Kennedy quyết định rút khỏi Miền Nam
Trước ngày đảo chính
Năm 1961 chiến tranh bắt đầu lan rộng tại miền nam VN, Việt Cộng gia tăng lực lượng từ đầu năm 5,500 người tới 25,000 cuối năm 1961. Tổng thống Kennedy cho tăng quân số VNCH từ 170,000 lên 200,000 người, số cố vấn phụ trách huấn luyện gia tăng tới 3,200 người. Năm 1962 chính phủ Mỹ vội viện trợ cho quân đội VNCH ba đại đội trực thăng H-21, 16 phi cơ vận tải C-123, hai chi đoàn thiết giáp M-113 (1)…
Việt Cộng bị bao vây tiêu diệt dần dần, quân đội VNCH nhờ chiến thuật, vũ khí mới đã đạt thắng lợi năm 1962, quân phiến loạn bị mất tinh thần.
Năm sau1963, chính phủ Ngô Đình Diệm bị sa lầy vì vụ Phật giáo khởi đầu từ giữa cho tới cuối năm 1963 thì hoàn toàn sụp đổ.
Từ giữa 1962 chính phủ Kennedy có mục đích rõ ràng chỉ gửi cố vấn sang huấn luyện quân đội VNCH để tự bảo vệ đất nước họ (2), nghĩa là không gửi quân tác chiến. Bộ trưởng quốc phòng McNamara cho biết ông đã đặt giới hạn cho thời gian huấn luyện, nếu thành công thì phải rút. Ngày 23-7-1962 ông hỏi tướng Paul Harkins (3) tại Honolulu bao lâu ta có thể loại trừ hết VC, ông tướng nói có lẽ một năm. McNamara nghĩ có lẽ ba năm sẽ trấn áp địch, cuối tháng 3-1963 ông hỏi ý kiến Sir Robert Thompson (chiến lược gia chống du kích) về việc này, ông ta nói nếu bình định tiến bộ, có thể rút bớt 1,000 người, lúc này tổng cộng có 16,000 cố vấn tại miền nam VN.
Lần họp sau tại Honolulu với tướng Harkins ngày 6-5-1963, McNamara hỏi ông tướng và được biết cuộc chiến diệt du kích tiến triển tốt đẹp, ông bèn chuẩn bị cho rút 1,000 cố vấn cuối năm 1963. Trong khoảng thời gian này khủng hoảng tôn giáo chính trị bùng nổ, tới tháng 8-1963 tình hình căng thẳng hơn. Ban tham mưu không đồng ý kế hoạch rút quân khi được McNamara hỏi tới, họ nói khoan rút cho tới cuối tháng 10 vì tình hình chính trị VNCH xáo trộn, khủng hoảng lắng dịu hãy cho rút.
Theo McNamara ngày 21-8-1963, khoảng 2 giờ sáng, được sự đồng ý của Diệm, Nhu cho lệnh tấn công các chùa chiền (with Diem’s approval, Nhu ordered an elite military unit to raid the Buddhist pagoda..) (4), bắt giam mấy trăm sư tăng. Bắt đầu từ mùa hè McNamara được tin ông Diệm giao cho Nhu tiếp xúc bí mật với Hà nội, nhân cơ hội này De Gaulle kêu gọi VN thống nhất, trung lập. McNamara cho rằng ông Diệm định tháu cáy Mỹ vì họ đang ép ông bớt đàn áp những người chống đối. Tuần này những viên chức then chốt nắm quyết định về VN – Tổng thống Kennedy, Dean Rusk, McGeorge Bundy, John McCone, McNamara – đều không ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn (5)
Ngày 24-8 những bản tường trình về sự bạo hành từ VN tràn tới Washington . Các viên chức xử lý thường vụ tại trung ương cho đây là cơ hội để lật đổ chế độ Diệm. Người Mỹ chuẩn bị làm đảo chính, McNamara cho đây là một trong những quyết định nguy kịch nhất về VN dưới chính phủ Kennedy và Johnson. Người khởi xướng là Roger Hilsman, ông ta thay thế Averell Harriman trong chức vụ Phụ tá bộ trưởng ngoại giao đặc trách Viễn đông sự vụ, Hilsman và các cộng sự viên cho rằng nếu còn Diệm ta không thể thắng (CS), vậy phải loại bỏ ông ta (we could not win with Diem and, therefore, Diem should be removed)
Roger Hilsman bắt đầu soạn một công điện để gửi cho Henry Cabot Lodge, Đại sứ mới nhậm chức tại Sài gòn, khởi đầu bằng sự kết án Nhu xin sơ lược như sau (6)
Nhu lợi dụng thiết quân luật để tấn công các chùa chiền (to smash pagodas), rõ ràng Nhu trở thành người cầm đầu
Chính phủ Mỹ không thể tha thứ cho tình trạng quyền hành rơi vào tay Nhu, phải giúp Diệm loại bỏ Nhu và đồng bọn.
Nếu ông (tức Cabot Lodge) đã cố gắng hết mình mà Diệm vẫn ngoan cố (Diem remains obdurate) và từ chối thì có thể loại bỏ ông. Ta cũng cho các Tướng lãnh (Sài gòn) biết Mỹ sẽ cắt viện trợ trừ khi thả các sư tăng bị bắt và loại bỏ vợ chồng Nhu. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ hội thuận tiện để loại bỏ Nhu nhưng nếu ông ta còn ngoan cố, bó buộc ta không thể ủng hộ Diệm. Ông có thể nói cho các Tướng lãnh (VN) rằng chúng ta sẽ trực tiếp giúp họ giai đoạn sau đảo chính. Thêm vào đó Đại sứ và các cộng sự của ông có thể tạm thời nghiên cứu chi tiết kế hoạch thay Diệm nếu cần.
Hilsman soạn xong trình Averell Harriman, Thứ trưởng ngoại giao (mới lên) chấp thuận. Công điện sau đó được gửi Kennedy (đang nghỉ mát), ông ta nói có thể đồng ý nếu các cố vấn của ông đã thuận. Dean Rusk (Bộ trưởng ngoại giao), được hỏi ý kiến và được biết Tổng thống đã đồng ý, Dean cũng thuận nhưng không nhiệt tình lắm.
McNamara chán nản vì chính phủ tại Sài Gòn gia tăng đàn áp nhưng không biết sẽ thay bằng chính phủ như thế nào, có lẽ tốt nhất là thuyết phục ông Diệm thay đổi lập trường, dọa cắt viện trợ có thể khiến ông từ bỏ đàn áp. Công điện đã được gửi đi Sài Gòn.
Kennedy sau đó lấy làm tiếc đã gửi công điện, coi đó là sai lầm, ông tưởng đã được McNamara, tướng Taylor .. .soạn và đồng ý nhưng thực ra chỉ là do Harriman, Hilsman, Mike Forrestal … những người này ủng hộ đảo chính mạnh. Ngày 29-9-1963 tướng Maxwell Taylor và McNamara tới dinh Gia Long họp 3 giờ với ông Diệm, sau có đãi tiệc, Lodge và tướng Harkins cũng tháp tùng. Ông Diệm nói hai tiếng rưỡi về chính sách và diễn tiến cuộc chiến. McNamara nói Mỹ muốn giúp VN thắng CS, chúng tôi lo âu về tình hình chính trị tại VN, tôi đề nghị ông chấm dứt đàn áp vì sự xáo trộn sẽ ảnh hưởng xấu nỗ lực của Mỹ.
Ông Diệm bác bỏ cho rằng báo chí xuyên tạc về chính phủ và gia đình ông khiến người Mỹ hiểu lầm về VN. McNamara nói mặc dù có một số bài báo sai nhưng không thể phủ nhận sự khủng hoảng niềm tin vào chính phủ Diệm tại VN cũng như tại Mỹ. Ông Diệm không đồng ý và trách những sinh viên non trẻ vô trách nhiệm bị bắt mới rồi, ông chua chát bảo tôi có trách nhiệm về vụ Phật giáo ấy là vì tôi quá tử tế với họ.
Taylor và McNamara về Hoa Thịnh Đốn tường trình Tổng thống với sự giúp đỡ của Phụ tá bộ trưởng quốc phòng về vấn đề an ninh quốc tế, bản văn gồm một số điểm chính.(8)
-Về quân sự có nhiều tiến bộ
-Sài Gòn căng thẳng về chính trị, chính phủ Diệm Nhu ngày càng mất lòng dân.
-Những hành động đàn áp trong tương lai của Diệm Nhu có thể thay đổi tình hình quân sự tốt đẹp hiện nay, một đường lối cai trị ôn hòa có thể làm dịu khủng hoảng chính trị.
-Không phải áp lực Mỹ sẽ làm Diệm Nhu ôn hòa, thật ra có thể khiến họ ương bướng.
-Viễn tượng thay đổi chính phủ có thể cải thiện 50 – 50
Khuyến cáo (một số điểm chính)
Hai người khuyên:
-Một chương trình thiết lập, huấn luyện người VN có thể thay thế vai trò quân nhân Mỹ cuối 1965, có thể rút hết người Mỹ vào lúc này.
-Song song với chương trình huấn luyện người Việt nắm vai trò quân sự, Bộ quốc phòng sẽ thông báo một ngày rất gần chuẩn bị rút 1,000 quân nhân Mỹ cuối năm 1963
-Ngưng viện trợ tài chính.
-Giữ những liên hệ đúng với viên chức cao cấp VNCH
-Quan sát tình hình coi xem Diệm có bớt đàn áp và tăng hiệu quả quân sự không?
-Ta không khuyến khích việc thay đổi chính phủ (VN)
Hai người nhấn mạnh không tin tưởng hành động tổ chức đảo chính vào lúc này
Về Mỹ ngày 2-10-1963, Taylor và McNamara thuyết trình cho Kennedy nghe tại tòa Bạch ốc, chủ đề thảo luận chính là khuyên rút 1,000 cố vấn Mỹ.
“Thưa tổng thống, tôi nghĩ chúng ta phải tìm cách rút ra khỏi địa bàn, và phải cho dân chúng biết thế”
Chiều hôm ấy Kennedy triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia để thảo luận về bản tường trình, ông nói chúng ta cần tìm cách thuyết phục ông Diệm thay đổi không khí chính trị tại Sài Gòn, ông nhấn mạnh chính phủ ta sau cùng nhất trí về VN, nay chúng ta có một chính sách và bản tường trình được mọi người cùng duyệt.
Mọi người đồng ý đó là cuộc chiến tại miền nam VN, chúng ta chỉ gửi cố vấn và giúp họ chiến đấu, nếu họ không tự vệ được thì sẽ không thắng được cuộc chiến. Thảo luận sôi nổi về lời khuyên của Bộ quốc phòng thông báo kế hoạch rút quân cuối 1965 bắt đầu bằng 1,000 người cuối 1963.
Cuộc thảo luận cho thấy không đồng nhất, một số cho quân sự tiến triển tốt, huấn luyện tốt ta có thể rút; một số cho không thấy chiến tranh tiến triển thuận lợi và không thấy quân đội VNCH được huấn luyện tốt nhưng cũng đồng ý cho rút vì người miền nam VN huấn luyện được và ta đã làm việc ở đó khá lâu, có kết quả; nhóm ba thể hiện ý kiến của đa số nói người VN huấn luyện được và tin cuộc huấn luyện chưa đủ, cần tiếp tục thêm.
Kennedy chấp nhận cho rút 1,000 người cuối tháng 12-1963, ông không lý luận. Vì chương trình bị nhiều người chống đối và sợ họ có thể cố gắng thuyết phục Kennedy đổi ý nên McNamara thúc Tổng thống thông báo chính thức. Kennedy đồng ý nhưng không kèm theo câu vào cuối năm vì sợ nếu thông báo mà không làm được trong ba tháng sẽ bị chỉ trích.
McNamara nói cái lợi của kế hoạch là chúng tôi cho Quốc hội, người dân biết ta có kế hoạch giảm quân số Mỹ tại nam VN mà người VN sẽ bình định đất nước họ, nó sẽ là thành quả tốt đẹp trước những nhận định cho rằng Mỹ sẽ sa lầy hàng chục năm.
Kennedy đồng ý, sau phiên họp, tòa Bạch ốc đã chính thức thông báo: Bộ trưởng quốc phòng McNamara và Tướng Maxwell Taylor tường trình cuối năm nay chương trình của Mỹ huấn luyện cho người VN tiến triển tốt đẹp và 1,000 quân nhân Mỹ công tác tại đây sẽ được hồi hương.
