Ngô Đình Diệm, vị tổng thống còn nhiều tranh cãi
Mỗi năm cứ gần đến ngày 1-11 thì câu chuyện của Tổng thống Ngô Đình Diệm như khơi lại đống tro tàn quá khứ, một quá khứ đáng buồn của người dân miền Nam trước đây. Ông Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã bị thảm sát cách đây đúng 49 năm nhưng những lời thị phi vẫn còn chưa khép lại. Dù sao một triều đại trị vì đất nước suốt 9 năm thì ít ra cũng có một số người đã từng mang ơn mưa mốc tỏ lòng luyến tiếc, thì ngược lại cũng có đa số người bất phục chế độ có lời thanh nghị không hay. Tôi, thuở ấy chưa biết nhiều về gia đình họ Ngô, khi lớn lên tôi vì tò mò trước những lời khen ông Diệm không ít mà chê ông Diệm cũng nhiều, tôi chỉ muốn biết vì sao Tổng thống Diệm và gia đình phải nhận lãnh hậu quả thê thảm sau 9 năm cầm quyền, và tôi bắt đầu tìm hiểu.
Trước khi tình hình đất nước đi đến một tình trạng bi đát, Quốc trưởng Bảo Đại không còn tin gì vào người Pháp và thủ tướng Bửu Lộc nên Ngài cho vời ông Ngô Đình Diệm đến Cannes gặp và Ngài nói với ông ấy rằng:
“-Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông thì lúc nào cũng từ chối. Nay tình thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lãnh đạo chính phủ.
“-Thưa Hoàng thượng, không thể được ạ. Ông ta đáp. Tôi xin trình Ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đã quyết định. Tôi định đi tu…
“-Tôi kính trọng ý định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến lòng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của mình. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.
“Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông ta đáp:
“-Thưa Hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng mà Ngài trao phó.
“Cầm lấy tay ông ta, tôi kéo sang một phòng bên cạnh, trong đó có cây thánh giá. Trước thánh giá tôi bảo ông ta:
“-Đây Chúa của ông đây. Ông hãy thề trước chân dung Chúa là giữ vững đất nước mà người ta đã trao cho ông. Ông sẽ bảo vệ nó, để chống lại bọn Cộng sản, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp nữa.
“Ông ta đứng yên lặng một lúc lâu, rồi nhìn tôi, sau nhìn lên thánh giá, ông nói với giọng nghẹn ngào:
“-Tôi xin thề!…
“Trước đây đã dùng Diệm, tôi biết ông ta vốn khó tính. Tôi cũng biết ông ta rất cuồng tính và tin vào đấng Cứu Thế. Nhưng trong tình thế này, không còn có thể chọn ai hơn. Thật vậy, từ nhiều năm qua, người Mỹ đã biết ông, và rất hâm mộ tính cương quyết của ông…Tóm lại, nhờ cương quyết và cuồng tín, ông là người chống Cộng chắc chắn. Đúng vậy, đó là người của hoàn cảnh”. (Con Rồng Việt Nam- trang 514-515-516)
I- Tổng thống Ngô Đình Diệm.
A- Bản tính tự cao, phong kiến.
Ở miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng biết Việt cộng tổ chức tuyên truyền rêu rao tôn sùng Hồ Chí Minh như là một vị thánh sống, ngược lại ở miền Nam lúc bấy giờ ông Diệm cũng được tay chân bộ hạ tâng bốc cũng không kém gì. Hình ảnh của thủ tướng họ Ngô được họa lớn treo khắp hang cùn ngỏ hẽm, từ thành thị đến thôn quê, từ nhà lồng chợ cho đến trường học, công sở…Ông Diệm còn được tôn vinh là Ngô tổng thống anh minh muôn năm, nhưng trời đã phụ lòng người vì Ngô tổng thống chỉ được có 9 năm mà thôi. Bản nhạc Suy tôn Ngô tổng thống được hát kép với bản Quốc ca mọi người phải đứng nghiêm cho đến khi hết dù đang đứng ngoài chợ giữa trời mưa, nắng hoặc trong rạp hát:
“Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô tổng thống
Ngô tổng thống, Ngô tổng thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhó ơn Ngô tổng thống
Xin thượng đế ban phước lành cho người…”
Ông Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ thời Đệ nhất VNCH tường thuật trong lần “Mạn đàm với Đại tướng Cao Văn Viên”, người mà năm 1963 từ chối không tham dự vào cuộc đảo chính ông Diệm đã nhận định về ông Diệm như sau:
“Mỗi người độc tài theo một cách riêng. TT Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình “thiên mạng” cứu nước. Có lẽ anh còn nhớ vụ ông tỉnh trưởng Bình Tuy săn được một con hà mã, dấu cái sừng tê giác, không khai báo khi hay được, cụ Diệm nổi trận lôi đình, cách chức và đòi giam viên tỉnh trưởng về tội “tẩu tán tài sản nhà nước”.
“TT Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đình, thích độc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trương “tiết trực tâm hư” nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đình”. (Đàn Chim Việt online ngày 9-5-2006)
Theo sự nhận định của vị Giám mục đầy uy tín Lê Hữu Từ do tiến sĩ sữ học Chánh Đạo Vũ Ngự Chiêu kể lại trong tác phẫm “Cuộc Thánh chiến chống cộng” của ông như sau:
“Tháng 12-1954 GM Lê hữu Từ tâm sự với Đặc sứ Collins rằng hào quang của Diệm ngày mới về nước đã lụn tàn. Diệm không chỉ bất lực mà còn ganh tỵ với những người có khả năng hơn (hoặc danh tiếng hơn), và tìm cách đốn họ”. (CTCCC – trang – 240)
B- Thiếu uy tín và lòng trung thành.
Theo sử gia Trần Gia Phụng, qua lời kể của ông Nhị Lang trong khi thủ tướng Diệm đang phải tất bật điên đầu chống lại các thành phần phản loạn thì quốc trưởng Bảo Đại triệu ông sang Pháp và ông đã kháng lệnh nên thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ, người được quốc trưởng đề cử làm Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia từ Đà Lạt đem Ngự Lâm quân về Sài Gòn bao vây dinh Độc Lập ép ông Diệm phải sang Pháp gặp quốc trưởng thì:
“Lúc đó, Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia (HĐNDCMQG) gồm các nhân sĩ của các đoàn thể chính trị và tôn giáo, đến dinh Độc Lập gặp thủ tướng Diệm, chứng kiến việc này, liền vây quanh tướng Vỹ, Nhị Lang, tổng thư ký HĐNDCMQG dùng súng ngắn uy hiếp tướng Vỹ phải ký giấy quy thuận chính phủ Diệm. Bị bất ngờ, thiếu tướng Vỹ đành chấp nhận, rồi rút lên Đà Lạt và sau đó ra ngoại quốc…
“Dẹp xong Bình Xuyên, chính phủ Diệm lại lo ngại thế lực của HĐNDCMQG, nên cho cảnh sát bao vây trụ sở hội đồng này trên đường Phùng Khắc Khoan (Sài Gòn) để theo dõi từ tháng 8-1955.
“Sau khi ổn định tình hình, chế độ khá vững vàng, thủ tướng Diệm liền tìm cách chấm đứt vai trò Quốc trưởng của Bảo Đại, người đã tin tưởng ông Diệm và bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng toàn quyền dân sự và quân sự….
