WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nợ công với Việt Nam

Trên đời này không có cái gì kỳ lạ như thứ ấy, có thể xa tít mù khơi đến nổi đọc hàng trăm tư liệu, xem hàng ngàn con số vẫn lần không ra… Nhưng cũng rất gần như vũng nước trước nhà sau cơn mưa… Đó là thứ ai đi mượn, ai đã cầm cũng không ai biết… Song mỗi người trong quốc gia ấy đều có nghĩa vụ phải trả. Hắn định xù thì con hắn phải trả, con hắn bỏ trốn thì cháu hắn phải è cổ ra mà trả… Đó là nợ công ở Việt Nam.

Nợ công với Việt Nam

Đối với một quốc gia, vấn đề nợ công tác động đến các chính sách tài khóa, tiền tệ, an sinh xã hội, tỷ giá… Nợ công là nợ sinh ra từ khu vực công. Khu vực công gồm: khu vực nhà nước (trung ương, địa phương), khu vực kinh tế công (có sự góp vốn, góp mặt của nhà nước)… Phải kể lể dài dòng ra như vậy để thấy rằng có nhiều công ty quốc doanh trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn, nhưng khi công ty bị phá sản, nhà nước không thể phủi tay về trách nhiệm nợ của các công ty ấy. Do đó ở Việt Nam, nợ công là một “đặc sản” của Việt Nam – không thể tìm thấy ở Thái Lan, Philippin… và rất nhiều nước trên thế giới. Nghĩa là vấn đề nợ công ở Việt Nam trục trặc ngay từ khâu đầu tiên, định nghĩa thế nào là nợ công. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về tỷ lệ nợ/GDP trong năm 2009 giữa Việt Nam công bố là 41% với Ngân hàng Thế giới (WB) là 47%, mấy năm trước cũng vậy và năm nay vẫn chưa khác.

 Một thực tế bí và mật

Khủng hoảng tài chính của Hy Lạp là một ca nghiên cứu kinh điển của nhiều chuyên gia kinh tế, lý giải quá trình hình thành và các diễn biến ca khủng hoảng này tốn rất nhiều công sức. Tỷ lệ nợ công/GDP của Hy Lạp có khoảng 113% – không quá lớn so với nhiều quốc gia khác – tại sao lâm vào khủng hoảng. Kết quả nghiên cứu cho thấy: chính các hành vi dối trá trong thống kê của Hy Lạp đã làm giới đầu tư quốc tế mất niềm tin, dân chúng trong nước bất hợp tác đã đẩy Hy Lạp rơi vào vòng xoáy bất ổn kinh tế. Mức thâm hụt ngân sách năm 2008 được Hy Lạp công bố là 5%, nhưng đến nay phát hiện lên đến 14%. Bi kịch Hy Lạp là bài học nhỡn tiền của chủ trương đặt tham vọng chính trị lên trên thực lực kinh tế. Tổng cục Thống kê Việt Nam thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhưng công tác thống kê tài chính lại hoàn toàn do Bộ Tài chính làm. Bên cạnh những con số thuộc loại “bí” vì chưa bao giờ được tính toán ra, lại có quá nhiều con số thuộc loại “ mật” nên chẳng giải trình công khai được. Thực tế bí và mật đã dẫn đến chuyện các công chức hữu trách cũng chẳng biết nước ngoài lấy đâu ra các số liệu về kinh tế Việt Nam, “chuyện trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã hay” ở trường hợp này thể hiện rất chí lý. Cụ thể hơn về thực tế bí và mật, tháng 5/2011 Tổng cục Thống kê họp báo tuyên bố về việc áp dụng Hệ thống chỉ tiêu quốc gia mới bao gồm 350 chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu. Đồng thời, Tổng cục này cũng công bố luôn là sẽ chỉ trình bày 297 chỉ tiêu ngay trong năm 2011 và toàn bộ các chỉ tiêu thì đợi đến… đến năm 2015. Đề cập đến vấn đề số liệu như vậy để có một cái nhìn chính xác hơn về con số nợ của Việt Nam.