Sáng 5-10-1963 thảo luận về tường trình. Tổng thống Mỹ chấp nhận đoạn nói về kế hoạch đảo chính. Bản tường trình viết “lúc này ta không nên cổ võ thay đổi chính phủ (bênVN). Một chính sách khẩn để tìm và tiếp xúc một lãnh đạo khác nếu có thể, Tổng thống chỉ thị gửi tới Sài Gòn qua đường CIA.
Quyết dịnh của Kennedy: Mỹ chủ trương không thay đổi chính phủ (VN). Ngày 25-10, trong môt điện khẩn gửi Mc George Bundy, Đại sứ Cabot Lodge (từ VN) cho biết âm mưu các tướng VN đã tiến hành mạnh, chúng ta không thể ngăn cản đảo chính, ông lý luận: ta có thể tin chính phủ sau sẽ không thối nát như chính phủ hiện tại. Thay lời tổng thống, Mac phúc đáp Lodge: ta hãy duyệt kế hoạch các tướng và làm cho họ nản chí vì khó thành công.
Bốn hôm sau trong một phiên họp với Kennedy, McNamara nói về trong số các viên chức Mỹ ở Sài Gòn âm mưu làm đảo chính và thấy tướng Harkins có thể không biết tòa Đại sứ và CIA làm gì. Theo ông này ủng hộ đảo chính nghĩa là đặt tương lai miền nam VN vào tay những người chưa rõ ra sao. Taylor đồng ý cho rằng nếu thành công nó sẽ ảnh hưởng tới nỗ lực chiến tranh của Mỹ.
Lúc 6 giờ chiều họp tiếp, Kennedy không tin vào nhiệt tâm của Lodge về cuộc đảo chính cũng như các tướng VN. Họp xong Bundy gửi điện cho Lodge tại VN và bảo ông này đưa bức điện nói về âm mưu của các Tướng (VN) cho Tướng Harkins coi và hỏi ý kiến ông ta.
Tướng Harkins phàn nàn Đại sứ Lodge dấu không cho ông biết tin tức về đảo chính, Harkins chống đảo chính, không tin các tướng lãnh VN. Ông nói chúng ta không thay ngựa nhanh như vậy mà phải thuyết phục cho ngựa đổi hướng và thay đổi cách hành động.
Lodge sợ chính phủ Mỹ phản đối cuộc đảo chính bèn đánh điện trả lời bầy tỏ chán nản: “Chúng ta không có khả năng trì hoãn đảo chính”. McNamara và Bundy thắc mắc các tướng VN có tiếp tục đảo chính không nếu họ biết Mỹ chống lại đảo chính. Bundy đánh điện Lodge “Chúng tôi không chấp nhận lý do ‘ta không thể trì hoãn đảo chính’. Chúng tôi tin ông phải hành động và thuyết phục các tướng ngưng hay hoãn mọi kế hoạch chưa chắc đã thành công (tức kế hoạch đảo chính)”
Lodge định về Hoa thịnh Đốn ngày 1-11-1963 để tham khảo ý kiến. Trước khi lên máy bay ông theo Đô đốc Felt vào viếng xã giao ông Diệm. Trước đó ông Diệm đã gửi thiệp cho Lodge bảo ông này ở lại chừng mười năm phút sau khi Đô đốc Felt đã đi, Lodge đồng ý. Sau đó ông đánh điện về Hoa Thịnh Đốn
“Khi tôi đứng dậy định đi, ông ta (Diệm) nói: Ông làm ơn nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi là một đồng minh tốt và ngay thẳng, chẳng thà thẳng thắn giải quyết vấn đề bây giờ hơn là nói về nó sau khi chúng tôi mất hết. Nói cho Tổng thống Kennedy biết tôi coi những đề nghị này nghiêm chỉnh và muốn thi hành nó nhưng chỉ có vấn đề thời gian thôi”
Lodge nhận xét
“Tôi nghĩ đây là một bước tiến khác qua cuộc nói chuyện mà Diệm đã bắt đầu tại lần gặp nhau ở Đà lạt hôm chủ nhật (27-10) (lời Lodge)
“Nêu Hoa kỳ muốn thương thuyết nhiều vấn đề. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm được.. thật vậy ông ta nói : Cứ nói cho tôi biết các ông muốn gì, chúng tôi sẽ làm” (lời ông Diệm)
Tôi hy vọng chúng ta sẽ bàn tới nó ở Washington ” (lời Lodge) (9)
Bức điện về Bộ ngoại giao lúc 9 giờ :18 phút sáng (giờ Washington) ngày 1-11-1963, tới 9 giờ 37 phút sáng tới Tòa Bạch Ốc, tại đó McNamara và các cố vấn họp với Tổng thống bàn về các biến cố ở Sài Gòn. Lúc đó thì đã quá trễ; cuộc đảo chính đã bắt đầu.
Trưa hôm ấy tin anh em ông Diệm bị giết khiến Kennedy xúc động mạnh.
Nhận định cuối cùng về VN trước công luận của Kennedy trong một cuộc họp báo ngày 14-11 ông nói “Chúng ta có từ bỏ VN không? Một chương trình quan trọng nhất, dĩ nhiên là an ninh của đất nước ta nhưng chúng ta không muốn Hoa Kỳ đóng quân ở đó”
Trước đó trong một cuộc họp báo khác ông cho biết mục tiêu của chúng ta là đưa người Mỹ về nước, để người miền nam VN giữ quyền tự trị, độc lập của họ, theo ông miền nam VN phải tự bảo vệ đất nước họ, Hoa Kỳ không thể chiến đấu cho họ
(The South Vietnamese must carry the war themselves, The United States could not do it for them)
Ngày 22-11-1963, Tổng thống Kennedy bị ám sát tại Dallas
Sang thời Johnson
Phó tổng thống L.B Johnson lên thay thế Kennedy, tình hình chính trị miền nam ngày càng phức tạp và xáo trộn. Đúng ba tháng sau cuộc đảo chính 1-11-1963, tướng Nguyễn Khánh lại đảo chính Dương Văn Minh ngày 30-1-1964 (10), cuối tháng 10-1964, ông Trần Văn Hương được mời làm Thủ tướng, nhưng chính phủ của ông chỉ tồn tại được đúng ba tháng. Năm 1964 là một năm đầy hỗn loạn, đảo chính, tranh quyền, biểu tình, tuyệt thực…Trong khi CS ngày càng gia tăng xâm nhập (11), Nga và Trung Cộng gia tăng viện trợ quân sự (12), chương trình rút quân của Kennedy đã không thực hiện được mà Tổng thống mới còn phải gửi thêm cố vấn lên 23,300 người tính tới cuối năm 1964 (13).
Ngày 1-12-1964, Tổng thống Johnson họp với các cố vấn tại tòa Bạch ốc, tướng Maxwell Talor, Đại sứ ở Sài gòn về, phó tổng thống Humphrey.. VNCH bất ổn, mất VN sẽ phá hỏng chính sách be bờ ngăn chận CS tại Đông nam Á.
Đại sứ Taylor trở lại Sài Gòn mang thông điệp của Johnson cho các Tướng lãnh VN, Mỹ tiếp tục viện trợ, các tướng phải thôi chống đối nhau và chống chính phủ, sự thực họ vẫn chống chính phủ dân sự, McNamara nghĩ họ muốn nắm quyền. Trong một buổi họp với các tướng VN ngày 20-12-1964, hôm mà các tướng này giải tán Thượng Hội Đồng QG, Taylor có những lời lẽ nặng nề khiến các tướng VN gửi văn thư cho Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Trần văn Hương yêu cầu trục xuất đại sứ Taylor về Mỹ (14). Người Mỹ dọa cắt viện trợ, nhờ sự dàn xếp khéo léo của Thủ tướng Trần Văn Hương vụ khủng hoảng đã được dàn xếp ổn thỏa.
Ông Đại sứ tức giận gửi điện về Mỹ nhân dịp lượng giá cuối năm, ngoài các vấn đề khác, có nói “Nếu tình hình ngày càng tệ, chúng ta có thể tìm cách rút ra khỏi mối liên hệ này với chính phủ VNCH, rút hết cố vấn .. Nhờ vậy ta mới có thể dứt bỏ một đồng minh không đáng tin cậy và để cho họ tự lo lấy thân, có sụp đổ thì ráng chịu”
McNamara cho biết các viên chức tòa Bạch Ốc ít ai chịu chú ý tới điểm này vì sợ nó phá hỏng chính sách đắp đê ngăn chận CS của Mỹ. Taylor ám chỉ ta theo một chương trình sao cho miền nam VN yêu cầu chúng ta rút hoặc một tình trạng hỗn loạn khiến ta phải rút hết cố vấn, như vậy sẽ khiến Hoa Kỳ tiết kiệm được xương máu. Rõ ràng rút bỏ là con đường ta phải chọn lựa, nhưng ta đã không làm thế (15)
Gần cuối cuốn hồi ký In Retrospect của McNamara (trang 320) ông cũng nói Hoa Kỳ có ba cơ hội để rút bỏ VN: Từ cuối 1963 khi tình hình xáo trộn sau đảo chính hoặc cuối 1964, hay đầu 1965 khi miền nam VN xáo trộn về chính trị và yếu kém quân sự.
McNamara sau này cho rằng cuộc chiến VN là sai lầm, đáng lý phải rút khỏi VN từ giữa thập niên 60 để khỏi thiệt hại nhân mạng cho người Mỹ.
Sau khi lên thay Kennedy, Tổng thống Johnson không thể rút quân vì tình hình chính trị và quân sự ờ miền nam không ổn định. Johnson bắt đầu cho oanh tạc BV từ 2-3-1965 mục đích buộc Hà nội phải đàm phán ngưng bắn nhưng ngược lại họ tăng cường xâm nhập và tấn công quân đội VNCH. Tháng 3-1965 theo yêu cầu của Tướng Westmoreland và Đô đốc Sharp, Johnson cho hai tiểu đoàn TQLC tới VN để canh giữ phi trường, dần dần tình hình quân sự ngày một xấu, tướng Westmoreland khẩn khỏan xin Tổng thống cho tăng thêm lực lượng.
Johnson rất lưỡng lự trước quyết định gửi quân sang VN khi ấy Quốc hội người dân ủng hộ cuộc chiến ngăn chận CS tại Đông nam Á, họ muốn ông không để mất miền nam, đồng thời tướng Tư lệnh yêu cầu khẩn thiết cho tăng quân. Việc gửi quân cho dù cần thiết nhưng nó sẽ phá hỏng chương trình phúc lợi xã hội (Great Society) của Johnson gồm nhân quyền, medicaire, medicaid, trợ giúp giáo dục, chống nghèo….Nó có thể hủy hoại sự nghiệp chính trị của ông. Nhưng cuối cùng Johnson đã đồng ý cho tăng quân vì nếu mất miền nam, ông sẽ phải chịu trách nhiệm về sự hủy hoại chính sách đắp đê be bờ của Mỹ. Trung bình một tháng năm 1965 tăng quân vào VN trên 10,000, tới cuối năm đã lên tới 184,000, cho tới 1968 đã lên tới 530,000 người. Chiến tranh ngày càng mở rộng, Mỹ tăng quân thì BV gia tăng xâm nhập y như truyện Sơn tinh Thủy tinh, nước càng lên cao thì núi cũng lên cao.
Giữa năm 1965 nếu Mỹ không đem quân vào miền nam VN thì sẽ bị mất trong vòng 6 tháng (16), trung bình một tuần ta mất một quận và môt tiểu đoàn. Những năm 1966, 1967 tại miền nam có vài bài báo nêu vấn đề chủ quyền, chỉ trích chỉnh phủ làm ngơ cho người Mỹ đem quân vào nước ta. Nay vẫn còn nhiều người chê các tướng lãnh, chính phủ VNCH hồi giữa thập niên 60 đã không giữ được chủ quyền, để cho Hoa kỳ ngang nhiên đem quân xâm nhập. Người mình hay ngủ mơ trên mây xanh, sắp chết tới nơi mà vẫn nói chuyện chủ quyền.