“Kết quả đắc cử của ông Diệm trong cuộc Trưng cầu Dân ý ngày 23-10-1955 (5.721.735 trên 5.828.907, tức 98, 16%). (Đàn Chim Việt online ngày 11-10-2012)
Theo giáo sư Lê Xuân Khoa trong quyễn “Việt Nam 1945-1995” thì:
“Ban tổ chức trưng cầu dân ý đã sắp đặt cho việc thắng cử của Ngô Dình Diệm quá bảo đảm đến độ ông được tới 98, 2 phần trăm trong khi Bảo Đại chỉ được 1, 1 phần trăm. Bằng chứng gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sài Gòn-Chợ Lớn có 450.000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605.025”. (Trang – 432)
Sau khi ông Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng thì các nhân sĩ trong nhóm Tinh Thần hay còn gọi là nhóm Caravelle đã hết lòng ủng hộ ông nhưng rồi vì sự bội ước của ông mà những nhân sĩ này sau đã hợp tác với đại tá Nguyễn Chánh Thi đảo chính ông ngày 11-11-1960.
“Nhóm này là một trong 18 thành viên đoàn thể của Ủy Ban Cách mạng Quốc gia, ủng hộ việc tổ chức Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, đưa Thủ tướng Diệm lên làm tổng thống đầu tiên xác lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
“Tuy nhiên, khi chính sự đã ổn định, TT Diệm đã dần trở mặt với các thỏa hiệp ban đầu với những người đã ủng hộ ông và giúp ông giữ được ngôi vị tổng thống. Để bảo đảm vị thế quyền lực của mình, Diệm chủ trương kềm chế các phe phái chính trị đối lập cũng như ảnh hưởng từ phía nước ngoài như Mỹ, Pháp”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 21-10-2012)
Trong cuộc dẹp loạn Hòa Hảo ở miền Tây ông Diệm đã mắc phải sai lầm là thất hứa với tướng Lê Quang Vinh biệt danh là Ba Cụt để rồi sau này anh em của ông nhận lấy một hậu quả thê thảm vì cái trò bội tín ấy.
“Ngô Đình Diệm cho tiến hành các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (mở ngày 23-5-1955) và chiến dịch Nguyễn Huệ (mở ngày 1-1-1956) để tiêu diệt quân Ba Cụt nhưng vẫn không thanh toán được. Sau đó Ngô Đình Diệm chỉ đạo cho Nguyễn Ngọc Thơ âm mưu giả vờ thương thuyết, chấp nhận cho Ba Cụt về hợp tác với chính quyền, phong thiếu tướng, rồi vào phút cuối trở mặt, bắt ông…
“Vào lúc 5giờ 45 phút sáng, ngày 13 tháng 7 năm 1956, ông đã bị hành quyết bằng cách chém đầu tại Cần Thơ”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 12-10-2012)
Theo học giã Nguyễn Hiến Lê viết trong “Hồi kí Tập II” do nhà xuất bản Văn Nghệ ở Westminster, California ấn hành thì rõ ràng ông Diệm đã không giữ được chữ tín.
“Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long Xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử”. (Trang – 117)
“Ngày 11-11- 60 bọn nhảy dù Vương Văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài Gòn, bao vây dinh Độc Lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ…Diệm dùng kế hoản binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ Tho lên cứu”. (Trang – 123)
Chính phủ Diệm đã thiếu sự thi hành nghiêm túc giữa một bên nhận viện trợ và một bên là trách nhiệm tương ứng khi nhận viện trợ. Lòng trung thành với Đồng minh đã viện trợ mình trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm không được tôn trọng do đó mà ông Diệm bị “thay ngựa giữa dòng” là chuyện bình thường. Cựu nghị sĩ Nguyễn Văn Chức viết trong “Việt Nam chính sử” như sau:
“Vụ Mỹ mang quân chiến đấu vào Việt Nam. Cho đến nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng: Ông Diệm đã chống lại việc Mỹ đem quân chiến đấu vào Việt Nam. Sự thật không phải vậy…
“Ông Diệm rất muốn sự có mặt của quân đội chiến đấu Mỹ tại miền Nam, đặc biệt là tại biên giới Ai Lao và vùng phi quân sự Bến Hải…
“Ông muốn người Mỹ ký một hiệp ước song phương với Việt Nam, như Mỹ đã từng ký với Đại Hàn. Chính sự đòi hỏi này là một trong những mầm sung đột giữa chính quyền Kennedy và chính quyền ông Diệm”. (VNCS – trang 184-185)
Thực sự lúc đầu theo tài liệu của CIA thì ông Diệm không muốn Mỹ đưa quân tác chiến vào Việt Nam, nhưng sau vì tình hình an ninh ngày càng xấu đi nên bắt buộc ông Diệm phải nhận quân Mỹ vào với hình thức này, hình thức nọ.
Theo John Newman trong “JFK và chiến tranh Việt Nam” do Trần Ngọc Dung chuyễn ngữ thì:
“Sau khi biết ông Diệm không chịu cho quân tác chiến vào Việt Nam, tướng McGarr liền hỏi, liệu ông có chấp nhận gửi quân tác chiến vào để “trực tiếp huấn luyện” không? Ông Diệm đồng ý ngay”. (Trang – 71)
“Về phía ông Diệm, ông phải gửi hai lá thư. Lá đầu không quan trọng, lá thứ hai ghi rõ chi tiết mọi vấn đề cộng thêm sự xác nhận việc ông đồng ý cho Hoa Kỳ đưa quân vào”. (Trang – 75)
“Vì Thuần đã chuyễn cho Nolting bằng chứng phũ phàng khiến ông Đại sứ sửng sốt: Có, ông Diệm có muốn quân đội tác chiến Hoa Kỳ vào và đề nghị bố trí sát vĩ tuyến 17 trong “vùng phi quân sự” để cản các cuộc tấn công”. (Trang-119)
“Trong cuộc họp cuối với ông Diệm, Taylor đề nghị đưa lực lượng Mỹ vào Việt Nam như là “lực lượng đặc nhiệm cứu trợ lũ lụt” mà ông Diệm rất đồng ý. Đưa đợt đầu 8.000 quân tác chiến với danh nghĩa cứu lụt (Taylor không thích chữ danh nghĩa) sẽ là đề nghị chính Taylor trình với Kennedy”. (Trang – 128)
“Ban tham mưu không nói đến hai chữ “loại bỏ” ông Diệm, mà chỉ nói rằng việc thực thi mục tiêu của Hoa kỳ tỏ ra khó khăn hơn nếu có sự hiện diện của ông Diệm và yêu cầu phía ông Diệm phải có thái độ “hợp tác thỏa đáng”. Nếu không được như vậy, “khó lòng tránh khỏi thất bại trước cuộc xâm lăng của Cộng sản”. (Trang – 160)
Tiến sĩ Philip Catton, hiện dạy ở Đại học Stephen F. Austin trong bài “Liên minh bất hòa: Ngô Đình Diệm và Mỹ” đưa ra nhận định về TT Diệm như sau:
“Đặc biệt vào những khi tình hình đất nước xấu đi, người Mỹ thúc Diệm sửa chữa cái mà họ xem là khiếm khuyết của chính thể: sự lộn xộn trong bộ máy hành chính do Diệm không muốn san sẻ quyền hành, sự thiếu dân chủ và thiếu ủng hộ chính phủ trong dân chúng. Người Mỹ lo ngại rằng quá thừa sự chuyên quyền, mà không đủ nỗ lực chinh phục thêm người ủng hộ. Nhưng họ bực tức thấy Diệm vẫn làm theo ý mình.