Xuất phát từ cơ sở số liệu hỗn độn, thị trường Việt Nam hay phát ra những tín hiệu đối với giới tài chính quốc tế là bất thường, dễ lẫn lộn và lạ lùng.  Tuy nhiên họ cũng hiểu rằng các yếu tố tâm lý tác động rất nhiều đến thị trường Việt Nam, vấn đề ở đây không phải là tâm lý đám đông mà là niềm tin – niềm tin của người dân vào đồng nội tệ. Vì mất lòng tin vào tiền đồng nên người dân đã chuyển tiết kiệm sang các tài sản khác an toàn hơn như vàng và bất động sản. Can thiệp bằng các biện pháp hành chính chỉ làm cho tình hình tồi tệ thêm; chẳng hạn như “tin đồn” cấm kinh doanh vàng trong thời gian vừa qua. Qua bài học Hy Lạp, giới đầu tư và thế giới tỏ ra rất nhạy cảm với lối cư xử thiếu minh bạch của chính quyền đi vay. Kiểu tính toán không đúng, không đủ có hệ thống luôn ẩn chứa sự khuất tất, thiếu thiện chí trong chi trả. Khi đã mất uy tín thì các khoản nợ dài hạn sẽ nhanh chóng chuyển thành ngắn hạn, các chủ nợ sẵn sàng lấy ngay 100 triệu USD thay vì 1 tỷ USD mà phải đợi 40 năm.

Nợ công và nợ nước ngoài

Những số liệu khập khiễng được công bố trong nước chỉ dẫn đến bế tắc, vô giá trị trong việc tái dựng toàn cảnh thực trạng nợ công Việt Nam. Ứng dụng các số liệu bên ngoài là cách bất đắc dĩ khi bàn chuyện nội tình, song tính đến thời điểm hiện nay, đó là phương cách ứng dụng khả tín nhất.

Theo tạp chí kinh tế The Economist, tính tới thời điểm 8h10’ ngày 1/9/2011 theo giờ Việt Nam, có các số liệu sau:

- Tổng nợ công của Việt Nam: 44,795 tỷ USD (2009), 50,294 tỷ USD (2010),  56,061 tỷ USD (2011).

- Nợ công tính trên bình quân mỗi người Việt Nam: 516,62 USD (2009), 574,28 USD (2010) và 633,95 USD (2011).

- Nợ công/GDP: 50,7% (2009), 51,7% (2010) và 50,9% GDP (2011) (1).

Đối chiếu với Factbook của CIA, ghi nhận về Việt Nam như sau:

- Nợ công/GDP: 49,8 % (2009). Năm 2010, tỷ lệ nợ công/GDP: 57,10%, Việt Nam đứng hạng thứ 41/133 quốc gia và lãnh thổ (2).

Nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nợ công ở Việt Nam. Theo số liệu không chính thức từ WB năm 2010, bao trùm lên 42,2% GDP nợ nước ngoài là khoản nợ công của Việt Nam chiếm 56,6% GDP. Căn cứ theo số liệu về nợ nước ngoài của Bộ Tài chính Việt Nam công bố trong bản tin số 7, có thể tính ra nợ công của Việt Nam đến cuối năm 2010: khoảng 59,1 tỷ USD.