Kết luận
Kennedy quyết định rút quân bắt đầu từ cuối 1963 vì cho rằng cuộc bình định miền nam đã tiến triển tốt, VC đã bị đánh bại, đẩy lui. Kennedy và McNamara thiếu tin tình báo cũng như không hiểu biết gì nhiều về CSVN. Thực tế đã chứng tỏ cuộc chiến kéo dài tới mười năm chứ không phải sẽ chấm dứt cuối 1965 như Kennedy và McNamara mơ tưởng.
Cho tới 1969 Nixon mới bắt đầu cho rút 60,900 quân, năm sau 1970 rút 140,600 người, năm 1971 rút 177,800 người, năm 1972 rút 132,600 người chỉ còn để lại hơn 20,000. Nhiều người Việt quốc gia lên án Nixon, Kissinger rút quân, bắt ép VNCH ký hiệp định Paris bất bình đẳng khiến miền nam sụp đổ năm 1975.
Người Mỹ lại nói khác, tác giả Walter Isaacson (17) chỉ trích Nixon đã không ký Hiệp định Paris từ 1969, rút bỏ miền nam sớm hơn thay vì bốn năm nữa mới ký (1973). Cuộc chiến kéo dài thêm bốn năm làm chết thêm 20,000 người Mỹ. Nhận định này không phải riêng của Walter Isaacson mà phong trào phản chiến, đảng đối lập, Quốc hội thù nghịch, truyền thông báo chí cũng nghĩ như thế. Người ta oán trách Nixon đã không chịu bỏ rơi chế độ Thiệu sớm hơn 4 năm và ký Hiệp định Paris từ năm 1969, để tiết kiệm xương máu cho người Mỹ. Họ cho rằng Hoa Kỳ không đáng phải hy sinh thêm 20 ngàn lính Mỹ để bảo vệ cho miền nam VN sống thêm 4 năm nữa.
Cuối năm 1963, Kennedy, McNamara muốn rút khỏi VN nhưng dù muốn cũng không làm được vì Quốc hội và người dân không muốn thế, qua thăm dò đại đa số tin vào thuyết Domino, mất miền nam Đông nam Á sẽ rơi vào tay CS. McNamara tiếc rẻ mãi, ông nói Hoa kỳ đáng lý phải rút bỏ VN từ 1963, 1964, 1965 vì đó là cuộc chiến sai lầm. Đây chỉ là một nhận định không tưởng vì tình hình lúc này không cho phép, người dân và Quốc hội sẽ chống đối không để Johnson McNamara làm như vậy. Nhận định này chỉ lả để bào chữa cho sự bất tài vô dụng của chính McNamara, người đã được Quốc hội và nhân dân ủng hộ hết mình, đã nắm trong tay hơn nửa triệu quân mà chẳng làm nên trò trống gì.
Những năm đầu thập niên 70, Nixon dù có muốn giữ miền Nam VN, dù muốn ở lại miền Nam cũng không được, gió đã đổi chiều: người dân, Quốc hội Mỹ đã quá chán chiến tranh Đông dương, họ chỉ muốn nó chấm dứt sớm ngày nào hay ngày nấy. Những người kết án Nixon, Kissinger phản bội đồng minh cũng nên để ý, người ta đã có kế hoạch, dự tính rút bỏ VN từ những năm 1963, 1964, 1965 và cà 1969 chứ không phải đợi tới năm 1973, 1975.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
————————————————–
Chú thích
(1) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 20, 21.
(2) Robert S. McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam (in 1995) trang 48
(3) Tư lệnh Bộ viện trợ quân sự Mỹ tại VN
(4) In Retrospect, trang 51
(5) Đi vacation, nghỉ mát, trang 52
(6) In Retrospect, trang 52.
(7) Đài VOA, BBC khoảng thời gian này nói Nhu cầm đầu chính phủ Sài Gòn, đại sứ Trấn văn Chương tại Mỹ từ chức để phẩn đối ông Diệm tuyên bố Ngô đình Nhu, con rể ông hiện cầm đầu chính phủ Sài Gòn
(8) In Retrospect trang 77
(9) In Retrospect, trang 82, 83
(10) Lâm Vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn, Chương ba (trang30), Chương bốn (trang 52), Chương năm (trang 65.)
(11) Nixon, No More Vietnams trang 50: trong năm 1964 chủ lực quân địch tăng từ 10,000 lên tới 30,000 người; phụ lực quân địch tăng từ 30,000 lên 80,000 người.
(12) BBC Vietnamese.com. Viện trợ quốc tế cho miền Bắc trong chiến tranh 10-5-2006. Giai đoạn 1955-60: 45 ngàn tấn viện trợ vũ khí, giai đoạn (1961-64) lên 70 ngàn tấn
(13) Chiến tranh VN toàn tập trang 886
(14) VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn (trang 97, 98), In Retrospect trang 164
(15) In Retrospect trang 164: It is clear that disengagement was the course we should have chosen. We did not
(16) Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Trận Chiến Trong Mùa Lễ Phục Sinh 1972, trang 16, 17
(17) Kissinger a Biography trang 484
Thưa quí đồng hương.
Nhân bài dịch công phu của Trọng Đạt, tôi tìm đọc được bài bình luận hay của Đinh Từ Thức trên Da Màu.
Từ đó tôi tự hỏi nếu quả đúng là Kennedy muốn XUỒNG THANG quân sự, lại cũng không chủ trương đảo chánh ông Diệm, vậy AI LÀ KẺ CHỦ MƯU
Vâng kẻ nào trong nội các Kennedy dám hỗn hào qua mặt kô bóp kèn signal tổng thống Kennedy, phó tổng thống Johnson ….
Tôi còn nghĩ, đám tướng lãnh VNCH không có chủ Mỹ đỡ đầu và bật đèn xanh cho hành động, thì bố bảo cả lũ cũng chả dám vong động
Xin được lắng nghe cao kiến từ bốn phương tám hướng để mở rộng tầm mắt.
Cám ơn trước thật nhiều
LMC
Lại Mạnh Cường says:
09/11/2013 at 03:54
Nguồn: 50 năm sau biến cố 1 tháng 11, 1963: xét lại nguyên nhân và hậu quả (phần 2).
Đinh Từ Thức. Damau.org, 1/11/2013.
“Da Màu chủ trương một diễn đàn văn chương không biên giới, một diễn đàn mở rộng cho mọi khuynh hướng sáng tác, mọi tác giả, mọi khai phá đúng nghĩa. Da Màu thúc đẩy sự cảm thông và chấp nhận những dị biệt bắt nguồn từ văn hóa, ngôn ngữ, phái tính, màu da, lịch sử, địa lý, chính kiến… qua các hình thái văn học nghệ thuật.”
đôi dòng về Đinh Từ Thức
Đinh Từ Thức là nhà báo và bình luận gia, đã cộng tác với talawas, Việt Báo và Thế Giới Ngày Nay. Trước 1975 làm việc cho tờ Hòa Bình và Chính Luận ở Sàigòn dưới bút hiệu Đốc Đá và Sức Mấy.
UncleFox says:
10/11/2013 at 15:13
Kính thưa các vị thức giả,
Kính thưa ông Nguyễn Tường Tâm,
Kính thưa quan Đóc -tưa,
Người Mỹ chắc hẳn biết rằng sau năm 1960 thì CSBV ồ ạt chuyển quân, chuyển vũ khí vào Nam để mở rộng chiến tranh thôn tính VNCH … thế nên vùng nông thôn miền Nam nhiều nơi bất ổn định hơn … Ấy là điều đương nhiên .
Trong nội bộ VNCH thì rối rắm với những nhân vật bất đồng chính kiến , lại thêm những người lãnh đạo Phật Giáo quá khích như Thích Trí Quang nhất quyết gây bạo loạn lật đổ chế độ để bắt tay với miền Bắc (như chính TTQ tự nhận) …
Tuy nhiên, tình hình đâu đến nỗi quá tệ khiến chính phủ của Kennedy muốn thay ngựa giữa dòng, nhất là khi các vị tướng Mỹ trực tiếp chỉ huy ở VN không đồng ý lật đổ Diệm – Nhu vì nhận xét chưa thấy ai có khả năng thay thế anh em họ Ngô .
Thế thì, theo cao kiến của quý vị, nếu không phải mục đích muốn đưa quân bộ chiến vào VN, Hoa Kỳ lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm vì lý do gì ?
=====
Thưa bác Uncle Fox,
Chính tôi cũng đang đặt câu hỏi, nếu quả đúng như tác giả Trọng Đạt và Đinh Từ Thức dẫn chứng, AI LÀ THỦ PHẠM LẬT ĐỔ ÔNG DIỆM, RỒI NHẪN TÂM NHỔ CỎ TẬN GỐC, nếu kô ai khác hơn ngoài bọn “Mọi da trắng” (chuyên gia ‘thò tay mặt đặt tay trái’) !???
Lại Mạnh Cường
Thế thì chúng ta lại phải chờ mấy con “bọ người’ huơ càng lục lọi, ủi vào đám giấy tờ gọi là ” top …secret” của nước mẹ để tìm ra sự thật!
Các cụ mình nói chả sai: “(QUÁ) tin vào sách vở chẳng thà đừng đọc sách”!
(Ấy là đã thủ sẵn chữ ‘quá”, chứ không người ta lại bảo: “cái đồ không đọc sách lại dám đi dạy đời!”) hehehe!
Hãy cố động não, sẽ tìm ra sự thật nằm ẩn đằng sau.
Cứ trông chờ người khác, chẵc gì chúng bật mí sự thật.
Như đã thưa, còn ai trồng khoai đất này ngoài bọn nó chớ !
Câu hỏi đặt ra, tại sao chúng nói một đàng, lại làm một nẻo ???
@Lại Mạnh Cường. Dear Sir, thú thật với ông, tôi có đọc nhiều bình luận của ông trên diễn đàn, đa số là ý chính, vì phần nhiều ông trích dẫn và cắt dán thêm “tài liệu nguồn” rất dài dòng. Khách quan mà nói, đó là một đống góp hữu ích cho cộng đồng, một…Nghĩa cử phụng sự đối với xã hội tha nhân! Nhưng đã là cộng đồng thì chuyện đương nhiên phải có kẻ vầy, người khác kể cả những người theo thuyết chủ quan, lạc quan hay bi quan v v, ông có đồng ý với quan niệm của tôi rằng: Phàm là nhân sinh, đã gọi là “con người” thì sự hiểu biết, thông thái nào cũng nằm trong giới hạn của đấng Tạo Vật mà chúng ta, người có chút vốn kiến thức thường tôn kính gọi là đấng Hóa Công, dù chúng ta có sống ngoài trăm tuổi hơn chăng nữa thì chúng ta vẫn ngu ngơ, khờ dại khi giải thích về một điều đơn giản và thái độ…Tại sao con người phải khóc khi mỡ mắt chào đời?! Thưa ông Cường, tôi vốn luôn tôn trọng sự khách quan, nhưng khuyết điểm lớn nhất của tôi là: Có sao nói vậy người ơi! Tóm lại tôi xin ở ông một điều thứ lỗi khi viết reply góp ý cùng ông xuyên qua câu ông viết trích: “Tôi còn nghĩ, đám tướng lãnh VNCH không có chủ Mỹ đở đầu và bật đèn xanh cho hành động, thì bố bảo cả lũ cũng chả dám vong động”…Thưa anh, xin anh lưu ý: Ở đây tôi không có thời giờ để tranh cãi về biến cố 1963, còn gọi là quang tài bộc thép (PH), mà tôi chỉ góp ý về sự chủ quan và cách dung chữ trong câu viết của anh! Tôi nghĩ với trình độ học vấn của anh thì dư sứt viết, các tướng lãnh VNCH hay tệ hơn là, nhóm tướng lãnh VNCH thay vì “đám tướng lãnh VNCH” và nhất là hai từ ngữ “chủ Mỹ”…Thì tội nghiệp cho hằng triệu đồng bào, quân-cán-chính đã hy sinh vì bảo vệ chế độ QG VNCH và bảo vệ cho anh, cho tôi được tự do ăn học thêm mười mấy năm, chỉ đổi được sự xòng phẳng và hóa đồng bằng danh từ “chủ Mỹ” thôi sao? Một đứa bé chăn trâu thời đó còn biết chuyện thảm sát TT NĐ Diệm và CV NĐ Nhu là do bàn tay lông lá của đồng minh, của Hoa Thịnh Đốn, của Ngũ Giác Đài hay đơn giản là C.I.A (Central Intelligence Agency) thay gì “Chủ Mỹ” thưa anh! Áo vải cờ đào
Thôi, được rồi các kụ ơi, các kụ cũng thuộc thành phần “nghe hơi nồi chõ” mà thôi!