“Trong khi người Mỹ lo ngại về Diệm bản thân ông nhà lãnh đạo cũng lo ngại về Mỹ. Ông vui lòng chấp nhận hỗ trợ quân sự kinh tế của Mỹ, nhưng không sẵn sàng lắng nghe lời khuyên của mỹ”. (BBC online ngày 17-10-2008)
Ông Diệm đã từng được cựu hoàng Bảo Đại hai lần cử làm thủ tướng toàn quyền dân sự và quân sự, ông cũng đã từng đặt tay lên thánh giá thề chống cộng. Ông cũng đã từng ngữa tay nhận viện trợ của Mỹ để bảo vệ tiền đồn chống cộng thế mà ông đã làm ngược lại. Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu trong “Cuộc Thánh chiến chống cộng” chương “Phiến cộng trong dinh Gia Long”, ông viết:
“Colby Lost Victory, 1989: 102-103. Trong cuốn Our Endless War…ấn bản tiếng Việt của tập hồi ký trên ghi rằng Nhu được trung tá Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy đưa đến gặp Phạm Hùng và hai người khác…
“Trần Thiện Khiêm báo cáo với Mỹ rằng Nhu tuyên bố với các tướng (kể cả Dương Văn Minh và Lê Văn Nghiêm) là nếu Mỹ cắt viện trợ, Nhu có thể liên lạc với Hà Nội yêu cầu giảm bớt cường độ chiến tranh trong khi thương thuyết một thỏa ước vĩnh viễn (FRUS, 1961-1963,IV: 89-90).
“Lời chứng của Lodge trước Ủy Ban Ngoại giao Thượng viện ngày 30-6-1964, còn đi thẳng vào vấn đề hơn: “Mùa Thu (1963) nếu chính phủ Diệm không bị dứt điểm và tồn tại thêm khoảng một tháng nữa, tôi nghĩ chúng ta đã thấy Cộng sản cướp chính quyền . Tôi nghĩ yếu tố này rất quan trọng”. (CTCCC – trang – 382)
Ở giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này anh em ông Diệm đã phản bội lại lời thề “chống cộng” với Quốc trưởng Bảo Đại cũng như với các tướng tá trong quân đội và nhất là với Đồng minh Hoa kỳ nên hai ông đã chọn con đường: “tự sát”.
“Khi biết quan hệ với Washington có thể phải đoạn tuyệt, hai ông Nhu và Diệm tỏ ra muốn thương thuyết với Hà Nội. Ý định này có đã thể nảy sinh ra từ cuối tháng Năm khi Hồ Chí Minh tuyên bố trong một buổi phỏng vấn với nhà báo Úc
Wilfred Burchett rằng chính phủ Ngô Đình Diệm và MTGPMN có thể thương thuyết ngưng bắn và thành lập một chính phủ Liên hiệp”. (Việt Nam 1945-1995 – trang 451)
II- Gia đình trị.
Mỗi khi nhắc đến ông Ngô Đình Diệm thì hầu như ai cũng biết rằng đây là triều đại của một gia đình trị nặng nề mà hậu quả của nó kéo dài đến ngày hôm nay vì nhân tâm vẫn còn chia rẽ do những lời bình phẫm: khen-chê.
“Trong nền Đệ nhất Cộng hòa, ngoài TT Diệm, quyền hành bị tập trung vào trong tay một số người thân trong gia đình như Ngô Đình Nhu, Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Thục; và một số ít người thân tín như Trần Kim Tuyến, Lê Quang Tung và đảng Cần Lao”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 21-10-2012)
Cựu Đại sứ VNCH Bùi Diễm trong quyễn “Gọng kìm lịch sử”, ông viết:
“Đến năm 1960 thì rõ rệt là đường lối của ông Diệm đưa đến những hậu quả mà nhiều người đã tiên đoán. Trên thực tế, chế độ Cộng hòa I đã trở thành chế độ gia đình trị. Nạn tham nhũng, tình trạng ganh đua giữa người này người khác để tỏ lòng trung thành với nhà Ngô (một điều kiện tiên quyết để được chính quyền trọng dụng) làm lũng đoạn cả guồng máy nhà nước, dân sự cũng như quân sự”. (GKLS – trang 160)
Học giả Nguyễn Hiến Lê trong “Hồi kí tập II” đặc biệt nhấn mạnh về vấn đề gia đình trị của ông Diệm qua những nhân vật:
“… Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng…
“Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành…Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô”. (Trang – 115-116)
“Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần Văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ Liên đới, “bà lớn” nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài Gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phải nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng…
“Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 650 đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700 đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm”. (Trang 120-121)
Việc làm ăn phi pháp của bà Cả Lễ cũng được trung tá Vương Văn Đông, người đứng lên đảo chính ông Diệm năm 1960 nhắc tới trong hồi ký “Binh biến 11-11-1960” như sau:
“Nhân dịp tuyển cử tháng 3 -1956, ông Ngô đình Diệm cho lệnh Bộ trưởng Công chánh, ông Trần Văn Mẹo kiêm nhiệm bộ Kinh tế, chuyên chở 5 ngàn tấn gạo ra miền Trung bán hạ giá cho đồng bào với mục đích tạo không khí thuận lợi cho chế độ trong dịp tuyển cử. Nhưng tại địa phương, việc bán gạo quảng cáo của chính quyền với giá 650 đ một tạ có thể gây ảnh hưởng tai hại cho độc quyền địa phương của cậu Cẩn và bà Cả Lễ chị ruột của ông Diệm, họ thường bán gạo chợ đen với giá 1.700 đ một tạ…Nghiệp đoàn Cả Lẽ trước tình trạng “cạnh tranh” này đã chuyễn việc bán gạo chợ đen ở miền Trung ra việc bán lậu với chính quyền miền Bắc số gạo tích trữ được”. (Trang – 59)
Nhà báo Nguyễn Kỳ Phong trong bài “Tài liệu mật của CIA về gia đình họ Ngô và các tướng lãnh” phần nói về Ngô Đình Cẩn ông viết như sau:
“CIA đã than phiền nhiều lần về những hoạt động của đảng Cần Lao và hành vi của Ngô Đình Cẩn. Nhưng mỗi lần CIA than phiền với ông Nhu về những hoạt động bí mật-đôi khi trái phép-của ông Cẩn thì ông Nhu “đưa hai tay lên trời” với một thái độ buông xuôi vì ông không thể nào làm gì được.
“Ở một tài liệu khác cho biết, khoảng giữa năm 1956, CIA nhận được nguồn tin cho biết ông Cẩn đang bàn kế hoạch để loại trừ Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh Thành và Cố vấn Ngô Đình Nhu ra khỏi vòng ảnh hưởng ở dinh tổng thống. Qua nhiều trang, chúng ta đọc được sự bất lực của chính phủ Sài Gòn đối với “lãnh chúa” Ngô Đình Cẩn ở miền Trung…
“Tài liệu thú nhận vào năm sau cùng của nhà Ngô, Hoa kỳ có một phần lớn trách nhiệm trong kế hoạch hạ bệ tổng thống Diệm. Nhưng chính gia đình ông Diệm cũng hủy hoại vì sự chia rẽ anh em trong nhà.
“Từ mùa xuân năm 1963 ông Nhu yêu cầu CIA đừng nói lại những gì ông và CIA trao đổi. Và qua nhiều lần nói chuyện với CIA, ông Nhu tuyên bố ông muốn thay tổng thống Diệm. Trong khi đó thì bà Nhu thì thường làm hùng làm hổ với tổng thống Diệm: trong lúc bầu cử Hạ viện năm 1963, bà Nhu muốn ủng hộ 30 ứng cử viên mà bà ta ưng ý.