Vấn đề nợ công ở Việt Nam đang trong tình trạng một mê hồn trận, bởi đến nay không hề có một chiến lược tổng thể về vay nợ và trả nợ được công bố ở mức sơ đẳng nhất: bản dự thảo. Khi trả lời về gánh nặng ngân sách sẽ tăng lên theo nghĩa vụ nợ, một quan chức có thẩm quyền phát biểu: “năm nay chúng ta trả nợ 1,5 tỷ USD tương đương với 15% thu ngân sách chẳng hạn. Năm sau chúng ta trả nợ 2 tỷ USD cũng tương đương 15% thu ngân sách… Tức là khi quy mô nền kinh tế chúng ta lớn thêm, thu ngân sách chúng ta to lên thì việc tăng mức trả nợ sẽ không có áp lực hay vấn đề gì cả” (3). Nghe thì thật sướng tai giống như… ông ấy đã nói rất sướng miệng. Chẳng hiểu ông ấy bói đâu ra quan điểm này, một khi thực tế là tốc độ tăng trưởng đang giảm, hệ số ICOR của Việt Nam đang cao ngất ngưỡng.

Riêng về nợ nước ngoài, đối chiếu với Factbook của CIA, thấy ghi nhận về Việt Nam như sau:

- Nợ nước ngoài: 28,67 tỷ USD (2009). Năm 2010, nợ nước ngoài là: 32,81 tỷ USD. Việt Nam đứng hạng thứ 63 trên thế giới (4).

Thời gian vừa qua, có hàng loạt thông tin đưa ra hai con số: 42,2% GDP và 32,5 tỷ USD về số nợ nước ngoài của Việt Nam. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng: nợ nước ngoài của Việt Nam là: 32,5 tỷ USD; con số đó phải là: 44,1 tỷ USD ! Đây là con số tổng nợ nước ngoài bao gồm: nợ khu vực công (nợ của chính phủ + chính phủ bảo lãnh) + nợ thương mại của các doanh nghiệp trong nước. Trong tổng nợ này, riêng nợ nước ngoài của khu vực công là: 32,5 tỷ USD. Tất nhiên, đây chỉ là một con số tổng nợ nước ngoài đặc sản kiểu Việt Nam.

Căn cứ Bản tin nợ nước ngoài số 7, về các chủ nợ tính đến 2010: trong nhóm chủ nợ song phương, nước cho Việt Nam vay nhiều nhất là Nhật với 9,547 tỷ USD, thứ hai là Pháp với 1,167 tỷ USD, thứ ba là Nga với 568 triệu USD, thứ tư là Trung Quốc với 551 triệu USD. Trong nhóm chủ nợ đa phương: đứng đầu là IDA (Hiệp hội Phát triển Quốc tế) với 6,930 tỷ USD, kế tiếp là ADB (Ngân hàng Phát triển châu Á) với 4,174 tỷ USD (5).

Đặc biệt là tất cả các tài liệu trong cũng như ngoài nước, hoàn toàn không thấy nơi nào ghi đích danh con nợ. Tại website của The Economist ở trang ghi nhận số liệu nợ công các quốc gia, bên dưới thấy loáng thoáng vài dòng giải thích: “chính phủ nợ tiền với công dân của chính họ, chớ không phải với người sao Hỏa”. Và “khi nợ tăng nhanh hơn sản lượng kinh tế thì có nghĩa: sự can thiệp của nhà nước vào nên kinh tế sẽ nhiều hơn và thuế trong tương lai sẽ cao hơn” (6). Tất cả những công dân trong quốc gia đó chính là con nợ của các khoản vay nợ công. Nguồn trả chính tiền thuế của người dân và tài nguyên quốc gia.

Lo lắng về nợ công là một cảm xúc chính đáng, bởi phải biết rằng giải quyết dứt điểm nợ công là ý kiến không tưởng. Trong khi đó lãi suất trung bình nợ nước ngoài của chính phủ lại có xu hướng tăng nhanh, từ 1,54%/năm (2006), lên 1,9%/năm (2009) và đến 2,9%/năm (2010). Một khi lỗ hổng thâm hụt ngân sách nứt toác ra thì nguy cơ vỡ nợ liền xuất hiện. Thực tế cho thấy chỉ có thể làm cho giá trị nợ công trở nên “nhẹ” hơn khi xét trong tỷ lệ với GDP bằng cách đẩy GDP tăng lên. Đó là trường hợp của nước Mỹ giai đoạn 1946 – 1956, tỷ lệ nợ công so với GDP giảm xuống còn một nửa trong vòng 10 năm. Và đây là câu chuyện ngày xưa từ thế kỷ trước…