Thực ra, thì bọn tướng giết chủ như Minh, Mậu, Đôn, Thi, Khiêm…Đã có thằng nào tự nhận mình ra tay sát hại (giết) chủ chưa??
Các kụ “ĐỌC nhiều, HIỂU nhiều, BỢ đít nhau cũng nhiều…luôn.
Nói nhăng nói cuội…rồi cuối cùng cũng đổ lên đầu thằng đệ tử gian ác là đại úy Nhung…thôi sao??
Khốn thay, bọn tướng hèn mạt giết chủ!!
Bác ui,
“Cay đắng” thêm chi chỉ mất thì giờ của nhau.
Mong Bác cùng nhau thử giải bài toán rắc rối trên nhé
Trân trọng
Trích: “Nếu Mỹ không đem quân vào miền Nam thì chế độ CS tại miền Bắc cũng vẫn vu là chế độ miền Nam là tay sai của Mỹ” (Minh Đức)
Đúng là có hay không có quân Mỹ trực tiếp chiến đấu tại chiến trường VN thì miền bắc dưới ách cai trị & chế độ cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh đàn áp trí thức, trấn lột dân nghèo, mãi quốc cầu vinh, bưng bít thông tin, người dân miền bắc vẫn bị bọn cộng sản Hồ chí Minh & VNDCCH nhồi sọ,
hàng triệu thanh niên người tử tế người Việt miền bắc vẫn mù lòa theo lời kêu gọi của bọn trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ chuyên nghề làm chứng gian & vẫn bị lừa gạt bởi bọn lão thành cộng sản chuyên nghề rước tàu vào VN, đùng đùng “sinh bắc tử nam”, cầm súng đạn tàu cộng xâm nhập vào VNCH, lùng sục giết hại các thanh niên người Việt miền nam, cũng tử tế không kém, phục vụ cho công cuộc xích hóa VNCH, phục vụ cho cuộc áp đặt chế độ cộng sản VNDCCH độc tài đê tiện phi nhân phản dân tộc vong bản ngoại lai tay sai giặc tàu lên VNCH nhằm phục vụ cho cuộc hán hóa VN
Nhưng rõ ràng có hay không có quân Mỹ trực chiến, sẽ tạo ra những ảnh hưởng khác nhau rất nhiều cho cuộc chién đấu của VNCH tự do chống lại cuộc xâm lăng của VNDCCH cộng sản vong ban ngoại lai tay sai giặc tàu.
Không có căn cứ quân sự Mỹ tại VNCH, không có quân Mỹ trực tiép chiến đấu trên các chiến trường ở VNCH, thì không khí, ý thức, tinh thần chiến đấu chống lại cộng sản VNDCCH xâm lăng sẽ rất rõ ràng, nghiêm chỉnh, tích cực, sẽ không có bọn “thành phần thứ 3″, sẽ không có bọn nam kỳ phản bội, bọn phản quốc, bọn trí thức giải phóng Tường & Phan & Mẫm & Thắng & Cự & Nguyên v… v…, quấy rối, đâm sau lưng chiến sĩ, sẽ không có bọn Võ Văn Kiệt gian ac, hoặc những hoạt động phá hoại & phản quốc của chúng, sẽ bị giảm thiểu rất nhiều, có thể đến mức zero, gần zero,
ngoài ra còn phải kể đến sụ ủng hộ của công luận quốc tế, hoạt động tuyên truyền xuyên tạc của quý các nhà “sinh viên thiên tả” goc Viet ở nước ngoài, của quý các nhà “trí thức thiên tả” người ngoai quoc, nguoi Phap gốc việt sẽ dễ dàng bị bẻ gẫy,
như vậy cuộc chiến đấu của VNCH tự do chống quân cộng sản bắc Việt tay sai cộng sản Nga tàu xâm lăng VNCH chắc chắn sẽ đạt đuọc chiến thắng, nghĩa là hoàn toàn thành công chặn đứng bọn cộng sản Hồ chí Minh tại vỹ tuyến 17,
và đến 1990, khi cuộc sụp đổ của Liên xô xảy ra, rất có thể VN sẽ đuọc thống nhất như nước Đức thống nhất.
Trận Mùa Hè Đỏ Lửu 1972, phần lớn lực lượng tấn công là từ miền Bắc vào. Lực lượng địa phương của CS đã bị tiêu diệt gần hết trong trận Mậu Thân, đám sinh viên và trí thức thân Cộng trong thành phố không đóng vai trò đáng kể trong việc giúp đỡ CS về mặt quân sự. VNCH đã chặn đứng được cuộc tấn công này. Nhưng sau đó CS tại miền Bắc tiếp tục gom quân tấn công tiếp vào năm 1975. Đó là chiến tranh giữa hai quốc gia. Khi một quốc gia không chịu ngưng thì chiến tranh cứ kéo dài mãi. Khi mà miền Bắc được tiếp tục viện trợ thì CS cứ tiếp tục tấn công. Năm 1968, CS bị thiệt hại nặng nên 1972, nhiều bộ đội từ miền Bắc vào chỉ có 16, 17 tuổi. Nếu CS hết lính thì đợi vài năm thế hệ khác lớn lên thì sẽ lại đem quân đánh miền Nam tiếp. Vũ khí thì Liên Xô cứ tiếp tục đưa đều đều. Phía VNCH thua là vì Mỹ ngưng cuộc chơi chứ việc lật đổ ông Diệm không đóng vai trò quyết định.
” …đám sinh viên, trí thức thân Cộng trong thành phố không đóng vai trò đáng kể trong việc giúp đỡ CS VỀ MẶT QUÂN SỰ”
Ông nghĩ là trong một cuộc chiến tranh chỉ những gì thuộc về mặt quân sự mới quyết định thắng bại à?
“Phiá VNCH thua là vì MỸ NGƯNG CUỘC CHƠI chứ việc lật đổ ông Diệm không đóng vai trò quyết định”
Hãy cứ gạt chuyện ông Diệm bị lật đổ ra một bên , và thay vào đó bằng một chính quyền của ông a, b, đảng c, d gì đó, rồi ông làm ơn đặt câu hỏi TẠI SAO MỸ NGƯNG CUỘC CHƠI để dẫn đến miền Nam bị bức tử?
Vì đem quân vào, số bị bắt làm tù binh, số bị chết có ngày hàng trăm, truyền thông khai thác, phản chiến đòi hỏi, người dân thúc dục, giải quyết cuộc chiến và đem con em họ về. Đúng không? Mà đối với người Mỹ, vũ khí, tiền bạc hay sinh mạng người Mỹ quan trọng? (So sánh giữa một người lính Mỹ với một người lính Việt trong chiến đấu thì sự tốn kém như thế nào. Mỹ gấp mấy Việt?). Tới một lúc nào đó sức ép từ dân chúng làm cho chính quyền phải nghỉ chơi. Như thế là do người Mỹ tự chuốc lấy vạ, đem thân vào hay do tốn hao tiền của, vũ khí đạn dược, xăng dầu viện trợ cho VNCH để họ giải quyết lấy chuyện cuả mình ?( Chưa kể lý do gì ông TT kế vị bất đắc dĩ phải đưa quân vào,, tình hình sáng sủa hay đen tối?)
Tại sao cứ phải bám lấy luận điệu phía CS đã quyết tâm, lại có được viện trợ dồi dào nên nhất định sẽ đánh đến người cuối cùng và chiến tranh sẽ không bao giờ dứt?
Cuộc chiến mới nhất. ngay trước cuộc chiến VN là chiến tranh Triều Tiên, nhân lực ê hề như TC mà vẫn phải ngưng chiến, ngồi vào bàn hội nghị. Người Mỹ khi “bắt tay” được với Tàu, thì nước nào mới là nguồn cung cấp viện trợ chính với vũ khí tối tân cho CSBV? Liên Xô đúng không? Như thế nói lên điều gì? Người Mỹ vẫn có thể “giải quyết ” chiến tranh bằng cách thay vì “đâm đẩu’ vào thì dùng đàm phán mà không ở thế bất lợi, bị đối phương bắt chẹt! Đúng không?
Tóm lại, nếu người Mỹ không thấm đòn, rồi vôi vàng tìm cách rút ra trong danh dự, mà chỉ để “hai nước” Việt “giết nhau tới người cuối cùng”(!) thì Mỹ có “ngưng cuộc chơi hay không” hay là lần hồi rồi cũng tìm ra một giải pháp thương thảo trên bàn hội nghị như đã xảy ra hồi 1954 tại Geneve?
Bác noileo và bác VyBui- ý kiến trong ngày 5/11 – nói đúng . Ngày nào trên màn ảnh truyền hình, người dân Mỹ cũng phải thấy hình ảnh những người lính Mỹ chết hoặc bị thương ở một cái xứ Việt nam nghèo nàn – mặc bộ đồ bà ba đen , đầu đội nón lá, chân thì đi dép hay chân không – ở xa lắc cách xa ngàn dặm , nghe những lời vu cáo lính Mỹ bắn giết, đốt nhà dân từ mồm miệng của những kẻ phản chiến như John Kerry, Jane Fonda…, tin tức những giới chức Sài gòn bỏ túi những đồng tiền của viện trợ Mỹ, buôn bạch phiến , những hình ảnh các cuộc biểu tình ở Việt nam đòi Mỹ Cút Đi thì dĩ nhiên chuyện gì phải đến sẽ phải xảy đến . Dưới áp lực của công luận ê chề với cuộc chiến , hành pháp và quốc hội Hoa kỳ đành phải rút quân về nước và cắt viện trợ cho Miền Nam . Và thế là ta mất nước . Tất cả phần lớn là do bọn Kennedy cứ nằng nặc muốn mang quân sang Việt nam . Nếu không có những cảnh máu đổ thịt rơi của chồng, cha , con em, thì rất có thể người dân Mỹ vẫn hài lòng tiếp tục trợ giúp Miền Nam chống Cộng .
Thưa tôi nghĩ, CS quyết chiếm miền Nam bằng mọi giá từ khi xảy ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ Nhất lận. Cho nên chúng đã tìm trăm phương ngàn kế thực hiện. Như ngay sau Hiệp định Genève 1954, chúng bí mật gài người lại; cho vội vã kết hôn một số bộ đội tập kết ra Bắc; rồi còn dở thủ đoạn “bắt trẻ đồng xanh” đem ra Bắc để “trồng người” nhưng năm sau đó v.v…
Sau khi tạm ổn định cai trị ở miền Bắc (Cải cách ruộng đất 1954; Nhân văn giai phẩm 1956; Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh 1958), chúng bèn khởi đầu thăm dò, để thực hiện cái mà sau này được gọi là “Đường mòn Hồ Chí Minh”, nhằm xâm nhập người và vũ khí vào Nam 1959.
Nối tiếp ngay đó là Đại hội Ba đảng CS 1960, hạ quyết tâm xâm lăng miền Nam bằng võ lực ….
Nói tóm lại, CS đã dự trù mọi chi tiết cho mưu đồ thống nhất đất nước vào tay chúng. Phương án tổng tuyển cử thất bại, được thay ngay bằng trò xâm lăng bằng võ lực.
Bọn Tàu cộng, Bắc Hàn cũng thế, chỉ chực chờ cơ hội, hay cố tạo ra cơ hội thuận lợi để ăn sống nuốt tươi đối phương.
Con bò nó nhai lại thì nó cũng chỉ nhai vài tiếng là cùng lắm rồi mà sao những chuyện xa xưa từ muốn kiếp trước không để cho nó trôi như nước chẩy qua cầu mà các vị phản hồi viên cứ nhai lại cái chuyện Diệm Nhu chán chết suốt nửa thế kỷ từ 1964 đến nay
Có nói đến tết cũng không bao giờ hết chuyện , các cụ lãnh tiền già, tiền oeo phe, phút tem… không còn việc gì làm cứ lên diễn đàn hối tiếc chuyện xưa
Xin các vị hãy làm ơn đậy nắp cãi hũ mắm tôm Diệm Nhu lại cho chúng tôi nhờ, suốt 50 năm ròng chúng tôi nghe điếc cả cái lỗ tai rồi
Biết rồi khổ lắm nói mãi, xin hãy để Đệ nhất Cộng Hòa lùi vào dĩ vãng một cách tự nhiên, xin các phản hồi viên làm ơn đậy nắp cái hũ mắm thối Diệm Nhu lại cho chúng tôi nhờ
Xin xì tốp
@Hooàng : ô kià, hũ mắm nó thối, nó thơm ra sao thì kệ người ta. Có ai bắt chú gục mũi vào ngửi hồi nào mà la toáng om sòm nhỉ?