“Ông Diệm không đồng ý, nhưng bà Nhu “cằn nhằn, to tiếng” cho đến khi tổng thống Diệm nhượng bộ”. (Đàn Chim Việt online ngày 15-10-2012)
Theo tiến sĩ Phan Văn Song trong bài “Thử có một cái nhìn lương thiện về chế độ Đệ Nhất Cộng hòa” có đoạn ông viết:
“Tôi lớn lên trong gia đình Đại Việt. Một đảng phái Quốc gia, với thành tích đấu tranh chống Cộng, chống Thực dân như vậy, ông Diệm lại trục xuất ông Nguyễn Tôn Hoàng và Nguyễn Ngọc Huy lưu vong, các đồng chí còn lại cho Mật vụ truy lùng bắt…
“Ông chỉ dùng người của phe phái mình, tức theo tiêu chuẩn “trung thành hơn khả năng”. Cũng là một cách “hồng hơn chuyên” mà thôi! ..
“Việt Nam Cộng hòa sụp đỗ do nạn bè phái, bạn bè, nịnh bợ. Cùng quê, cùng xóm, cùng Đảng, cùng bạn, cùng bè, chạy chọt, nịnh bợ (Chủ nghĩa Tam Đ)”. (Đối Thoại online ngày 24-11-2004)
III – Kỳ thị tôn giáo.
Chế độ Ngô Đình Diệm đã mắc nhiều sai lầm lớn, mà trong đó có kỳ thị tôn giáo là một, chính vì cái sai lầm nầy mà ông Diệm đã đẩy một số nhà sư bất mản chống lại hoặc ngã theo cộng sản như Thượng tọa Thích Trí Quang là điều dể hiểu. Thuở ấy Phật giáo thuộc về đa số của dân tộc bị đàn áp như thế mà chỉ có những phản ứng tiêu cực chớ nếu như với Hồi giáo ngày nay thì hậu quả ấy sẽ ra sao? Học giã Nguyễn Hiến Lê nhận định trong “Hồi kí Tập II” như sau:
“Đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dể thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi Công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh trưởng”. (Trang – 120)
“Tinh thần phản kháng của dân chúng càng tăng thì tinh thần của quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt Cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ Tho)…Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật Đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật Đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương”. (Trang -124)
“Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (Sài Gòn) giữa một đám 800 nhà sư và
tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt Nam nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung”. (Trang -125)
Và giáo sư Lê Xuân Khoa kể:
“Đầu tháng Tư, nhân dịp lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm Tổng giám mục Ngô Đình Thục được thụ phong giám mục, cờ Vatican được treo nhiều nơi ngoài nhà thờ ở Huế và những vùng phụ cận. Đầu tháng Năm, để tổ chức lễ Phật Đản các Phật tử treo cờ Phật giáo…Do sự can thiệp của TGM Thục, ngày 6-5 phủ tổng thống ra lệnh không cho treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên chùa…Phó tỉnh trưởng Đặng Sỹ ra lệnh cho cảnh sát và quân đội giải tán biểu tình khiến cho 8 người chết và 15 bị thương”. (Việt Nam 1945-1995 – trang 449)
Jonh Newman trong “JFK và Chiến tranh Việt Nam” cũng xác nhận rõ tình hình này:
“…người Bắc di cư được ưu đãi hơn đa số dân chúng theo Phật giáo. Giáo hội Công giáo được hưởng nhiều đặc quyền vì Tổng giám mục là GM Ngô Đình Thục, bào huynh của ông Diệm. Tháng Tư 1963 ông Thục cho tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm được tấn phong (lễ ngân khánh) và cờ của Tòa Thánh giăng lên khắp mọi nơi…
“Bên Phật giáo vẫn treo cờ, đám đông vẫn tụ tập để đón mừng Phật Đản. Phó tỉnh trưởng là người Công giáo, ra lệnh cho đám đông giải tán nhưng bất thành, ông ra lệnh cho quân đội bắn vào đám đông (ngày 8-5). Qua sáng hôm sau, lãnh sự tại Huế là John Helbe báo cáo rằng có 7 người chết, gồm hai trẻ em bị xe thiết giáp cán thiệt mạng và 15 người khác bị thương”. (JFK –trang – 319)
Qua sự “Đánh giá lại Ngô Đình Diệm” của tiến sĩ Edward Miller, người đã nghiên cứu về nhân vật Ngô Đình Diệm, ông đã sống và làm việc ở Đài Loan, Singapore và Việt Nam, nhận định như sau:
“Đầu tiên là sự trỗi dậy của một hình thức chủ nghĩa dân tộc mới của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Chủ nghĩa dân tộc công giáo được gắn với gia đình Diệm và đặc biệt với anh trai, hồng y Ngô Đình Thục. Diệm cũng gần gủi với Nguyễn Hữu Bài, một nhân vật Công giáo mà nỗi tiếng đã khuyên Diệm treo ấn từ quan năm 1933 để phản đối chính sách của Pháp…
“Cuối cùng và quan trọng nhất, trong những năm này Diệm lần đầu tiên tiếp xúc khái niệm “chủ nghĩa Nhân vị”, một học thuyết mượn từ triết lý Thiên Chúa giáo Pháp. Ngô Đình Nhu hướng dẫn ông đến với lý thuyết ấy, và đây cũng là người sau này thuyết phục anh trai đưa học thuyết thành hệ tư tưởng chính thức của chính phủ Diệm”. (BBC online ngày 16-4-2009)
Cũng vì kỳ thị tôn giáo, đàn áp Phật giáo mà hai nhân vật quan trọng của chế độ đã phản đối và cùng từ chức trong một ngày, đó là:
-Người thứ nhất là Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu.
“Vốn là một nhà kỹ trị, ông hầu như đứng ngoài mọi biến động của thời cuộc bấy giờ. Tuy nhiên, là một Phật tử với Pháp danh Minh Không, ông phản đối biện pháp đàn áp khốc liệt của chính phủ Ngô Đình Diệm với Phật giáo. Ông cạo trọc đầu và sau đó từ chức Bộ trưởng ngày 22-8-1963 để phản đối hành động tấn công các chùa Phật giáo của chính quyền VNCH”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 30-10-2012)
-Người thứ hai là Đại sứ Trần Văn Chương thân phụ của bà Trần Lệ Xuân.
“Trần Văn Chương xuất hiện trên chính trường khi ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng bộ Ngoại giao của đế quốc Việt Nam trong chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945. Năm 1954 ông được phái làm Đại sứ VNCH tại Mỹ dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Ngày 22-8-1963 ông từ chức Đại sứ để phản đối chính sách nhiều người cho là ưu đãi đạo Thiên Chúa giáo La Mã của TT Ngô Đình Diệm”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 30-10-2012)
IV – Suy yếu về quốc phòng.