 Các vấn đề liên quan nợ công

So sánh tổng nợ nước ngoài với GDP là nhằm so sánh nợ với những gì một quốc gia làm ra, để xác định khả năng trả nợ của quốc gia đó. Trong nợ công còn có phần quỹ hưu trí – đây là cách tính nợ công tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc, vấn đề này hiện nay bị bỏ lơ khi tính nợ công ở Việt Nam. Chắc chắn câu chuyện này sẽ nóng vào năm 2017: thời điểm Việt Nam thành quốc gia có dân số già, tức 10% dân số ở độ tuổi từ 60 trở lên. Cách tính khác biệt này lý giải tại sao có nhiều nước phát triển có tỷ lệ nợ công/GDP đến 80 – 90%/GDP, trong khi rất nhiều nước khác như: Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc… và Việt Nam có tỷ lệ nợ công/GDP xoay quanh mức 50% – mà WB lại khuyến cáo.

Cần phải khẳng định rõ vay nợ nước ngoài không phải là điều gì xấu. Các nước đang phát triển và phát triển trên thế giới đều có vay nợ nước ngoài. Vay nước nước ngoài chỉ trở nên đáng kinh tởm khi ai đó [?] lồng chuyện công vào việc tư, đem nợ công xoay ra thành tài sản cá nhân nhà mình. Thực chất tình trạng nợ công khiến người ta lo ngại vì chính quyền đã bội chi nặng và vay mượn quá nhiều trong khi chưa hề có một luật định minh bạch nào nhằm chấn chỉnh lối tiêu xài vô tội vạ này. Tình trạng bội chi ngân sách đã diễn ra trong nhiều năm: 5% GDP (2005 – 2008), 6,9% (2009) và 5,6% (2010).

Nếu hiểu theo dạng quá trình tăng nợ là việc tích sản của nền kinh tế, với đặc thù Việt Nam, có khoảng 30% nợ công đã không trở thành tài sản mà đã trôi đi đâu đó… (7). Tỷ lệ thất thoát của các công trình đầu tư nhà nước được thừa nhận chính thức (lẫn không chính thức) là từ 15% đến 45%. Với số nợ nước ngoài công bố năm 2009 là 29 tỷ USD, có thể thấy phần thất thoát là từ 4 tỷ USD đến khoảng 10 tỷ USD (8).

 Chỉ số ICOR  

Trong lãnh vực nợ công ở Việt Nam, cách hành xử công nợ là vấn đề quan trọng nhất. Từ cách hành xử này nảy sinh định nghĩa về nợ của Việt Nam “đặc thù” so với quốc tế, từ đây dẫn đến tương lai gần: nợ công trở thành một rủi ro lớn của kinh tế Việt Nam. Chẳng có gì quá đáng khi cho rằng rủi ro nợ công ở Việt Nam có thể vượt lạm phát và tỷ giá. Thể chế chính trị được thu xếp cho mục đích tạo ra môi trường phát triển kinh tế, không thể làm ngược lại: bảo hộ nền kinh tế theo hướng nuôi dưỡng một thể chế chính trị. Chính những nền kinh tế được dung dưỡng từ các thể chế chính trị độc tài luôn chứa đưng nguy cơ đổ vỡ hệ thống khi gặp các cú shock kinh tế. Thực tế bí và mật về các số liệu nợ công là hành vi ngạo mạn, trịch thượng của chính quyền hiện hành đối với nhân dân. Bằng việc công bố trọn gói thiếu diễn giải các khoản nợ vay hàng vài chục tỷ USD, chế độ muốn hợp pháp hóa các khoản biển thủ của công. Qua vấn đề nợ công, người ta càng có dịp hiểu rõ thế nào là một chế độ cai trị bằng hành vi trộm cắp, một chế độ kleptocracy.