“Như vậy, không thể nói Mỹ chủ trương đảo chánh lật ông Diệm để có thể mang quân tới Việt Nam, vì những người từng đề nghị mang quân tới, chính là những người chống đảo chánh…” LmC copy & pasted
-Trên bình diện (mần) chánh trị – KHÔNG ĐƯỢC…đổi ý?
“Thế mà vẫn có RẤT NHIỀU người cầm bút Việt nam (hay gốc Việt), vì KÍNH YÊU LÃNH TỤ của họ mà ĐANG TÂM BẺ CONG LỊCH SỬ để mang lại lợi ích cho phe nhóm, đảng phái, và lãnh tụ, gia đình lãnh tụ của họ.” NtT
-Phe của ông (N Tường cùng các Thích…Cộng) …”bè phái, lãnh tụ…” 50 năm đó sao?
Đúng là nhị vị này “đọc nhiều, hiểu nhiều” nên đạt hội chứng…tâm thần, rồi nhẩy??
quangphan says:
02/12/2012 at 03:10
Vài trích đoạn liên quan đến Dụ số 10 lấy từ biên bản của phái đoàn Liên Hiêp Quốc đến Việt nam điều tra về nghi vấn Phật giáo ở Việt Nam bị đàn áp :
Tại sao chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn chưa hủy bỏ Dụ số 10 – ban hành từ thời Bảo Đại :
Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương ?
Bộ Trưởng: “Về điểm thứ nhứt. Năm 1954 chúng tôi bận rộn về chiến tranh với các Giáo phái cùng nhu cầu định cư các người tỵ nạn. Như quý vị biết, chiến tranh chống các Giáo phái là một cuộc chiến tranh dùng vũ khí, chống ba Giáo phái: Bình Xuyên, Hoà Hảo, và Cao Đài. Năm 1956, chúng tôi có cuộc bầu cử Quốc Hội Lâm Thời. Từ 1956 đến 1959, chúng tôi hơi rãnh tay, và đó là lúc có thể tu chinh hoặc không tu chỉnh Dụ Số 10. Nhưng tôi phải nói rõ rằng, theo Hiến Pháp, sự tu chinh luật pháp phải do đa số dân biểu Quốc Hội yêu cầu. Trong Quốc Hội thứ nhứt, Phật tử chiếm đa số lớn; trong Quốc Hội được bầu năm 1959 cũng vậy. Nhưng không có yêu cầu tu chỉnh Dụ Số 10. Và vì không có yêu cầu của Quốc Hội, nên vấn đề tu chỉnh Dụ đó không được đặt ra…”
Người thứ hai về tu chỉnh là chính Chính Phủ. Để quyết định có tu chỉnh hay không tu chỉnh một Dụ, có hai điều kiện: 1/ chúng tôi phải thấy có nhu cầu như vậy; 2/ phải có yêu cầu như vậy xuất phát từ dân chúng.
Về điểm thứ nhứt, cho đến khi có vụ Phật Giáo, chúng tôi không thấy có nhu cầu tu chỉnh Dụ Số 10 vì, tuy rằng trên giấy tờ những điều kiện trong văn kiện rất gắt gao về sự kiểm soát các hội, Chính Phủ không hề áp dụng các điều kiện đó.
Cho đến năm 1960, trước khi tôi được cử làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đó là thường lệ. Sau khi tôi làm Bộ Trưởng, lệ đó vẫn tiếp tục, và tôi cũng không kiểm tra. Nhưng năm 1963, tôi mở hồ sơ ra xem, thì tôi thấy rằng, từ 1954 cho đến 1963, chúng tôi không hề áp dụng Dụ Số 10, mà cũng chẳng hề khi nào có yêu cầu thơ tín, từ phía dân chúng đòi tu chỉnh Dụ Số 10″ .
LeThan says : Nhầm rồi ! Phần nói về Dụ số 10 này lẽ ra nên đăng trong mục Ý Kiến của bài chủ Cả Miền Nam Bị Chúc Dữ .
Nếu không phải là vì muốn ào ạt mang quân chiến đấu sang Việt nam mà lật đổ chướng ngại vật là ông Diệm thì tại sao bọn Kennedy lại toa rập với bọn phản tướng Miền Nam tổ chức đảo chánh ?
***Chế độ TT Diệm thiếu khả năng chống Cộng ư ? Tính cho tới năm 1963, tình hình quân sự ở Miền Nam vẫn khả quan. Lúc đó không chỉ có một mà hai phái đoàn các viên chức cao cấp trong quân đội Hoa kỳ đã sang Việt nam để thẩm định tình hình: Ngày 7/9/63, phái đoàn của trung tướng Victor Krulag theo lệnh của đại tướng Taylor- tham mưu trưởng liên quân. Theo ý kiến của tướng Victor Krulag thì cuộc chiến đấu quân sự vẫn đang tiến hành với một nhịp độ đáng khâm phục ( và rằng cuộc khủng hoảng chính trị cũng có ảnh hưởng đến, nhưng không bao nhiêu, Việt cộng sẽ thua, nếu Mỹ vẫn tiếp tục những chương trình viện trợ về quân sự và xã hội).
Và rồi ngày 2/10, một phái đoàn khác do chính bộ trưởng quốc phòng Mcnamara và đại tướng Taylor hướng dẫn. Bản phúc trính của họ lạc quan về tình hình quân sự (nhưng bi quan về tình hình chính trị).
***Đàn áp Phật giáo ư ? Phái bộ Liên Hiệp Quốc – gồm đại diện của 7 quốc gia – đến Việt nam ngày 24/10/63 điều tra và phỏng vấn từ tổng thống xuống đến các nhân vật chính trị đối lập, các sư sãi, v…v…, và cuối cùng họ kết luận rằng tuy có một số hành động có tính cách kỳ thị đối với Phật Giáo ở vài nơi ở cấp địa phương ở một số tỉnh Trung Phần – Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình .Định, Phú Yên -, nhưng tuyệt nhiên chính phủ Ngô Đình Diệm không hề có chính sách đàn áp và kỳ thị đối với Phật Giáo.
Tuy nhiên, Cabot Lodge lại vận động với Liên Hiệp Quốc ém bản phúc trình này đi .(Theo cuốn sách Lodge in Vietnam [A Patriot Abroad] của Anne E. Blair ).
***Gia đình trị ư ? Thử hỏi lúc ấy, ai là người lãnh đạo giỏi nhất ở Miền Nam? Sau đảo chánh, tình hình chính trị ở Miền Nam bất ổn đến nỗi chỉ trong vòng một năm rưỡi mà Miền Nam đã trải qua đến 4 chính phủ, đó là chưa kể những cuộc đảo chính, chỉnh lý, binh biến … Và chức vụ tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã qua tay đến 5 ông tướng chỉ trong vòng chưa đầy 2 năm .
Bộ bọn Mỹ chúng mù lòa đến nỗi không biết trước rằng không có ai giỏi hơn ông Diệm chăng ? Ông Bảo Đại ở tuốt bên Pháp còn biết ông Diệm là người tài giỏi nhất , và vì vậy đã mời ông Diệm làm thủ tướng, huống hồ gì bọn CIA của Mỹ . Tuy nhiên , bọn Mỹ chúng để bọn bất tài lên cầm quyền để tạo cho tình hình Miền Nam nguy kịch, lúc đó người Mỹ mới có ” danh chính ngôn thuận” ồ ạt sang ” giúp ” Miền Nam chớ . Chúng đâu có ngu đến độ đổ quân ào ạt sang liền ngay sau khi đảo chánh vừa xảy ra . Làm thế, thằng con nít tiểu học cũng biết tỏng .
Thưa đúng như thế. Phải có “cái cớ ” thì Mỹ sẽ vô.
Cái cớ Maddox, thì Mỹ uýnh bom. Cái cớ Điệp viên
HC Minh tung quân vào Nam, thì Mỹ mới…nhảy vào.
Và ai ơi, Mỹ luôn đến sau để..cứu giá, là Mỹ ôm trọn
gói, nhu sau WW I và WWII, Mỹ đến tiếp viện, rồi
làm xép sòng người ta.
Mỹ chỉ thua có một mình Bắc Kỳ thui. Mà nay Bắc
kỳ van lạy, xin Mỹ trở vààào…
Cả một siêu cường…
“Mỹ chỉ thua có một mình Bắc Kỳ thui…”
Dân “Bắc Kỳ” chỉ có trên răng dưới lựu đạn – Bắc Kỳ …quá đểu cáng, chăng?
Cám ơn bác Dâm Tiên đã đọc phần ý kiến của tui . Tui cũng muốn nêu thêm một lý do nữa khiên tui tin rằng Mỹ khai trừ TT Diệm là vì ông tổng thống không đồng ý cho Mỹ đổ quân chiến đấu ào ạt vào Việt nạm . Nếu người Mỹ đã không muốn đổ quân vào Việt nam, một đằng khác họ lại muốn Miền Nam vẫn đứng vững, thì lẽ ra họ đã phải nên trang bị cho quân đội Miền Nam những vũ khí tối tân – ít nhất cũng ngang bằng với vũ khí của Việt cộng – . Người Việt nam đâu có ngu đần đến độ không học được cách xử dụng những vũ khí mới . Bằng chứng là bọn Việt cộng được Liên xô và Tàu cộng trang bị những vũ khí tối tân hơn quận đội Miền Nam như súng máy AK, phản lực cơ Mig 15, Mig 17, v…v…Vậy là rõ ra họ muốn chính quân đội của họ trực tiếp đảm nhiêm việc chiến đấu chống Cộng ở Miền Nạm .
Tháng 5 năm 1961, phó tổng thống Lyndon B. Johnson khen TT Diệm trong một bữa quốc yến do TT Diệm khoản đãi như sau:“Tổng Thống Diệm là Churchill của thập kỷ trong hàng tiền đạo của các nhà lãnh đạo bảo vệ tự do.”
Trong cuốn sách “From Trust to Tragegy”, Đại sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting còn viết rằng ông Johnson trong một bữa tiệc khác còn so sánh ông Diệm với 2 vị tổng thống nổi tiếng của Mỹ là Andrew Jackson và Woodrow Wilson.
Sau đảo chánh , thử hỏi những người trong nhóm Caravelle – đã từng chống TT Diệm – điều hành quyền chính ra sao . Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát ( đảng Đại Việt)… đều bỏ cuộc sau vài tháng cầm quyền:
Nội các thủ tướng Trần Văn Hương yểu tử – 4-11-1964 đến ngày 26-1-1965.
Nội các thủ tướng Phan Huy Quát yểu tử – 16-2-1965 đến ngày 18-6-1965.
Còn cái vụ thảm sát Phật tử ở đài phát thanh Huể, tướng đảo chánh Tôn thất Đính cho mở cuộc điều tra, và kết luận rẳng chất nổ plastic đó quân đội VNCH chưa từng bao giờ có . Phúc trình của y sĩ khám nghiệm chứng nhận rằng họ bị chết vì chất nổ mãnh liệt , hoàn toàn không có vụ họ bị xe thiết giáp cán lên chi sất .
Nguồn: 50 năm sau biến cố 1 tháng 11, 1963: xét lại nguyên nhân và hậu quả (phần 2).
Đinh Từ Thức. Damau.org, 1/11/2013.
“Da Màu chủ trương một diễn đàn văn chương không biên giới, một diễn đàn mở rộng cho mọi khuynh hướng sáng tác, mọi tác giả, mọi khai phá đúng nghĩa. Da Màu thúc đẩy sự cảm thông và chấp nhận những dị biệt bắt nguồn từ văn hóa, ngôn ngữ, phái tính, màu da, lịch sử, địa lý, chính kiến… qua các hình thái văn học nghệ thuật.”
đôi dòng về Đinh Từ Thức
Đinh Từ Thức là nhà báo và bình luận gia, đã cộng tác với talawas, Việt Báo và Thế Giới Ngày Nay. Trước 1975 làm việc cho tờ Hòa Bình và Chính Luận ở Sàigòn dưới bút hiệu Đốc Đá và Sức Mấy.