Nạn bè phái ngày càng phát tiển, nhân tâm ngày càng ly tán thì tình hình an ninh quốc gia ngày càng suy sụp, địch họa ngày càng lớn dần và chiến cuộc ngày càng leo thang. Tháng 12-1960 cộng sản miền Bắc đã chỉ đạo cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ và những nhà trí thức bất mãn với nhà Ngô thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và đã gây cho chính quyền của ông Diệm một số thiệt hại đáng kể như sau:
- “Lực lượng giải phóng gồm gần 1 tiểu đoàn và một số đoàn quân giáo phái tấn công ngày 26-1-1960…Trận Tua Hai mở đầu cho cuộc đồng khởi ở Đông Nam bộ. Sau Tua Hai, lực lượng giải phóng Tây Ninh gỡ 50% đồn bốt, giải phóng 24 xã và làm chủ nhiều phần tại 19 xã khác”. (Wikipedia online ngày 25-10-2012)
- “Lúc 10 giờ sáng ngày 18 tháng 9-1961, ba tiểu đoàn VC tấn công tỉnh lỵ Phước Vinh, cách Sài Gòn 60 dặm về phía Bắc. Quân CS đánh tan lực lượng Dân vệ một cách dễ dàng đồng thời giết chết 42 thường dân. Hai đại đội BĐQ đang tuần tiểu ở khu vực lân cận, thay vì phải đến tiếp cứu, đã rút vào rừng”. (JFK và chiến tranh VN của John Newman – trang 112)
- “Ngày 2-1-1963 quân đội VNCH mở cuộc tấn công vào Ấp Bắc, một địa điểm do cộng sản kiểm soát thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, cách Tây Nam Sài Gòn 40 dặm. Mặc dù đông gấp 4 lần quân địch và có sự yểm trợ của thiết giáp và máy bay trực thăng, ba tiểu đoàn bộ binh của VNCH đã bị quân cộng sản phục kích gây thiệt hại nặng nề”. (Gs Lê Xuân Khoa – VN 1945-1995 – trang 448)
- “Tháng 2-1960: Bản tin Tình báo USARPAC nói rằng chương trình Ấp chiến lược được tiến hành “một cách lổn chổn và rời rạc”. Song đó bản báo cáo ngày 13-7 của CIA cũng chỉ ra “yếu điểm chính” của chương trình này là “công tác xây dựng đầu voi đuôi chuột” thiếu “sự hợp nhất”…khi bản tin của USARPAC (tháng 12) lên tiếng báo động “dầu cho các báo cáo có nói tốt cho chương trình Ấp chiến lược đến mức nào đi nữa, sự thật của nó cũng rất tồi”. (JFK và chiến tranh VN – trang 315)
- Ngày 30-10-1963, Nguyễn Ngọc Thơ nhận lời mời riêng của Lodge gặp mật phái đoàn điều tra McNamara-Maxwell Taylor và ông Thơ đã xác nhận kế hoạch Ấp chiến lược của Diệm-Nhu thất bại, toàn xứ chỉ có lối hai hay ba chục ấp đủ sức tự bảo vệ và nông dân bất mãn chính quyền”. “Lodge in VN” của A.Blair – trang 61”. (Văn Hóa tháng 11-2001)
- “Và họ hy vọng rằng kế hoạch “Ấp chiến lược” thành công sẽ giúp VN giảm bớt tùy thuộc vào Hoa Kỳ mà họ cảm thấy nguy cơ can thiệp ngày càng gia tăng…nhưng thất bại trong chương trình “Ấp chiến lược” đã làm hỏng tất cả những cố gắng khác về quân sự cũng như về kinh tế và chính trị”. (Gs Lê Mạnh Hùng trong bài “Một liên minh sóng gió” – Việt Tide số 352 ngày 4-11-2008)
5- Đảo chính.
Vì là một người có đầu óc bảo thủ, tự cao, tự đại, ganh tỵ, hẹp hòi cho nên ông Diệm không bao giờ chịu lắng nghe lời góp ý chân thành của những bậc thức giã, mà chỉ nghe những bọn xu nịnh, a dua…Do vậy mà chính phủ của ông ta đã trải qua nhiều sóng gió nhưng ông vẫn không thức tỉnh cho đến khi không còn thức tỉnh được nữa.
1- Đô trưởng Trần Văn Hương từ chức để phản đối chính sách độc tài gia đình trị của thủ tướng Ngô Đình Diệm.
2- Bốn vị bộ trưởng đồng loạt từ chức vào cuối năm 1960 gồm có các ông Trần Chánh Thành (Bộ Thông tin), Trần Trung Dung (Bộ Quốc phòng), Lâm Lễ Trinh (Bộ Nội vụ) và Nguyễn Văn Sĩ (Bộ Tư pháp).
3- Các sĩ quan quân đội đảo chính: Ngày 11-11-1960 đại tá Nguyễn Chánh Thi, trung tá Vương Văn Đông và thiếu tá Nguyễn Triệu Hồng thuộc lực lượng Lữ đoàn dù đã tấn công dinh Độc Lập yêu cầu ông Diệm cải tổ chính phủ nhưng ông đã dùng kế hoản binh “hứa láo” để chờ quân cứu giá.
4- Ngày 27-2-1962, hai sĩ quan Không quân cấp úy là trung úy Phạm Phú Quốc và trung úy Nguyễn Văn Cử lái hai chiếc phi cơ A-I Skyraider ném bom dinh Độc Lập cảnh cáo ông và những người trong gia đình.
5- “Vào ngày 25 tháng Tám năm 1963, một bức diện mật của bộ Ngoại giao gởi tòa đại sứ tại Sài Gòn, cho phép bảo các tướng lãnh miển Nam đến gặp Tổng thống Diệm, yêu cầu ông cách ly với ông Ngô Đình Nhu.
“Nếu ông Diệm không nghe thì các tướng lãnh đó được phép chống lại ông Diệm…
“Vào thời điểm đó, bản phúc trình của bộ Quốc phòng, của bộ Ngoại giao và CIA báo Tổng thống Kennedy rằng ông Diệm đã từ chối cải tổ và do đó họ không tin rằng Tổng thống Diệm có thể giúp Hoa Kỳ chiến thắng”. (“Cuộc chiến VN qua những băng ghi âm tại Nhà Trắng” – Pv Lê Dân-RFA online ngày 15-3-2003)
6- Giọt nước đã tràn ly, ngày 01-11-1963 Hội đồng Quân nhân Cách mạng do trung tướng Dương Văn Minh, người đã từng vào sinh ra tử với chế độ phải hợp cùng các tướng lãnh khác một lòng đảo chánh và anh em ông Diệm, Nhu phải đền tội bằng cái chết một cách thảm thiết trên thiết vận xa vì Chúa đã không phù hộ hai ông.
Theo nhận định của tiến sĩ Kathryn Statler, Phó giáo sư khoa Lịch sử, Đại học San Diego, Hoa kỳ từ năm 2005. Trong bài viết gửi riêng cho BBC “Đánh giá lại Diệm: Cái nhìn khác về miền Nam”, bà viết:
“Sau khi đã loại bỏ được ảnh hưởng của người Pháp ở miền Nam, ông lại xoay sang mục tiêu tìm kiếm độc lập trước người Mỹ…
“Diệm cũng phá vỡ kế hoạch bầu cử năm 1956 theo như quy định của Hiệp định Geneva, với lý do Việt Nam đã bị loại trừ khỏi cuộc đàm phán và đã không ký thỏa thuận chung cuộc.
“Từ 1954 cho đến khi bị ám sát năm 1963, Diệm hoan nghênh viện trợ Mỹ nhưng chống lại cố gắng chỉ đạo chính sách của miền Nam…
“Diệm không phải là bù nhìn. Sau rốt, chính vì Diệm quyết đi theo con đường riêng mà các tướng lãnh miền Nam và Hoa kỳ đã lật đổ ông”. (BBC online ngày 21-11-2008)
Thay lời kết.