Tự con số tuyệt đối nợ công không phản ánh hết được mức độ nghiêm trọng, điều quan trọng hàng đầu trong vấn đề nợ công nằm chỗ: hiệu quả xử dụng đồng vốn vay. Tức liên quan đến chỉ số ICOR (Incremental Capital – Output Rate), đo lường hiệu quả đầu tư. ICOR càng cao thì chứng tỏ hiệu quả đầu tư càng thấp. Chỉ số ICOR năm 2010 là là 6,9, nói đơn giản là phải bỏ ra 6,9 đồng vốn đầu tư mới được 1 đồng tăng trưởng; trong khi đó Trung Quốc là 4,1, Nhật là 3,2, Hàn Quốc là 3,2, Đài Loan là 2,7 (9). Chỉ số này cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB: đối với một nước đang phát triển, chỉ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi. Riêng năm 2008, chỉ số ICOR chung của nền kinh tế Việt Nam là 8, thì ICOR của khu vực kinh tế nhà nước lên tới 12 – thuộc hạng cao nhất thế giới. Rồi sang sang 8 tháng đầu năm 2009, tổng số vốn chi cho khu vực này tương đương với cả năm 2008. Phải nêu rõ ra như vậy mới thấy hết được bản chất tiêu cực của mảng kinh tế quốc doanh đang chiếm vai trò chủ đạo ở Việt Nam; cũng như địa chỉ các khoản nợ công đến. Nên trong đời thường, nợ công như một bóng ma giữa ban ngày chẳng có mấy ai thấy, nhất là những người dân bình thường. Bởi đơn giản là cơn khát đầu tư của các cơ quan nhà nước và khu vực kinh tế công đã uống mất các khoản nợ công này.

Những diễn biến phức tạp về nợ công có thể tạo ra những hiệu ứng không lường trước. Chẳng hạn xu hướng mất giá của đồng nội tệ đang diễn ra liên tục và ngày càng nghiêm trọng cũng khiến khoản nợ nước ngoài không ngừng phình ra. Đầu tháng 8/2011, hãng đánh giá tín dụng toàn cầu Fitch Ratings nói nợ bằng tiền đồng và ngoại tệ của Việt Nam có mức khả tín B+. Đây là mức ngang với Mông Cổ và Venezuela nhưng thua Philippines và Indonesia (10). Fitch còn cho rằng, nợ công Việt Nam vượt ngưỡng 50% GDP là cao hơn mức trung bình 37% đối với hạng B (11). Ngày 19/8/2011, hãng định mức tín nhiệm Standar & Poor’s hạ một bậc điểm tín nhiệm nợ công Việt Nam từ BB xuống BB-, mức thấp nhất so với các nước Đông Nam Á, chỉ ngang bằng với Bangladesh và Mông Cổ. Khi niềm tin mất, mọi thứ sẽ sụp đổ rất nhanh. Kiểu điều hành vĩ mô của chế độ đã khiến các nhà đầu tư hoang mang, họ không hiểu chính quyền Việt Nam muốn cái gì giữa duy trì tăng trưởng và ổn định vĩ mô.

