ngay sau khi Hiệp định này có hiệu lực.
    Việc chấm dứt chiến sự nói trong điều này là vững chắc và không thời hạn.
    Điều 3:
    Các bên cam kết giữ vững ngừng bắn, bảo đảm hòa bình lâu dài và vững chắc.
    Bắt đầu từ khi ngừng bắn:
    a) Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam cộng hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế hoạch rút quân. Ban liên hợp quân sự bốn bên nói trong Điều 16 sẽ quy định những thể thức.
    b) Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình. Ban liên hợp quân sự hai bên nói trong Điều 17 sẽ quy định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân.
    c) Các lực lượng chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lượng không chính quy của các bên ở miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hành động tấn công nhau và triệt để tuân theo những điều quy định sau đây:
    – Ngăn cấm mọi hoạt động vũ lực trên bộ, trên không và trên biển;
    – Ngăn cấm mọi hành động đối địch, khủng bố và trả thù của cả hai bên.
    Điều 4:
    Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
    Điều 5:
    Trong thời hạn sáu mươi ngày kể từ ngày ký Hiệp định này, sẽ hoàn thành việc rút hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, vũ khí, đạn dược và công cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a). Cố vấn quân sự của các nước nói trên cho tất cả các tổ chức bán quân sự và lực lượng cảnh sát cũng sẽ rút trong thời hạn đó.
    Điều 6:
    Việc huỷ bỏ tất cả các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a) sẽ hoàn thành trong thời hạn sáu mươi ngày kể từ khi ký Hiệp định này.
    Điều 7:
    Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến ngày thành lập chính phủ quy định trong Điều 9(b) và Điều 14 của Hiệp định này, hai miền Nam Việt Nam không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
    Hai bên miền Nam được phép từng thời gian thay thế vũ khí, đạn dược, dụng cụ chiến tranh đã bị phá huỷ, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hết từ sau khi ngừng bắn, trên cơ sở một đổi một, cùng đặc điểm và tính năng, có sự kiểm soát của Ban liên hợp quân sự hai bên miền Nam Việt Nam và của Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát.
    Chương III: VIỆC TRAO TRẢ NHÂN VIÊN QUÂN SỰ BỊ BẮT, THƯỜNG DÂN NƯỚC NGOÀI BỊ BẮT VÀ NHÂN VIÊN DÂN SỰ VIỆT NAM BỊ BẮT VÀ GIAM GIỮ
    Điều 8:
    a) Việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân nói trong Điều 5. Các bên sẽ trao đổi danh sách đầy đủ những nhân viên quân sự và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt nói trên vào ngày ký kết Hiệp định này.
    b) Các bên sẽ giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu, xác định vị trí bảo quản mồ mả của những người bị chết, nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc cất bốc và hồi hương hài cốt và có những biện pháp khác cần thiết để tìm kiếm tin tức những người còn coi là mất tích trong chiến đấu.
    c) Vấn đề trao trả các nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên cơ sở những nguyên tắc của Điều 21(b) của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày hai mươi tháng bảy năm một nghìn chín trăm năm mươi tư. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ làm điều đó trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đình. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ gắng hết sức mình để giải quyết vấn đề này trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực.
    Chương IV: VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM
    Điều 9:
    Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam dưới đây:
    a) Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng.
    b) Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông quan tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.
    c) Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoăc cá nhân nào đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.
    Điều 10:
    Hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngừng bắn và giữ vững hòa bình ở miền Nam Việt Nam; giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực.
    Điều 11:
    Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
    – Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia;
    – Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
    Điều 12:
    a) Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí. Sau khi Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc nhậm chức, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương để thành lập các hội đồng cấp dưới. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ký một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt, và sẽ làm hết sức mình để thực hiện việc này trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam là hòa bình, độc lập và dân chủ.
    b) Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc có nhiệm vụ đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi hành Hiệp định này, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ. Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do và dân chủ như đã nói trong Điều 9(b) và quy định thủ tục và thể thức của cuộc tổng tuyển cử này. Các cơ quan quyền lực mà cuộc tổng tuyển cử đó sẽ bầu ra sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam thông qua hiệp thuơng mà thỏa thuận. Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng sẽ quy định thủ tục và thể thức tuyển cử địa phuơng theo như hai bên miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
    Điều 13:
    Vấn đề lực luợng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, phù hợp với tình hình sau chiến tranh. Trong số những vấn đề hai bên miền Nam Việt Nam thảo luận có các biện pháp giảm số quân của họ và phục viên số quân đã giảm. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hoàn thành việc đó càng sớm càng tốt.
    Điều 14:
    Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập. Miền Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị và xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật của bất cứ nước nào không kèm theo điều kiện chính trị. Vấn đề nhận viện trợ quân sự sau này cho miền Nam Việt Nam sẽ thuộc thẩm quyền của chính phủ được thành lập sau tổng tuyển cử ở miền Nam nói trong Điều 9(b).