1
Theo tiết lộ của Tổng Thống Kennedy, có hai phe chống và chủ trương đảo chánh. Trong bốn người chống, có ba người từng chủ trương gửi quân chiến đấu tới Việt Nam, là Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Tướng Marxwell Taylor, và Tướng Paul Harkins. Như vậy, không thể nói Mỹ chủ trương đảo chánh lật ông Diệm để có thể mang quân tới Việt Nam, vì những người từng đề nghị mang quân tới, chính là những người chống đảo chánh.
Về Tổng Thống Kennnedy, khi trả lời câu hỏi trong cuộc họp báo ngày 5 tháng Năm 1961 về việc có gửi quân tới Việt nam không, ông Kennedy nói: “Vấn đề quân đội… chuyện chúng ta sẽ làm gì để giúp Việt Nam có được nền độc lập là … chuyện còn đang được cứu xét”. Ông Kennedy không nói rõ, vì ở thế kẹt. Trước công luận, nếu khẳng định không gửi quân, sẽ bị chỉ trích là không cứng rắn đủ với cộng sản, trong khi ấy, bản thân ông không chủ trương gửi quân và đã bác bỏ mọi đề nghị gửi quân. Trong cuộc phỏng vấn về “Chiến Tranh Lạnh” ngày 8 tháng Sáu, 1996, Roger Hilsman nói: “Ông ấy (Kennedy) từng nói với tôi – tôi là Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Đông Á, do đó tôi có trách nhiệm về Việt Nam – chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì có thể để giúp họ (VN), nhưng chúng ta sẽ không đánh, chúng ta sẽ không gửi một người lính Mỹ nào tới đó để đánh”. Cũng trong cuộc phỏng vấn này, Hilsman cho biết thêm:
“Kennedy bắt đầu khi còn là một dân biểu trẻ, rất ủng hộ Ngô Đình Diệm, tin rằng Ngô Đình Diệm có thể thắng, nhưng rồi xẩy ra chuyện Vịnh Con Heo, nếu vụ này không xẩy ra trước, câu chuyện đã có thể khác. Nhưng Kennedy tiếp tục rói rằng, anh biết đấy, làm sao tôi có thể đòi hỏi dân Mỹ chiến đấu ở Việt Nam, một nơi xa nước Mỹ chín ngàn dặm, mà không chiến đấu ở Cuba, chỉ cách nước Mỹ có chín mươi dặm? Vì thế, ông đã quyết tâm giúp VN tất cả những gì ông có thể, nhưng không đánh”.
2
Trong khi ấy, những người chủ trương đảo chánh lại là những người kịch liệt chống lại việc mang quân Mỹ tới chiến đấu tại Việt Nam.
Vẫn theo tiết lộ của ông Kennedy, “thiên về cuộc đảo chánh là Bộ Ngoại Giao, dẫn đầu bởi Averell Harriman, George Ball, Roger Hilsman, được hậu thuẫn bởi Mike Forrestal tại Bạch Ốc”. Tại sao Bộ Ngoại Giao và những người này chủ trương lật đổ ông Diệm?
3
Tổng Thống Kennedy chọn ông Averell Harriman – từ công tác tại hội nghị Genève về Lào – vào chức Phụ Tá Ngoại Trưởng về Đông Nam Á vào tháng 11 năm 1961. Harriman là người mạnh mẽ chống lại đề nghị của Tướng Taylor gửi một đạo quân từ sáu đến tám ngàn người tới VN vào năm 1961. Tháng Ba 1963, Harriman được thăng chức từ Phụ Tá Ngoại Trưởng lên Thứ Trưởng đặc trách về chính trị. Mặc dầu vào năm 1954, Harriman trong số những chính khách chủ trương sự hiện diện của Mỹ tại Đông Nam Á, nhưng ít năm sau, ông lại muốn Việt Nam là một vùng trung lập như Lào. Vào thời kỳ hội nghị về Lào kết thúc giữa năm 1962, Harriman đã tìm cơ hội thương thuyết với Hà Nội. Để tránh sự theo dõi của phái đoàn VNCH, Harriman cùng với Bill Sullivan vào một con hẻm ở Genève, đi qua một cửa hậu nhà bếp để gặp Ngoại Trưởng Bắc Việt Ung Văn Khiêm, nhưng Khiêm cực lực phủ nhận vai trò của Hà Nội, nói rằng “Bắc Việt không can dự chi hết tới cuộc chiến tại Nam VN”.
Để vận động cho sự thành công của hội nghị về Lào, Harriman đã tới Sài Gòn, thảo luận gay go với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và có gặp cả ông Ngô Đình Nhu. Bên nào cũng hăng say biện luận cho quyền lợi của nước mình. Nước Mỹ sợ thất bại ở Lào, đạt được một thỏa hiệp “trung lập” ở đây là điều tốt nhất. Còn sau này, nếu nền trung lập đó không được tôn trọng, là lỗi của cộng sản, không phải của Mỹ. Với anh em ông Diệm, trung lập ở Lào là mở cửa cho cộng sản thôn tính Nam VN, phải kịch liệt chống lại. Mỹ và VNCH là đồng minh, nhưng quyền lợi hai bên trong vụ này hoàn toàn trái ngược. Cả hai bên cùng thông thạo tiếng Pháp. Khi tranh luận trực tiếp bằng cùng một ngôn ngữ, càng hăng hái, sự khác biệt càng dễ biến thành thù địch. Dù tức giận, Sài Gòn chẳng làm gì được Harriman, và cuối cùng, cũng phải ký vào hiệp định về Lào. Nhưng Harriman đã có biệt danh “cá sấu”. Tại bàn hội nghị, mắt ông ta lúc nào cũng lim dim như mắt cá sấu nằm bên bờ lạch, lâu lâu “táp” một cái, con mồi khó thoát. Bobby Kennedy đã tặng ông ta một con cá sấu nhỏ bằng vàng, và nhân viên ông ta tặng một con bằng bạc, coi như kỷ vật “từ các nạn nhân”. Cá sấu Harriman đợi hơn một năm, táp được anh em ông Diệm.
4
Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball là người hăng hái thứ nhì sau Harriman cổ võ cho cuộc đảo chánh lật ông Diệm. George Ball cho rằng cần có một chính quyền được lòng dân ở Sài Gòn để dân không theo Việt Cộng. Việc tấn công chùa vào đêm 21 tháng 8 theo lệnh của ông Nhu càng làm cho George Ball tin rằng phải lật ông Diệm nếu ông không chịu loại ông Nhu khỏi chính quyền. Trước sự chống đối của các ông McNamara và Kennedy, George Ball vẫn khăng khăng: “Chúng ta không thể thắng cuộc chiến chống cộng sản nếu ông Diệm vẫn nắm quyền. Chúng ta phải quyết định bây giờ để tiến hành tới kết quả vụ lật đổ ông Diệm”.
George Ball cũng là người mạnh mẽ chống lại đề nghị đưa quân Mỹ vào chiến đấu ở Việt Nam. Theo ông “không ai đã có thể chứng tỏ rằng một lực lượng bộ binh da trắng lớn bất cứ cỡ nào có thể thắng một trận chiến du kích, mà cùng lúc lại là cuộc nội chiến giữa những ngưới Á châu”. Trước khi là Thứ Trưởng Ngoại Giao, George Ball là một luật sư sau chiến tranh thứ hai, lui tới Paris nhiều lần, hiểu rõ thất bại của Pháp tại Việt Nam, lo sợ Mỹ cũng có thể thất bại như thế. Trước đề nghị của Taylor/Rostow và Bộ Tham Mưu Liên Quân về việc mang quân chiến đấu vào VN hồi tháng 11, 1961, George Ball đã nói thẳng với Tổng Thống Kennedy: “Nếu đề nghị của Taylor/Rostow được thực hiện, trong vòng 5 năm nữa, chúng ta sẽ có 300.000 quân ở ruộng và rừng Việt Nam, rồi không bao giờ thấy lại họ nữa”. Kennedy thốt lên: “George, sao anh điên khùng như thế, chuyện ấy sẽ không bao giờ sẩy ra”.
5
Roger Hilsman là giám đốc sở tình báo và nghiên cứu Bộ Ngoại Giao từ đầu 1961, được làm Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Đông Nam Á khi Harriman lên hàng Thứ Trưởng vào tháng Ba 1963, và đã cùng Harriman thảo ra điện văn 243 gửi cho Đại Sứ Lodge tối 24 tháng 8, 1963.
Hilsman dựa vào quan điểm của RKG Thompson về ấp chiến lược đã được áp dụng thành công ở Mã Lai, theo đó: Đường tiếp tế không đi từ Bắc Kinh tới Việt Nam, mà từ dân làng tới các nhóm du kích. Cắt đường tiếp tế này, du kích sẽ đe dọa dân làng, vậy, phải bảo vệ dân làng. Khi được bảo vệ, dân làng sẽ tự tin, không sợ du kích nữa, và sẽ hợp tác, trung thành với chính phủ. Chương trình ấp chiến lược phải được thực hiện dần như vết dầu loang. Bình định trước, lập ấp sau để bảo vệ dân. Số lượng ấp tăng dần khi diện tích vùng an ninh tăng thêm. Cuối cùng, tất cả dân chúng đều được bảo vệ, có cuộc sống yên ổn, trong khi du kích quân cạn nguồn tiếp tế lương thực và nhân lực, không còn môi trường sống, bị tiêu diệt.
Vẫn theo Hilsman, chương trình ấp chiến lược tại Nam VN đã bị ông Nhu thực hiện hoàn toàn trái ngược: Không khởi đầu từ khu vực an ninh trước, mà từ những vùng “xôi đậu” (dân theo quốc gia và cộng sản sống lẫn lộn với nhau) thiếu an ninh nhất ở gần biên giới Cam Bốt. Thay vì bảo vệ dân, ông Nhu đã dùng việc thành lập ấp để sàng lọc dân, gây bất mãn trong dân chúng. Từ chỗ bất mãn, rất dễ làm nội ứng cho địch. Và vì nằm tại những vùng thiếu an ninh, chẳng bao lâu sau khi thành lập, ấp thường bị phá, gây tổn thất về tài sản và nhân mạng cho dân.
Theo Hilsman — hãnh diện là một trong số rất ít viên chức cao cấp Hoa Kỳ có kinh nghiệm bản thân về chiến tranh chống du kích — ông Nhu đã làm sai kế hoạch chống du kích, đã phung phí tiền viện trợ chống du kích vào mục tiêu riêng của mình, vậy, muốn cuộc chiến thành công, phải sớm loại ông Nhu. Nếu ông Diệm không chịu, thì phải chung số phận với em mình. Hilsman đã từng gặp ông Nhu ở Sài Gòn vào đầu năm 1963, được ông đãi tiệc và nghe ông nói truyện. Hilsman kể lai: “Ông ấy nói về xâm nhập Thái Lan và xâm nhập Lào và nói rằng anh phải trở về nói với tổng thống của anh rằng bây giờ là cơ hội Trời cho, để nắm lấy cả Đông Nam Á”. Cũng như Harriman, Hilsman tin vào lời đồn ông Nhu nghiện thuốc phiện, nên có đầu óc hoang tưởng.
Hoàn toàn không tin tưởng vào việc chống nổi dậy bằng chiến tranh quy ước, Hilsman cho rằng: tăng thêm quân là tuyển mộ thêm Việt Cộng, hơn là giết họ. Cho nên, hãy dùng các biện pháp chính trị, và tránh xa quân sự. Về vai trò của Mỹ tại Việt Nam, theo Hilsman: “Không thể dùng người Mỹ để xậy dựng quốc gia Việt. Người Việt phải làm điều đó, hay nó không được làm. Đấy là điều Tổng Thống Kennedy đã nói ‘Đó là cuộc chiến của họ. Họ phải thắng hay thua. Chúng ta chỉ có thể giúp họ’”.
6
Người cuối cùng trong bốn người chủ trương đảo chánh đã được Tổng Thống Kennedy nêu tên, cũng là người trẻ nhất, mới 35 tuổi, là Michael Forrestal, nhân viên Hội đồng An ninh Quốc gia tại Bạch Ốc. Là con của Bộ Trưởng Quốc Phòng James Forrestal, Michael đã được Harriman coi như con nuôi từ khi mồ côi cha vào năm 1949. Khi Harriman làm đại sứ Mỹ tại Moscow, đã cho cậu này theo làm phụ tá tùy viên Hải Quân. Theo The Wise Men, có lần Tổng Thống Kennedy đã nửa đùa nửa thật, nói rằng “công việc của Forrestal trong bộ tham mưu Bạch Ốc là ‘đại sứ của tôi tại cái nước được biết tới là Averell Harriamn’”. Tóm lại, Forrestal chỉ là một thứ thiên lôi chỉ đâu đánh đấy của Harriman.