Thời gian qua có quá nhiều bình luận xung quanh vấn đề nợ của Mỹ, khiến cho cả Tổng thống Mỹ cũng liên tục “phân bua” về việc này. Cuối cùng hãng S&P làm thêm cú knok out quá hớp, hạ điểm tín dụng Hoa Kỳ… Nhưng những nước như Trung Quốc và Việt Nam thì thở phào nhẹ nhõm, chắc chắn rằng sẽ không hề có những cuộc tranh cãi rất ư là “linh tinh” như trên. Việt Nam cứ bình tĩnh đi vay, những doanh nghiệp được nhà nước đỡ đầu càng thoải mái hơn – bởi trong hệ thống luật không hề có bất kỳ một quy định nào về mức nợ tối đa mà chính quyền có thể đi vay. Như Trung Quốc hiện đang nổi danh là quốc gia chủ nợ của Mỹ. Song mức nợ thực sự của Trung Quốc là bao nhiêu thì ngay cả chính quyền Trung Quốc cũng khó đưa ra được con số chính xác về lãnh vực này. Việt Nam cũng vậy, cách đối phó đơn giản nhất về tình trạng nợ công là cứ giấu biến đi các khoản nợ. Khi tỷ lệ nợ/GDP lên hơn 40% là đồng nghĩa chính sách tỷ giá bị thắt họng lại. Trong việc chi trả nợ công, đồng nội tệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Với lượng dự trữ ngoại tệ thấp (tương đương tối đa 2 tháng nhập khẩu), ngân hàng (NH) Nhà nước không đủ khả năng hỗ trợ cho đồng nội tệ. NH Nhà nước đã dùng các mệnh lệnh hành chính đẩy cái “nhiệm vụ bất khả thi” này xuống các NH thương mại cổ phần, mức lãi suất cho vay tương đương tỷ lệ lạm phát thể hiện động thái đẩy cây này. Các mệnh lệnh hành chính mới nhất dễ chừng tạo nên một trong các kịch bản nhiều ảo giác như sau: tình trạng lạm phát đã nguội nên lãi suất giảm trong tháng 9 rồi mọi chuyện quay trở lại như cũ – thậm chí lạm phát sẽ mạnh hơn – trong tháng 10/2011. Sự nhảy múa điên đảo của chính sách tiền tệ không thể che giấu được những khuất tất trong chính sách tài khóa.

Đến nay các dự báo về tương lai kinh tế thế giới tỏ ra không mấy lạc quan: trải dài từ cung bậc “có thể xảy ra đợt suy giảm không quá nghiêm trọng” đến “đã bước chân vào một vòng suy thoái mới”. Kinh tế cả 3 khối Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đều trì trệ, đồng nghĩa với việc xuất khẩu sẽ càng vất vả hơn. Còn về mặt định lượng: xác suất xảy ra khủng hoảng toàn cầu lần này là trên 50%. Quan điểm lạc quan nhất thì cho rằng cuộc hồi phục kinh tế thế giới sau khủng hoảng 2008 – 2009 có thể sẽ mang hình chữ W thay vì chữ V.

Kết luận

Trong bối cảnh dân chúng không tin đồng nội tệ, nhà đầu tư quốc tế nghi ngờ chính sách quốc gia thì công nợ nền kinh tế ấy đã rất cận kề bất ổn. Thực chất những vấn nạn như thâm hụt cán cân thương mại, hệ thống ngân hàng kém bền vững, lượng dự trữ ngoại tệ yếu… kể cả lạm phát cũng chỉ là những “rủi ro nhất thời” – đều có thể vượt qua – so với quốc nạn mất niềm tin. Bởi xét đến cùng, lạm phát chỉ là một biểu hiện của khủng hoảng kinh tế; còn tai họa mất niềm tin lại là biểu hiện của một khủng hoảng lớn hơn: khủng hoảng xã hội – cái không gian chứa đựng những vận hành của nền kinh tế ấy. Bơi ra biển lớn để bắt cá lớn là một khẩu hiệu tích cực, bởi chẳng ai có thể ép hoặc dụ khị mình phải bơi ra biển lớn; hoặc chẳng ai viết tiếp phần còn lại của khẩu hiệu khả dĩ “tích cực” kia: bơi ra biển lớn để bắt cá lớn, nhưng nếu chưa biết bơi thì sẽ… chết lớn!