Học giã Nguyễn Hiến Lê viết trong “Hồi kí Tập II:
“Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô”. (Trang – 122)
“Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng”. (Trang – 126)
© Đại Nghĩa
© Đàn Chim Việt
Vào những năm sau năm 1960 dư luận trong và ngoài nước lên án chính quyền ông Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo. Cũng qua những vu khống này mà một số các tăng sĩ và Phật Tử đã lợi dụng tình thế để vận động đồng bào Phật Tử đứng dậy tranh đấu và biểu tình chống lại ông Diệm.
Trong một cuộc phỏng vấn ngày 20.12.1963 với Đại Sứ Fernando Volio Jimenez của Costa Rica, người trưởng phái đoàn Liên Hợp Quốc tới Việt Nam để tra cứu về việc đàn áp tôn giáo, đã xác định “Cảm tưởng của riêng tôi là không có chính sách kỳ thị, áp bức hay khủng bố đối với Phật Giáo. Những lời khai về việc này thường là “nghe nói”, và được trình bày một cách mơ hồ, chung chung. Mỗi khi có một các nhân chứng cố gắng tìm một bằng chứng cụ thể nào đó để trình bày phái đoàn thì đó cũng là hành vi lẻ tẻ hay cá nhân.” Vì những nhận định này nên thượng nghị sĩ người Mỹ Thomas Dodd đã thốt lên rằng: “….nhân dân Hoa Kỳ đã bị báo chí lừa dối nặng về tình hình đối ngoại có tính cốt tử. Chúng ta đã được báo cáo rằng chính phủ Diệm khủng bố tôn giáo một cách tàn nhẫn, khiến những sư vô tội bị dồn vào chổ phải tự tử để phản đối. Nhưng nay ta thấy sự thực không hề có khủng bố, hay chỉ cho thổi phồng quá mức, và cuộc náo loạn chủ yếu mang tính chất chính trị.”
Những người vu khống ông Diệm kỳ thị tôn giáo đã quên rằng trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà chính phủ đã cung cấp tiền cho xây cất và qua đó số chùa miền Nam cũng đã tăng gấp đôi. Khi phong trào tranh đấu của Phật giáo đang trong gian đoạn nóng, những người Phật tử trong bộ tham mưu của ông Diệm xin ông cho phép công bố những con số chi tiết nói lên sự chính quyền giúp xây dựng Phật Giáo, nhưng ông không cho, vì theo ông, việc giúp các tôn giáo là nhiệm vụ của ông.蜉 Một chi tiết khác ít ai biết, đó là ông Diệm đã tặng tiền giải thưởng “Leadership Magsaysay” của Phi Luật Tân trị giá 15.000 US$ cho Đức Đalai Lạt Ma.
Lám sao có kỳ thị tôn giáo được khi toàn bộ tham mưu phủ Tổng Thống đều là Phật tử ngoan đạo. Vào năm 1963 trong 18 người trong nội các của chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa chỉ có 5 nhân vật theo Công Giáo và những nhân vật Phật Giáo giữ những chức vụ quan trọng nhất. Trong số 19 tướng lãnh chỉ có 4 là thuộc Công Giáo và các chức vụ quan trọng cũng nằm trong tay ác tướng lãnh Phật Giáo. Trong 4 ông tướng tư lệnh 4 vùng chiến thuật, chỉ có tướng Huỳnh văn Cao là người theo Thiên Chúa Giáo và cũng trong số 32 tỉnh trưởng, chỉ có 12 là công giáo.
Thiết nghĩ những con số và những chi tiết đã trình bày cũng đủ để tự nó chứng minh rằng Ông Ngô Đình Diệm có kỳ thị tôn giáo hay không.
“Phạm Tăng Quốc says: Tôi không biết GS Khoa là ai, thuộc đảng phái nào. Nhưng tôi suy nghĩ nhiều khi đọc bài;
GIÁO SƯ LÊ XUÂN KHOA NGƯỜI KHOA BẢNG THIẾU LIÊM SỈ” của BS. Pham Lễ, BMD” ( Trích)
“… Đài Quê Hương tường trình lại cuộc biểu tình chống hai ông Vũ Đức Vượng và Lê Xuân Khoa tại khách sạn Red Lion Hotel ngày 16-3-1996 vì hai ông này làm lợi cho CS ( “Âm Mưu Thành Lập Cộng Đồng Thân Cộng tại Hải Ngoại”)
Bài viết trích nhiều sách vỡ, nhưng là một chiều. Nhìn bề ngoài chúng ta tưởng bài viết mang tính trung dung, nhưng có rất nhiều sách vỡ ghi chép rất trung thực. Xin mời quí vị tìm đọc những tác giả sau đây
1. Phạm Văn Lưu: “Biến cố chính trị Việt Nam Hiện Đại, I: Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt – Mỹ 1945-1963″
2. Minh Võ: “Ngô Đình Diệm, lời khen tiếng chê”, “Ngô Đình Diệm, Chính Nghĩa Dân Tộc”
3. Lê Nguyên Phu: “Trong Bóng Tối Lịch Sử, khảo sát về Ngô Đình Diệm”
4. Nguyễn Văn Minh: “Dòng Họ Ngô Đình và Giấc Mơ Chưa Đạt”
5. Nguyễn Ngọc Tấn: “Chủ-Nghiã NHÂN-VỊ: Con Đường Mới, Con Đường của Tiến Bộ? trong Cuộc Cách Mạng Nhân Vị Chưa Hoàn Tất”
6. Hoàng Ngọc Thành / Thân Thị Nhân Đức: “Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm”
7. Bảo Đại: “Con Rồng Việt Nam”
8. Eileen J. Hammer: “Bàn Tay Hoa Kỳ, Cái Chết Ông Diệm”
V.v.
Bạn Dế Mèn ra vẻ công bình khách quan nhưng câu nói sau đây cho thấy bạn không khách quan như người ta tưởng
“Đã tròn 49 năm ngày TT Diệm bị lật đổ và bị giết hại và sự tranh cãi về chế độ của ông vẫn còn nhiều. Nhiều lời khen quá vo tròn nghe rất chướng tai. Và nhiều hằn thù độc địa gây khinh tởm.”