7
Tổng Thống Lyndon Johnson là người không đồng ý cuộc đảo chánh. Tới Sài Gòn vào tháng Năm, 1961, ông đã công khai ca tụng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là “Winston Churchill của Đông Nam Á”. Sau khi kế vị Kennedy, vì giận những người đã tích cực thúc đẩy đảo chánh, Hilsman là người đầu tiên bị ông Johnson loại bỏ, nhưng nhờ biết trước, đã xin nghỉ chỉ vài giờ trước khi chính thức bị sa thải. Còn Harriman, khi nhìn thấy Hilsman ra đi, nói “nếu tôi còn trẻ như anh, tôi cũng từ chức”. Vì không từ chức, đã bị Johnson coi thường, nói là người không đáng xách rác cho ông, bị ông giáng chức, cho đi Phi châu, trước khi trở lại địa vị làm cảnh là “đại sứ lưu động”.
Trong khoảng hơn một năm sau đảo chánh, Tổng Thống Johnson đã đưa quân chiến đấu vào Việt Nam, không phải vì Tổng Thống Diệm không còn nữa để ngăn cản, mà vì ông Diệm không còn nữa nên tình hình suy sụp mau lẹ. Ông Johnson phải lựa chọn: rút lui hay nhảy vào cứu nguy.
Trước hết, khó rút lui. Johnson phải tranh cử vào năm 1964, thời gian gấp rút, chỉ còn dưới một năm, ông phải làm thế nảo đề khỏi bị dán nhẫn nhiệu “tổng thống thua cuộc”. Mới làm chủ Bạch Ốc, ông Johnson đã nói với Đại Sứ Lodge, từng là ứng cử viên phó tổng thống của đảng Cộng Hòa vừa về từ Sài Gòn: “Tôi sẽ không là Tổng Thống nhìn Đông Nam Á đi theo con đường của Trung Hoa” (mất về tay cộng sản). Nếu không thể rút lui, chỉ còn cách tiến tới.
Trong cuộc phỏng vấn thu hình để làm tài liệu cho hồ sơ “chiến tranh lạnh” vào ngày 03 tháng Sáu, 1996, trả lời câu hỏi tại sao sau khi cầm quyền ông Johnson đã gia tăng chiến tranh, và có cần làm thế không, Jack Valenti, phụ tá thân cận nhất của ông Johnson đã trình bầy khá rõ về hoàn cảnh của người bất ngờ kế vị Kennedy:
Trước hết, Johnson đã chứng tỏ cho toàn quốc biết vào ngày 22 tháng 11, 1963, khi ông tuyên thệ nhậm chức trên Air Force One rằng, trong khi ngọn đèn tại Bạch Ốc có thể lập lòe, nhưng nó không bao giờ tắt, và để làm như thế, ông ấy phải chứng tỏ rằng di sản của Kennedy vẫn nguyên vẹn, và nó phải được tiếp tục đúng như vậy. Bốn ngày sau, ông ấy lên trước Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố: John Kennedy nói rằng ‘chúng ta hãy bắt đầu’, tôi nói rằng ‘chúng ta hãy tiếp tục’. Sau đó là, làm thế nào để rút ra? Làm thế nào để bỏ đi khi có tất cả bằng cớ chứng tỏ niềm tin của một tổng thống ôn hòa là chúng ta phải ở đó để răn đe xâm lược và một tổng thống cam kết giữ gìn di sản đó, rồi làm sao có thể nói như người Texas là “ôm đít bỏ đi”? Câu trả lời là không có sẵn lý do, hay lý do dễ dàng. Rồi chúng tôi làm điều bây giờ nhìn lại có thể là quyết định sai, trong đó, phía quân sự nói với Tổng Thống Johnson rằng chúng ta có thể thắng cuộc chiến dễ dàng bằng cách kéo quân vào, bằng cách ngăn chặn quân từ phía Bắc, và rồi bắt đầu bỏ bom vào năm 1965, và sau đó chúng ta có thể chặn đứng được Bắc Việt và rất có thể bắt họ ngồi bào bàn hội nghị. Vì thế, ông bắt đầu áp lực dần dần, dựa trên sự cố vấn của giới quân sự…. Họ cung cấp cho ông ấy một cách để ra đi, và càng tiến vào sâu hơn, càng có vẻ khó rút lui, vì nếu ông ấy làm vậy thì những Barry Goldwater (lãnh tụ Cộng Hòa đối thủ của Johnson) và đặc biệt là phía cánh hữu sẽ nói Johnson là một thằng hèn, là tổng thống Mỹ đầu tiên cụp đuôi chạy sau khi chúng ta đã cam kết từ ba đời tổng thống và bây giờ anh không giữ được cam kết đó. Và đó là điều ông ta phải đối mặt với tình hình chính trị lúc bấy giờ, và cuối cùng, dĩ nhiên chúng ta đã vào quá sâu đậm….
Đó là cách giải thích từ phía ông Johnson, phía đảng Dân Chủ. Sau đây là nhận định từ phía đảng Cộng Hòa. Theo Henry Kissinger trong Diplomacy:
Loại bỏ ông Diệm đã không đoàn kết được dân chúng sau lưng các tướng lãnh, như là Washington đã hy vọng. Mặc đầu New York Times đã ca tụng đảo chánh như là một cơ hội đẩy lui cộng sản trên khắp các nẻo đường Đông Nam Á, nhưng sự thật trái ngược đã diễn ra…
Cuộc đảo chánh đã phá hủy kiến trúc được xây dựng trong hàng chục năm, để lại một nhóm tướng lãnh tranh quyền thiếu kinh nghiệm hay hậu thuẫn chính trị.
Chỉ trong năm 1964, đã diễn ra bảy lần thay đổi chính quyền. Không có lần nào theo đường lối dân chủ, và tất cả đều là kết quả của một cuộc đảo chánh, dưới hình thức này hay hình thức khác. Những người kế nhiệm ông Diệm thiếu uy tín của một lãnh tụ quốc gia, hay hình ảnh đáng kính nể của một ông quan, đã không biết làm cách nào khác hơn là đẩy cuộc chiến vào tay Hoa Kỳ…
Nhóm cầm quyền tại Hà Nội nắm ngay lấy cơ hội. Vào tháng 12 năm 1963, Trung Ương Cục của Đảng Cộng Sản đã đưa ra chiến lược mới: Thêm sức mạnh cho các đơn vị du kích và gia tăng xâm nhập miền Nam. Quan trọng nhất, các đơn vị quân chính quy của Bắc Việt được huy động. “Đã đến lúc miền Bắc gia tăng viện trợ cho miền Nam, miền Bắc phải đóng vai trò quan trọng hơn, như là cơ sở cách mạng cho cả nước”. Không bao lâu sau, sư đoàn chính quy 325 của Bắc Việt bắt đầu chuyển vào Nam. Trước cuộc đảo chánh, xâm nhập từ miền Bắc phần lớn gồm thành phần tập kết ra Bắc từ năm 1954. Sau đó, tỷ lệ người miền Bắc tăng dần, cho đến Tết Mậu Thân, hầu hết toàn thể lực lương xâm nhập đều là người miền Bắc. Với sự xuất quân của các đơn vị chính quy Bắc Việt, cả hai bên đều đã vượt quá giới hạn của mình.
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, ông Kennedy cũng bị ám sát. Tân Tổng Thống Johnson coi sự xâm nhập của các đơn vị chính quy Bắc Việt như là hành vi công khai xâm lấn…
Ngày 21 tháng 12, 1963 Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara báo cáo với Tổng Thống Johnson rằng tình hình an ninh của Nam Việt Nam trở thành rất đáng ngại, Hoa Kỳ không còn tránh được tình trạng phải đối diện với lựa chọn: Gia tăng can thiệp bằng quân sự, hay sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Chính quyền Kennedy đã sợ nhảy vào cuộc chiến bên cạnh một đồng minh thiếu dân chủ, chính quyền Johnson sợ bỏ rơi một chính quyền mới thiếu dân chủ tại Sài Gòn hơn là tham chiến.
Tóm lại, Bộ Quốc Phòng và giới quân sự Mỹ, tuy có đề nghị đưa quân Mỹ vào chiến đấu ở Việt Nam, nhưng không được sự chấp thuận của Tổng Thống Kennedy. Chẳng những không đồng tình, ông Kennedy còn muốn làm ngược lại, là rút sự can dự của Mỹ khỏi Việt Nam, khi có thể. Theo The Dark Side of Camelot của Seymour Hersh, vào mùa Thu 1963, Tổng Thống Kennedy đã nói riêng với người bạn thân là nhà báo Charles Barlett: “Tôi không thể để Việt Nam rơi vào tay cộng sản rồi yêu cầu dân chúng – những cử tri Hoa Kỳ — lại bầu cho tôi. Bằng cách nào đó chúng ta phải cố giữ cho tới sau bầu cử năm 1964. Chúng ta đã để mất Lào cho cộng sản, và nếu tôi để mất Việt Nam, tôi sẽ không thể nào nói với dân chúng. Nhưng chúng ta không có tương lai ở đó. Nam Việt Nam ghét chúng ta. Họ muốn chúng ta đi khỏi. Tới một lúc nào đó, họ sẽ đá đít chúng ta”. Trước khi bị ám sát, ông Kennedy đã ra lệnh rút khỏi Việt Nam 1.000 cố vấn Mỹ.
Ông Lại Mạnh Cường ơi,
Ông đọc nhiều quá. Những chuyện đó tôi cũng đã đọc. Tài lieu gốc rành rành như vậy. Rất nhiều. Mình đọc mệt nghỉ. Thế mà vẫn có RẤT NHIỀU người cầm bút Việt nam (hay gốc Việt), vì KÍNH YÊU LÃNH TỤ của họ mà ĐANG TÂM BẺ CONG LỊCH SỬ để mang lại lợi ích cho phe nhóm, đảng phái, và lãnh tụ, gia đình lãnh tụ của họ. Thậm chí họ còn BỊA ĐẶT LỊCH SỬ ĐỂ NHỤC MẠ TẤT CẢ các đảng phái quốc gia chống Pháp và chống Cộng để chi còn một mình lãnh tụ và gia đình lanh tụ của họ là yêu nước, chống cộng. Họ làm điều đó mà ko sợ rang gây them chia rẽ giữa những người chống cộng sẽ làm thiệt hại cho công cuộc chống cộng hiện tại ở trong nước.
Ông Nguyễn Tường Tâm ơi,
Đang yên đang lành, ông làm tôi phải “lên đồng” đây!
1)Thế mà VẪN CÓ rất nhiều người VN vì kính yêu lãnh tụ cuả họ mà đang tâm bẻ cong lịch sử ĐỂ MANG LẠI LỢI ÍCH CHO PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI…”
Xin ông một lời giải thích, ba cái thằng VẪN bẻ cong lịch sử kia, nó thuộc nhóm nào, đảng phái nào và đem lại lợi ích gì cho chúng khi chúng vẫn viết lách tầm bậy (tôn vinh lãnh tụ của chúng)?
2) Bịa đặt lịch sử để nhục mạ các Đảng Phái Quốc Gia!
Chỉ xin nhắc khéo ông thế này, còn bảo rằng nhục mạ hay không thì …tùy:
- Các ĐP quốc gia nào theo QĐ Quốc Dân Đảng TH vào và các Đảng nào ‘tháo chạy” khi bị VM tấn công?
- Các ĐPQG nào ngay từ đầu năm 1955 đã lập chiến khu Ba Lòng để chống lại c/q hợp pháp? Ông Hà Thúc Ký (đảng trưởng) trong hồi ký cuả mình đã ‘rút kinh nghiệm” về vụ này như thế nào?
- ĐPQG nào ở Quảng Nam rủ nhau lên rừng chống lại chính quyền QG, mà tác giả “Ông Bút’, một đảng viên, trong một bài mới đây( Sử Gia Trần Gia Phụng Chỉ Nhìn Thấy Cộng Rác Mà Không Nhìn Thấy Căn Nhà) đã đặt câu hỏi với những đảng viên lão thành cuả Đảng, hỏi suốt mấy chục năm vẫn không thấy ‘lãnh tụ’ nào trả lời!