Nếu xét mức nợ công bình quân đầu người trong vòng 8 năm (2001 -2009), sẽ thấy mức nợ này đã tăng gần 4 lần, tức trung bình hơn 18%/năm; trong khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của cùng thời kỳ chỉ là 6%/năm. Đứng về phương diện quốc gia đối với các khoản nợ nước ngoài, ngày nào đa số còn xem đó là nợ của anh Ba, chú Tư hoặc của người sao Hỏa… thì nhân dân Việt Nam sẽ còn trả nợ dài dài. Rồi mấy đời con cháu mình vẫn chưa trả hết nợ, một khi, chúng ta không giải quyết xong cục nợ đang ngồi chồm hỗm ở Ba Đình kia.

Bangkok, Ngày 2/9/2011

© Nguyễn Việt

© Đàn Chim Việt

———————————————-
Chú thích:

(1), (6) http://www.economist.com/content/global_debt_clock

(2), (4)

https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html

(3) Ông Nguyễn Thành Đô – Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính). Vị này cũng là Trưởng Ban Biên tập Bản tin Nợ nước ngoài.

http://vneconomy.vn/20110817112939199P0C5/ca-phe-cuoi-tuan-nong-chuyen-vay-nuoc-ngoai.htm

(5) Biểu số 4.04, Bản tin nợ nước ngoài số 7.

(7)http://vneconomy.vn/20110829050653953P0C6/rui-ro-no-cong-co-the-vuot-lam-phat-va-ty-gia.htm

(8)http://vneconomy.vn/20101211021246386p0c9920/no-cong-vay-va-tra.htm

(9) Theo Tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện Kinh tế Việt Nam.

http://www.sgtt.com.vn/Kinh-te/126489/Chi-so-ICOR-VIET-NAM-dan-dau.html

Con số này tương đương với một nguồn từ Ngân hàng Nhà nước: chỉ số ICOR năm 2010 là 6,2. http://sbv.gov.vn

(10)http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2011/08/110809_vietnam_rating.shtml

(11)http://vneconomy.vn/2011081111112859p0c6/fitch-khuyen-nghi-viet-nam-tiep-tuc-that-chat-tien-te.htm

———————————————–
Tham khảo:

- Dainamax Magazine

http://www.dainamax.org/

- Economist Intelligence Unit. Các báo cáo: Country Forecast Vietnam Aug 2011 (16 p.), Country Risk Service Vietnam Aug 2011 (23 p.), Country Report Vietnam Aug 2011 (24 p.).

- ACB, Asian Development Outlook 2011: South-South Economic.

- Bản tin nợ nước ngoài số 7, Bộ Tài chính, tháng 7/2011, 36 trang.