Một bên bị chê là chướng tai, một bên bị chê là khinh tởm thì cho thấy bạn ghét bên nào thương bên nào
Tôi nghĩ có khen hay chê Diệm Nhu thì cũng bằng thừa vì cả hai ông đã chết từ tám đời rồi, đều đã mục nát với cỏ cây, có xưng tụng hay chửi bới cũng chỉ tốn nước bọt vô ích
Tôi đề ghị chuyện Diệm Nhu nên để vào viện bảo tàng cho xong, đem nhau ra chửi bới chỉ tổ làm lợi cho CS chứ chẳng ích gì, mỗi lần nghe đến chuyện Diệm Nhu là y như rằng có chửi nhau, những người đã sống thời đó ít ai lên tiếng, những người hậu duệ thì xưng tụng, chỉ trích thoải mái, số người biết về chế độ Diệm còn nhiều nhưng đa số thầm lặng không muốn gây chia rẽ
Nvqg
Ai nói gì thì nói,trong tâm tôi ,một người không theo tôn giáo nào(thờ cúng Ông Bà mà thôi) vẫn sáng ngời hình ảnh Cụ NGÔ ĐINH DIỆM .Đời Ngài chưa giết ai ,dù người đó đã ám sát NGÀI (Ông Khổng Tử đươc người đời tôn là vạn thế sư biểu,đã giết ông Thiếu Chính Mão vì tội nói xấu ông ta) Tôi cũng vô cùng tôn kính Cụ NGÔ ĐÌNH NHU. Ngài để lại hậu thế một tác phẩm CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM độc đáo về phép giữ nước và phát triển dân tộc.Vì thế,ngày Thanh minh (5-4-2011) tôi đã hành hương kính viêng mộ các Ngài và tộc thuộc các Ngài nằm gần đường DT 743 ,trước văn phòng Khu phố Bình Đức 3 ,thị xã Thuận An ,tỉnh Bình Dương
Như đã trình bày ở phần đầu, những chức vụ quan trọng trong quân đội, trong các bộ các ngành, tỉnh trưởng, quận trưởng, viện trưởng, giám đốc, trưởng phòng v.v. đều do người Công Giáo nắm giữ. Nếu thiếu không kiếm được người cùng tôn giáo mới bổ nhiệm người các tôn giáo khác. Sau đó, ông Diệm dùng miếng mồi thăng chức, thăng quyền nhanh chóng cho những ai bằng lòng cải đạo. Thí dụ: Ông Trần Văn Lắm cũng nhờ đổi đạo mà giữ đựơc chức Đại biểu Chính phủ tại Nam Phần, về sau làm đại sứ. Nhờ theo Thiên Chúa giáo mà Nguyễn Đình Thuần từ chức Đổng lý Văn phòng Bộ Quốc Phòng được thăng lên chức Bộ trưởng Phủ Tổng Thống. Đại tá Nguyễn Văn Y nhờ rữa tội nên được bổ nhiệm chức Tổng Giám đốc Nha Cảnh Sát Công An. Nguyễn Văn Thiệu cũng nhờ rửa tội mà lên cấp tá dưới thời ông Diệm, và về sau được Mỹ cho làm Tổng thống Đệ Nhị Cọng Hòa (Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, Vũ Văn Mẫu, Giao Điểm 2003, trang 53). Thật là nhục nhã cho một số người có học mà chạy theo chức quyền.
Tại các thôn làng, các vùng kinh tế mới, Ấp Chiến Lược, công an mật vụ của ông Diệm, Nhu và Cẩn vu khống, chụp mũ Cọng sản lên đầu dân lành rồi bắt họ bỏ tù. Sau đó, các bà sơ và linh mục, giám mục tìm cách móc nối với gia đình nạn nhân và khuyên họ cải đạo để được thả về còn không thì bị tù rục xương. Có nhiều người thà chết không chịu bỏ đạo nên bị chết trong tù do thương tích tra tấn, hoặc do đỗ nước lạnh hay nước xà bong vào miệng, sau đó cai tù đứng lên bụng đạp cho nước tràn ra, và tiếp tục làm như vậy cho đến lúc nạn nhân chỉ còn thoi thóp chờ chết.
Những đơn khiếu nại, rên siết của các khuôn hội Phật Giáo mà nhiều nhất là ở các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, gởi trong các năm 1961-1962 kêu cứu giáo hội Phật Giáo Trung Phần để xin can thiệp. Một đọan trích dưới đây được T. T. Thích Trí Quang tóm lược đăng trong Nguyệt san Liên Hoa năm thứ 7, phát hành vào tháng 8 năm 1964 (trang 38) cho chúng ta thấy một phần nhỏ trong tòan bức tranh to lớn về chính sách Công Giáo trị của chính phủ Ngô Đình Diệm:
“Ấp Chiến Lược thực là chiến lược và chiến thuật vĩ đại của các chính sách “giáo trị một chiều”. Từ sự dụng ý đến sự dùng người, từ sự đặt để đến sự quản trị, từ sự bố trí đến sự tổ chức, Ấp Chiến Lược như nghững cái nơm sắt lớn và chắc, chụp xuống tất cả tư tưởng, nhất là tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Lợi dụng danh từ “dân chủ pháp trị”, người sáng lập quốc sách ấp chiến lược làm một việc thay đổi tòan diện bộ máy cai trị hạ tầng thôn quê không bằng một cuộc cải cách nào khác hơn là đưa thêm người cùng tín ngưỡng Thiên Chúa Giáo vào, đổi bỏ những người cọng tác ngày trước, cứng rắn đến tột độ cái chính sách giáo trị dung hòa bởi gia trị và đảng trị. Và dĩ nhiên, các nạn nhân đại đa số Phật Giáo đến đây, càng là nạn nhân. Hàng rào ấp chiến lược cố ý tìm cách bỏ ra ngòai nào chùa Phật Giáo, nào nhà Phật tử và dĩ nhiên ngòai hàng rào thì bị xem là Việt Cọng rồi. Hàng rào ấy gần như rào chùa và rào cả sự đi lễ chùa của Phật-tử, nhất là trong những ngày và những giờ đại lễ Phật Giáo thì hàng rào ấy trong không ra, ngòai không vào được. Sống trong chiếc nơm sắt ấp chiến lược đó, Phật-tử tuy nói “liên gia tương bảo” nhưng kỳ thực đó là một hệ thống kiểm soát của thiểu số tín ngưỡng đối với tuyệt đại đa số tín ngưỡng khác.” (Dẫn theo Vũ Văn Mẫu, SĐD, trang 65).
Nghe các anh hát, thì tròn cũng thành ra…méo.
Y hệt như cái anh vô lại hát bài Tăng Sâm giết người cho mẹ Tăng Sâm nghe…
Một anh điếm, mỗi lần…lên đời, hát có tệ lắm cũng…vài ba chập.
Cứ Diệm..cần lao, công giáo, độc tài, gia đình trị, ấp chiến lược…
hát miết, ai chửi…kệ họ. Đường ta ta cứ đi. Má Tăng Sâm thế nào cũng có ngày…bật dậy.
Tiếc thay, thời buổi này là…công nghệ thông tin, in tẹc nét.
hát dai, hát dài, hát nập đi, nập nại, có vũ nhục được cái nền cộng hoà của miền Nam tự do năm xưa không?
Mấy ông giáo gian này mới là đổi trắng thay đen, biến Việt gian thành yêu nước.
NDD tam đai Việt gian ,làm chức tri phủ, thượng thư thời Pháp thuộc!!!!!.
Đi tu trong tu viện Vatican!!!!!!!!!!! Được Vatican móc nối Mỹ bồng về làm vua.
Nghiện đạo lắm à nhe, mà có hiền lành gì đâu, mang mười chữ bất mà, chính ông linh mục Trần văn Lý nói, dòng máu Việt gian ba đời + con chiên mù quáng nên gây khổ cho dân mà không biết!!!!!!!!!!!!!!.
Sau khi bị quân đội lật đổ, dân chúng ăn mừng ba ngày liền!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!.
Không tin thì cứ kiếm hình ảnh nhân dân vui mừng mà coi.
Chú mỉu chú miu ơi, ý kiến chú viết chỉ có phe của chú đọc thôi, chớ phe bênh ông tổng thống thì người ta chỉ đọc đôi hàng xem có phải phe ta không, nếu không thì họ bỏ qua, hưỡn đâu mà ngồi đọc hết những rác rưởi chú xả trên diễn đàn này – “ngưu tìm ngưu, mã tìm mã” í mà .
Lúc trước người thân của chú bị tên đại bịp Hồ chí Minh xúi giục cắt cổ mổ bụng, giật mìn xe đò, ném lựu đạn vào chợ búa giết hại lương dân Miền Nam nên ông tổng thống mới cho quân đi đánh dep. Nay chú tưởng người thân của chú chết oan, chú cố “động não” nặn ra những câu chuyện tưởng tượng rồi ra sức lọc cọc đánh máy trên mạng thay vì dùng thời giờ để an hưởng tuổi già hay vui chơi tuổi trẻ . Chúc chú sớm tìm thấy được sự thực về chế độ Ngô tổng thống để tâm hồn chú được thanh thản nha .