    Chương V: VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUAN HỆ GIỮA MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM
    Điều 15:
    Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, không bên nào cuỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài. Thời gian thống nhất sẽ do miền Bắc và miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
    Trong khi chờ đợi thống nhất:
    a) Giới tuyến quân sự giữa hai miền tại vĩ tuyến thứ mười bảy chỉ là tạm thời và không phải là một ranh giới về chính trị hoặc về lãnh thổ như quy định trong đoạn 6 của Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư.
    b) Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời.
    c) Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ sớm bắt đầu thương lượng nhằm lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt. Trong các vấn đề sẽ được thương lượng, có vấn đề thể thức đi lại dân sự qua giới tuyến quân sự tạm thời.
    d) Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự hoặc khối quân sự nào và không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự trên đất mình, như Hiệp định Giơ-ne-vơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư về Việt Nam quy định.
    Chương VI: CÁC BAN LIÊN HỢP QUÂN SỰ, ỦY BAN QUỐC TẾ KIỂM SOÁT VÀ GIÁM SÁT, HỘI NGHỊ QUỐC TẾ
    Điều 16:
    a) Các bên tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban liên hợp quân sự bốn bên có nhiệm vụ phối hợp hành động của các bên trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp định này:
    – Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam Việt Nam;
    – Điều 3(a) về việc ngừng bắn của lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác nói trong điều này;
    – Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam Việt Nam;
    – Điều 5 về việc rút ra khỏi miền Nam Việt Nam quân đội của Hoa Kỳ và quân đội của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a);
    – Điều 6 về việc hủy bỏ các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a);
    – Điều 8(a) về việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt;
    – Điều 8(b) về việc các bên giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu;
    b) Ban liên hợp quân sự bốn bên sẽ làm việc theo nguyên tắc hiệp thương và nhất trí. Những vấn đề bất đồng sẽ chuyển cho Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát.
    c) Ban liên hợp quân sự bốn bên sẽ bắt đầu hoạt động ngay sau khi ký kết Hiệp định này và chấm dứt hoạt động trong thời gian sáu mươi ngày, sau khi việc rút quân của Hoa Kỳ và quân của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a) và việc trao trả nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thuờng dân nước ngoài của các bên bị bắt đã hoàn thành.
    d) Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về tổ chức, thể thức làm việc, phương pháp hoạt động và chi phí của Ban liên hợp quân sự bốn bên.
    Điều 17:
    a) Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban liên hợp quân sự hai bên có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của hai bên miền Nam Việt Nam trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp định này:
    – Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam Việt Nam, sau khi Ban liên hợp quân sự bốn bên chấm dứt hoạt động của mình;
    – Điều 3(b) về việc ngừng bắn giữa hai bên miền Nam Việt Nam;
    – Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam Việt Nam, sau khi Ban liên hợp quân sự bốn bên chấm dứt hoạt động của mình;
    – Điều 7 về việc không được đưa quân đội vào miền Nam Việt Nam và tất cả những điều khoản khác của điều này;
    – Điều 8(c) về vấn đề trao trả các nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ ở miền Nam Việt Nam;
    – Điều 13 về việc giảm số quân của hai bên miền Nam Việt Nam và phục viên quân số đã giảm;
    b) Những vấn đề bất đồng sẽ chuyển cho Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát;
    c) Sau khi Hiệp định này được ký kết, Ban liên hợp quân sự hai bên sẽ thỏa thuận ngay những biện pháp và tổ chức nhằm thực hiện ngừng bắn và giữ gìn hòa bình ở miền Nam Việt Nam;
    Điều 18:
    a) Sau khi ký kết Hiệp định này, thành lập ngay Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát.
    b) Cho đến khi Hội nghị quốc tế nói ở Điều 19 có những sắp xếp dứt khoát, Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát việc thi hành những điều khoản sau đây của Hiệp định này:
    – Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam Việt Nam;
    – Điều 3(a) về việc ngừng bắn của lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác nói trong điều này;
    – Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam Việt Nam;
    – Điều 5 về việc rút ra khỏi miền Nam Việt Nam quân đội của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a);
    – Điều 6 về việc hủy bỏ các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3(a).
    – Điều 8(a) về việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt.
    Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát lập những tổ kiểm soát để làm những nhiệm vụ của mình. Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về chỗ đóng và sự hoạt động của các tổ đó. Các bên sẽ làm dễ dàng cho hoạt động của các tổ đó.
    c) Cho đến khi Hội nghị quốc tế có những sắp xếp dứt khoát, Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát sẽ báo cáo với hai bên miền Nam Việt Nam những vấn đề về việc kiểm soát và giám sát việc thi hành những điều khoản sau đây của Hiệp định này:
    – Đoạn đầu của Điều 2 về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp miền Nam Việt Nam, sau khi Ban liên hợp quân sự bốn bên chấm dứt hoạt động của mình;
    – Điều 3(b) về việc ngừng bắn giữa hai bên miền Nam Việt Nam;
    – Điều 3(c) về việc ngừng bắn giữa tất cả các bên ở miền Nam Việt Nam, sau khi Ban liên hợp quân sự bốn bên chấm dứt hoạt động của mình;
    – Điều 7 về việc không được đưa quân đội vào miền Nam Việt Nam và tất cả các điều khoản khác của điều này;
    – Điều 8(c) về vấn đề trao trả các nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ ở miền Nam Việt Nam;
    – Điều 9(b) về tổng tuyển cử tự do và dân chủ ở miền Nam Việt Nam;
    – Điều 13 về việc giảm số quân của hai bên miền Nam Việt Nam và việc phục viên số quân giảm.
    Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát lập những tổ kiểm soát để làm nhiệm vụ của mình. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ thỏa thuận ngay về chỗ đóng và sự hoạt động của các tổ đó. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ làm dễ dàng cho hoạt động của các tổ đó.
    d) Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát sẽ gồm đại diện của bốn nước: Ba Lan, Ca-na-đa, Hung-ga-ri, In-đô-nê-xi-a. Các thành viên của Ủy ban quốc tế sẽ luân phiên làm Chủ tịch trong từng thời gian do Ủy ban quốc tế quy định.
    e) Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát thi hành nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của miền Nam Việt Nam.
    f) Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát làm việc theo nguyên tắc hiệp thương và nhất trí.
    g) Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát sẽ bắt đầu hoạt động khi ngừng bắn có hiệu lực ở Việt Nam. Đối với các điều khoản liên quan đến bốn bên nói trong Điều 18(b), Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát chấm dứt hoạt động của mình khi nhiệm vụ kiểm soát và giám sát của Ủy ban đối với các điều khoản đó đã hoàn thành. Đối với các điều khoản liên quan đến hai bên miền Nam Việt Nam nói ở Điều 18(c), Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát chấm dứt hoạt động của mình theo yêu cầu của chính phủ được thành lập sau Tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam nói ở Điều 9(b).
    h) Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về tổ chức, phương tiện hoạt động và chi phí của Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát. Mối quan hệ giữa Ủy ban quốc tế và Hội nghị quốc tế sẽ do Ủy ban quốc tế và Hội nghị quốc tế thỏa thuận.
    Điều 19:
    Các bên thỏa thuận về việc triệu tập một Hội nghị quốc tế trong vòng ba mươi ngày kể từ khi ký Hiệp định này để ghi nhận các Hiệp định đã ký kết; bảo đảm chấm dứt chiến tranh, giữ vững hòa bình ở Việt Nam, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; góp phần vào hòa bình và bảo đảm hòa bình ở Đông Dương.
    Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa, thay mặt các bên tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam, sẽ đề nghị các bên sau đây tham gia Hội nghị quốc tế này: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Pháp, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết, Liên hiệp Vương quốc Anh, bốn nước trong Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát và Tổng thư ký Liên hợp quốc, cùng với các bên tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam.
    Chương VII: ĐỐI VỚI CAM-PU-CHIA VÀ LÀO
    Điều 20:
    a) Các bên tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam phải triệt để tôn trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư về Cam-pu-chia và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm một nghìn chín trăm sáu mươi hai về Lào đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Cam-pu-chia và nhân dân Lào: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ các nước đó. Các bên phải tôn trọng nền trung lập của Cam-pu-chia và Lào.
    Các bên tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam cam kết không dùng lãnh thổ của Cam-pu-chia và lãnh thổ của Lào để xâm phạm chủ quyền và an ninh của nhau và của các nước khác.
    b) Các nước ngoài sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Cam-pu-chia và Lào, rút hết và không đưa trở lại vào hai nuớc đó quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
    c) Công việc nội bộ của Cam-pu-chia và Lào phải do nhân dân mỗi nước này giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài.
    d) Những vấn đề liên quan giữa các nuớc Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương giải quyết, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
    Chương VIII: QUAN HỆ GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
    Điều 21:
    Hoa Kỳ mong rằng Hiệp định này sẽ mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng như với tất cả các dân tộc ở Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công việc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam dân chủ cộng hòa và toàn Đông Dương.
    Điều 22:
    Việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và việc thực hiện triệt để Hiệp định này sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng thời, những việc đó sẽ bảo đảm hòa bình vững chắc ở Việt Nam và góp phần giữ gìn hòa bình lâu dài ở Đông Dương và Đông Nam Á.
    Chương IX: NHỮNG ĐIỀU KHOẢN KHÁC
    Điều 23:
    Hiệp định này sẽ có hiệu lực khi đại diện toàn quyền của các bên tham gia Hội nghị Pa-ri về Việt Nam ký. Tất cả các bên có liên quan sẽ thi hành triệt để Hiệp định này và các Nghị định thư của Hiệp định.
    Làm tại Pa-ri ngày hai mươi bảy tháng giêng năm một nghìn chín trăm bảy mươi ba, bằng tiếng Anh và tiếng Việt Nam. Bản tiếng Anh và tiếng Việt Nam đều là những văn bản chính thức và có giá trị như nhau. trang

    Chữ ký của Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Wiliam P. Rogers và Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm tại Hiệp định Paris 1973 (Bản được ký bởi bốn bên)
    trang

    Chữ ký của Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh và Bộ trưởng ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình tại Hiệp định Paris 1973 (Bản được ký bởi bốn bên)


Leave a Reply to Cú Vọ