1 Phản hồi cho “Nợ công với Việt Nam”

  1. Võ Hưng Thanh says:

    VỀ Ý NGHĨA CỦA NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

    Theo ghi nhận của bài viết nói trên, nợ công / GDP của VN hiện tại, đang vượt quá con số 57%, và Việt Nam hiện đang đứng hạng thứ 41/133 của các quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây quả đúng là con số quá chóng mặt, bởi vì khi cả nước làm ra được một đồng, thì hết nửa số đó nhất thiết phải dùng để trả nợ. Đó là kết quả của một thời gian rất dài, người ta chỉ có lo nói đến tính ưu việt, đến những thành quả lao động xuất sắc, đến những thành tựu vượt chỉ tiêu, đến các gương tiên tiến điển hình, và đến các tài nguyên kiểu rừng vàng bạc biển.
    Nhưng con số kinh hoàng nhất, chính là tỷ lệ thất thoát của các công trình đầu tư nhà nước, được thừa nhận chính thức (lẫn không chính thức), là từ 15% đến 45%. So với số nợ nước ngoài công bố năm 2009 là 29 tỷ USD. Có nghĩa, phần thất thoát chắc chắn phải là từ 4 tỷ USD, đến khoảng 10 tỷ USD. Hay nếu căn cứ vào chỉ số Chỉ số ICOR trong so sánh giữa các nước, thì năm 2010 chỉ số đó của VN là 6,9. Tức nói đơn giản, thì VN cần phải bỏ ra tới 6,9 đồng vốn đầu tư, mới có được 1 đồng tăng trưởng. Trong khi đó, ở Trung Quốc tỷ lệ này là 4,1, ở Nhật là 3,2, ở Hàn Quốc là 3,2, ở Đài Loan là 2,7. Có nghĩa, VN cái gì cũng nhất hơn thiên hạ theo chiều ngược lại cả. Nói khác đi, Nợ công nếu tính bình quân trên mỗi đầu người Việt Nam, thì cụ thể là 516,62 USD (2009), 574,28 USD (2010) và 633,95 USD (2011).
    Và tất cả những điều đó, đều cho thấy hiệu suất của sự đầu tư, sản xuất là quá thấp, song tỷ lệ thất thoát lại quá lớn, và hiệu quả chung của toàn nền kinh tế là quá tệ.
    Nhưng nguyên nhân cuối cùng của tất cả mọi điều đó là do đâu ?
    Đó là do từ nhà nước, hay chính phủ, và do từ nhân dân. Do nhà nước là ở sự quản lý, do nhân dân là ý thức phát triển đất nước yếu kém, tiêu cực, hay không có. Điều này hoàn toàn trái lại ở nhiều nước khác mà mọi người đều biết.
    Sự quản lý yếu kém, để đưa đến các hậu quả như trên, tất nhiên phải do nhà nước, do chính phủ, tất đúng rồi. Sự không phát huy được hiệu quả là do nhân dân, hẳn nhiên cũng phải đúng rồi. Nhưng tại sao nhân dân lại không phát huy được hiệu quả ? Đó thực chất cũng chỉ là do sự quản lý của nhà nước. Bởi trong xã hội này, thì nhà nước chính là cái nền chung nhất. Nên nếu quản lý tốt, không thể nào lại đổ lỗi cho nhân dân được. Nhưng ý nghĩa của vấn để là tại sao lại quản lý không tốt ? Đó là do chính sách quản lý chưa hay kém hiệu quả, chưa khoa học hay không khoa học, do sự nhận thức cũng như kỹ thuật về quản lý còn tồi hay không đúng nguyên lý như thế nào đó. Lỗi này tất nhiên là lỗi chủ quan. Những điều này tất nhiên mọi chuyên gia liên quan đều vẫn biết. Nhưng việc họ có được quyền nói ra hay không, có năng lực nhận thức, và nói ra hay không, lại là chuyện khác. Có nghĩa, toàn thể xã hội chỉ có trước sau nuôi dưỡng vấn đề, không nhìn ra vấn đề, hay bất lực trước vấn đề. Bởi vì nhà nước là ai, quả là không ai khác hơn, hay không gì khác hơn, là mọi cán bộ cầm cán và thừa hành, mà họ vốn đang tạo thành nhà nước, tức tạo thành chính quyền, hay tạo thành chính phủ. Hay nói chung lại, nguyên do đó vẫn chỉ chính là ý nghĩa của vấn đề con người. Sự quản lý và điều hành về con người làm việc, thật sự quả nhiên chưa hiệu quả, chưa tốt, vì sự đào tạo con người đã không có kết quả. Đây cũng nói được là vừa lỗi về ý thức nhận thức, vừa lỗi về trách nhiệm, phận sự, lẫn cả vừa lỗi về phương pháp và kỹ thuật thực hiện, đối với tất cả mọi điều như trên đã nói. Lỗi mà không thấy lỗi, cũng không thể nói, hay không có quyền nói lên về mọi điều gì được hiểu là lỗi, hay thật sự có mang ý nghĩa là lỗi, đó mới chính yếu là điều rất thực tế khó phủ nhận, và cũng rất nên đáng nói đến nhất.

    NGÀN KHƠI
    (08/9/11)

Leave a Reply to Võ Hưng Thanh