Trong tài liệu Phản Bội Hay Chân Chính do cán bộ cộng sản Lê Văn Chấp soạn thảo có đoạn viết như sau:
“Thành tích chống Cộng của mật vụ Ngô Đình Cẩn/Dương Văn Hiếu (Đoàn Công Tác Đặc Biệt) thật kỳ diệu. Chúng đánh thẳng vào cơ quan đầu não của các Đảng bộ miền Trung như Liên Khu Ủy 5, Tỉnh ủy Thừa Thiên, Thành ủy Huế, rồi Đà nẵng. Tiến xuống miền Nam, chúng tấn công Đặc Khu ủy Sài gòn Chợ lớn, Thủ biên, Cần thơ. Nổi bật nhất là mật vụ miền Trung đánh bắt gọn các lưới Tình Báo Chiến Lược của ta trải suốt từ Bến Hải đến Sài gòn chỉ có một năm”.
Kỳ Thị Tôn Giáo Để Bành Trướng Nước Chúa
Ngô Đình Diệm là một con người có đến hai nhiệm vụ. Là một chính khách do Mỹ đưa về, ông phải thỏa mãn đường lối của chủ. Là một tín đồ ngoan đạo, ông có bổn phận bành trướng nước Chúa. Đây là lý do chính để giải thích tại sao ông Diệ⭠và anh em ông ta kỳ thị và đàn áp Phật Giáo, một tôn giáo có gốc rễ lâu đời và có số lượng tín đồ đông nhất Việt Nam.
Không riêng gì ở Việt Nam, mà hầu hết bất cứ quốc gia nào, nhất là các nước kém mở mang, lúc trở thành một tín đồ của đạo thờ ngài Giê-Su thì họ có khuynh hướng vọng ngọai, trọng ngọai và thường muốn ly khai với tổ quốc của chính họ. Gần Hoa Kỳ thì có nước Mễ Tây Cơ. Giáo hội Công giáo của quốc gia nầy thường chống lại tổ quốc của họ và làm lợi cho ngoại bang là Tây Ban Nha. Vì thế, Hiến Pháp 1917 của Mễ đã ngăn cấm giáo hội Công giáo mở trường học và sở hữu bất động sản. Các tu sĩ lúc ra đường thì bị cấm không cho mặc đồ tu, không có quyền bỏ phiếu…
Ông Diệm người Quảng Bình, được xem như là người miền Bắc (vì ở bên kia vĩ tuyến 17) vào làm “vua” miền Nam. Với óc địa phương “Nam Kỳ Quốc”, nhiều người miền Nam không ưa. Đã thế, chính phủ Ngô Đình Diệm lại có chính sách đàn áp và tiêu diệt các đảng phái quốc gia, tiêu diệt Cao Đài, Hòa Hảo vốn là hai giáo phái mạnh và được nhiều người miền Nam mến mộ. Tướng Trịnh Minh Thế của Cao Đài bị giết mờ ám, tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh của Hòa Hảo bị lừa rồi bị hành quyết, giáo chủ Phạm Công Tắc bị bôi bẩn để triệt tiêu, phải chạy trốn sang Nam Vang. Hành động thiếu sáng suốt biến bạn thành thù đã tạo thành những thế lực chống đối nhà Ngô lúc ngấm ngầm, lúc công khai ầm ỷ làm lung lay gốc rễ của chế độ.
Sinh ra trong một gia đình theo đạo Công Giáo nhiều đời và lớn lên trong hòan cảnh đất nước bị ngọai xâm, hai yếu tố cơ bản và then chốt đó đã tác động sâu đậm lên con người và cuộc đời củaTổng Thống Ngô Đình Diệm.
Làm quan dưới thời Nguyễn mạt, Ngô Đình Diệm thất bại trong việc tranh dành ảnh hưởng với Phạm Quỳnh nên từ chức Thượng Thư Bộ Lại năm 1933. Từ đó ông có một cuộc sống không cố định mà phần nhiều là ở ngọai quốc.
Từ sau nữa năm 1950, ông Diệm đi Nhật Bản gặp Kỳ Ngọai Hầu Cường Để là một chuyện phụ nhưng thực ra là để gặp một cựu sĩ quan tình báo Mỹ là ông Wesley Fishel, rồi đến Vatican yết kiến Giáo Hoàng Pius XII, người nỗi tiếng vì đã từng thúc đẩy chính Phủ Hoa Kỳ thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt để giải cứu quân Pháp bị quân Việt Minh bao vây tại Điện Biên Phủ năm 1954. Sau đó ông Diệm đến Hoa Kỳ rồi đi Thụy Sỹ, Bỉ, Pháp, đến Vatican lần thứ hai, và trạm cuối là trở lại và ngừng chân lâu dài tại Mỹ từ năm 1951. Trong khoảng thời gian hai năm, ông sống trong hai tu viện Maryknoll, vùng Lakewood, bang New Jersey và Ossining, bang New York. Nhờ sự gởi gắm của người anh ruột là Giám mục Ngô Đình Thục, ông Diệm được Hồng y Spellman tiếp nhận, nâng đở và tạo cơ hội giao tiếp với dư luận địa phương qua các buổi nói chuyện tại một vài đại học cũng như tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, rồi cuối cùng được lọt vào mắt xanh của một vài chính khácht thời đó như Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, John Kennedy, Dân biểu Walter Judd, Chánh án Williams Douglas…. Tháng 5 năm 1953, ông qua Bỉ và sống trong tu viện Benidictine de St. André-les-Purges, năm sau qua Pháp chờ thời trong khi quân Pháp đang bị bại trận tại Điện Biên Phủ.
Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ năm1954, chính sách thuộc địa của Pháp tại Đông Dương qua bao năm xương máu đã đến hồi chung cuộc. Thay chân Pháp, Hoa Kỳ tiếp tục con đường chính trị mới ở Đông Dương mà điểm nóng và then chốt là Việt Nam. Với áp lực của chính phủ Mỹ, nhờ sự can thiệp tích cực của Hồng-y Spellman mà đàng sau là Vatican và sức ép của Phong trào Cọng hòa Bình dân thân Vatican, chính phủ Pháp và Quốc trưởng Bảo Đại buộc lòng phải cử Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng trên nữa phần đất phía Nam bằng sắc lệnh 38/ QT do Bảo Đại ký ngày 16. 6. 1954.
Điểm lại một vài dấu tích trên họan lộ chính trị của Ngô Đình Diệm, chúng ta sẽ thấy họan lộ đó nỗi bật hai điểm đã quyết định cuộc đời chính trị thăng trầm của ông. Thứ nhất, Ngô Đình Diệm là một con chiên ngoan ngỏan của Vatican. Thứ hai, Ngô Đình Diệm là con người được lựa chọn để thừa hành chương trình của Mỹ ở Đông Dương sau khi Pháp thất bại.
Theo Bernard Fall, niềm tin tôn giáo của Diệm là một loại hiếu chiến tàn bạo của một Quan tòa Dị giáo [ruthless militancy of the Grand Inquisitor]. Khi một người Pháp nói “tín ngưỡng chung của chúng ta,” Diệm thản nhiên trả lời: “Tôi tự cho tôi là một tín đồ Ki-tô Spain [Tây Ban Nha],” tức cuồng đạo hơn là hòa hoãn theo kiểu Ki-tô Pháp; Two Vietnams, 1965:236.