-ĐPQG nào khi chưa nắm quyền thì ‘GATO”(ghen ăn tức ở), khi nắm được quyền với một dàn lãnh đạo từ ông Thủ Tướng, ông Phó Thủ Tướng, ông Bộ Trưởng Nội Vụ, rât, rất nhiều qúy ông Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng…đến các Tướng Tá nắm những chức vụ then chốt trong quân đội mà vẫn …”nát như tương”?(xin các vị lão thành sống ‘suốt chiều dài lịch sử’ làm chứng)
Sẽ có người “hoạnh họe” là sao ‘cụ’ Ngô ‘chơi’ luôn một lúc mấy giáo phái? Sao kỳ cục vậy, Tôn Giáo mà cũng dẹp ư, chết là đáng đời! Khi nào có théc méc sẽ lên đồng tiếp! hehehe!!!
Thưa anh,
ĐỌC NHIỀU thì RẤT NHIỀU, nhưng HIỂU NHIỀU e rằng KHỒNG NHIỀU !
Anh cứ xem ở tại đây không ít ông đọc nhiều, nhưng lại cố tình diễn đạt theo ý (đồ) riêng, đánh mất sự trung thực cần có.
Rồi tệ nạn làm chứng gian, mặc dù tôi biết rõ một số vị đạo dòng thuần thành.
Đau lòng nhất là tính háo thắng, thích làm cha thiên hạ, ra điều ta đây từng là ‘cái rốn vũ trụ’, khiến các cuộc thảo luận kô còn nghiêm chỉnh, mà nhanh chóng biến thành sự cãi vả kéo dài rất ư vô bổ, làm phiền nhiều người.
Người ta chê tôi viết dài, nhưng tồng kết lại, tôi góp ý một đôi lần, rồi xin nhường chỗ cho người khác. Tôi viết dài vì nói có sách mách có chứng, dùng hard proof, chứ kô căn cứ theo kinh nghiệm riêng (ai mà chả có kô ít thì nhiều khi sống trong thời tao loạn). Tôi cố đãi lọc tài liệu và thương là ko dùng tài liệu phe CS, do biết chắc tuyệt đại đa số không trung thực.
Ngược lại kô thiếu những khuôn mặt quen thuộc, cắm trại 100% nơi đây, hiện diện trên từng cây số, viết lách linh tinh vô tổ chức; nói khác đi làm loạn diễn đàn ….
VN ta còn lâu mởi có dân chủ, một khi ý thức sâu sắc về dân chủ chưa thực sự bắt rễ trong não bộ từng con dân Việt.
Cứ xem diễn đàn mở này tốn nhiều công sức mới như hôm nay, nhưng kô ít kẻ lại xem đây như nơi để xả rác thật tuỳ tiện, khiến một số người bỏ chạy, hay lẩn vào đám đông thầm lặng.
Trong cộng đồng và xã hội dân ta còn suy nghĩ theo cảm tính, nên vẫn tiếp tục nhăm mắt suy tôn lãnh tụ, thánh hoá lãnh tụ, dẫu rằng ai ai cũng biết rõ.
- lãnh tụ (phe quốc hay cộng cùng một duộc như nhau) là những nhà ĐỘC TÀI có hạng, cho dù có ngoa ngôn nguỵ ngữ bao nhiêu đi nữa, để biện minh cho họ.
- lãnh tụ đã đi xa lâu rồi. Thời đại mới chớ nên cố tô son trét phấn cho lãnh tụ cũ, bởi sao ai cũng rõ. Thời cách mạng thông tin, trái đất bé lại, kô gian gần như phẳng, nhân sinh quan biến đổi quá nhiều …. tốt nhất nên cất lãnh tụ riêng mình vô túi hay vô tủ sắt khoá lại thì hơn, bởi đó là đồ cổ dễ vỡ, dễ hư, kô còn thực dụng nữa rồi. Có gào có thét lớp trẻ (người non dạ, như lớp già nghĩ) học tập theo gương họ, làm sống lại tinh thần của họ, sẽ kô được ai thực sự hường ứng.
‘Giấy’ ngắn tình dài, thư bất tận ngôn. Chúc cuối tuần thân tâm an lạc.
Kính bái,
LMC
Kính thưa các vị thức giả,
Kính thưa ông Nguyễn Tường Tâm,
Kính thưa quan Đóc -tưa,
Người Mỹ chắc hẳn biết rằng sau năm 1960 thì CSBV ồ ạt chuyển quân, chuyển vũ khí vào Nam để mở rộng chiến tranh thôn tính VNCH … thế nên vùng nông thôn miền Nam nhiều nơi bất ổn định hơn … Ấy là điều đương nhiên .
Trong nội bộ VNCH thì rối rắm với những nhân vật bất đồng chính kiến , lại thêm những người lãnh đạo Phật Giáo quá khích như Thích Trí Quang nhất quyết gây bạo loạn lật đổ chế độ để bắt tay với miền Bắc (như chính TTQ tự nhận) …
Tuy nhiên, tình hình đâu đến nỗi quá tệ khiến chính phủ của Kennedy muốn thay ngựa giữa dòng, nhất là khi các vị tướng Mỹ trực tiếp chỉ huy ở VN không đồng ý lật đổ Diệm – Nhu vì nhận xét chưa thấy ai có khả năng thay thế anh em họ Ngô .
Thế thì, theo cao kiến của quý vị, nếu không phải mục đích muốn đưa quân bộ chiến vào VN, Hoa Kỳ lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm vì lý do gì ?
Trân trọng
Mấy ngài kinh điển, từ chương, salon đèn cù…nên nhìn cho thấu…
Nè, Kennedy, hành pháp Hoa Kỳ muốn cái này, muốn cái nọ…
thì Mỹ nó cũng đã tự ý đổ quân vô VN, lại kéo theo một lô công
pa nhi nào là Úc, Thái Lan, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Phi ( công tác
xã hội),
thì phải hiểu ra rắng, Mỹ nó có kế hoách lớn của nó, VÔ cái bàn đạp
Miền Nam VN.mà thách đố, trắc nghiệm Trung cộng…, và sẵn sàng
cho chiến tranh quốc tế nổ lớn như Triều Tiên…
Và Mỹ đã làm như thế, thì còn bàn chùn rằng Mỹ nó thụt vô kéo ra mà
làm cái chi chi? Nó đã vô mà. Nó đã hạ đo ván Liên Sô, Đông Âu nhờ
nó VÔ ( mà không RÚT nhá!), vô cái đầu cầu Miển Nam VN mà…
Bây giớ có bàn là Mỹ rút rút rút, thì nó cũng đã vô dzô dzô, anh em ui !
(Người lính sa trường — không salon –DâM TiêN)
Thưa bác Uncle Fox,
Chính tôi cũng đang đặt câu hỏi, nếu quả đúng như tác giả Trọng Đạt và Đinh Từ Thức dẫn chứng, AI LÀ THỦ PHẠM LẬT ĐỔ ÔNG DIỆM, RỒI NHẪN TÂM NHỔ CỎ TẬN GỐC, nếu kô ai khác hơn ngoài bọn “Mọi da trắng” (chuyên gia ‘thò tay mặt đặt tay trái’) !???
Lại Mạnh Cường says:
10/11/2013 at 23:29
Thưa quí đồng hương.
Nhân bài dịch công phu của Trọng Đạt, tôi tìm đọc được bài bình luận hay của Đinh Từ Thức trên Da Màu.
Từ đó tôi tự hỏi nếu quả đúng là Kennedy muốn XUỒNG THANG quân sự, lại cũng không chủ trương đảo chánh ông Diệm, vậy AI LÀ KẺ CHỦ MƯU
Vâng kẻ nào trong nội các Kennedy dám hỗn hào qua mặt kô bóp kèn signal tổng thống Kennedy, phó tổng thống Johnson ….
Tôi còn nghĩ, đám tướng lãnh VNCH không có chủ Mỹ đỡ đầu và bật đèn xanh cho hành động, thì bố bảo cả lũ cũng chả dám vong động
Xin được lắng nghe cao kiến từ bốn phương tám hướng để mở rộng tầm mắt.
Cám ơn trước thật nhiều
Một số người tin và viết như đinh đóng cột rằng TT Kennedy áp lực TT Diệm để gia tăng quân Mỹ vào Việt Nam và chiếm vịnh Cam Ranh nhưng TT Diệm quyết liệt chống đối nên kết quả là bị TT Kennedy ra lệnh một số tướng lãnh Việt Nam đảo chánh và giết.
Nhưng thực ra trong cuộc họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ ngày 5 tháng 10, 1963, TT Kennedy đã chấp thuận kế hoạch cho tới cuối năm (1963) sẽ rút 1000 (một ngàn) nhân viên quân sự. Kế hoạch này được ghi trong Bản Ghi Chú Thi Hành của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia số 263 (National Security Action Memorandum 263). Kế hoạch này được ghi lại trong 3 tài liệu dưới đây:
Tài liệu gốc (PDF version) trong http://mcadams.posc.mu.edu/context1.htm, trong tổ chức MARY FERRELL FOUNDATION, và trên tạp chí New York Times như nguyên văn Anh ngữ dưới đây:
Kennedy and Foreign Policy
http://mcadams.posc.mu.edu/context1.htm
Going to Withdraw from Vietnam?
… A claimed change in policy represented by National Security Action Memorandum 263 (approved by Kennedy), and NSAM 273 (approved by Johnson). The former supposedly envisioned a complete American withdrawal from Vietnam, and the latter a wider war. …Check the NSAM 273 draft, and see whether it differs in any significant way from the final document.
The critical part of NSAM 263, the one pointed to by the conspiracy theorists, is as follows:
NATIONAL SECURITY ACTION MEMORANDUM NO. 263
TO: Secretary of State
Secretary of Defense
Chairman of the Joint Chiefs of Staff
SUBJECT: South Vietnam
At a meeting on October 5, 1963, the President considered the recommendations contained in the report of Secretary McNamara and General Taylor on their mission to South Vietnam.
The President approved the military recommendations contained in Section I B (1-3) of the report, but directed that no formal announcement be made of the implementation of plans to withdraw 1,000 U.S. military personnel by the end of 1963.
…..
*
Tài liệu số 2
http://www.nytimes.com/1992/01/06/opinion/foreign-affairs-kennedy-and-vietnam.html
Foreign Affairs; Kennedy and Vietnam
By LESLIE H. GELB
Published: January 06, 1992
On Oct. 11, 1963, President Kennedy issued top-secret National Security Action Memorandum 263. In it he called for stepped-up training for South Vietnamese forces so they could take over the duties of U.S. forces, thus permitting the bulk of Americans to withdraw by 1965.
……
tài liệu số 3
http://www.maryferrell.org/wiki/index.php/1963_Vietnam_Withdrawal_Plans
1963 Vietnam Withdrawal Plans
President Kennedy meeting with Secretary of Defense McNamara and General Taylor in October 1963 after their fact-finding mission to Vietnam.
Was there a Vietnam withdrawal plan in 1963? The answer is yes. What is at issue is not whether such plans had been created and initiated, but whether they were “serious,” i.e., whether the withdrawal would have continued in the face of a worsening situation in South Vietnam.
On October 11, 1963, Kennedy signed NSAM 263, initiating a withdrawal of 1,000 troops out of roughly 16,000 Americans stationed in Vietnam. Other documents, including planning documents from the spring of 1963, show that this was the first step in a planned complete withdrawal.
Ông N T Tâm có tin 100 phần trăm vào số tài liệu Mỹ được
“công khai hóa ” chăng ? Công khai là…KHÔNG khai!
Nếu Mỹ nó cho công khai hóa, một tổng thống Mỹ lên án bọn
tướng lãnh đảo chá nh là một lũ côn đố; thì ta phải hiểu
Mỹ đã…mượn tay một lũ côn đố ấy !
Cũng như MacCain phê phán CS Bắc Kỳ là ‘ the wrong guys
won,” thì Mỹ đã…ban phép cho những wrong guys đó ..WON.
Người quốc gia chúng ta còn ngây thơ lắm, thưa các vị
cán bộ VNQDD hay Đại Việt, hay cả các vị nào khác. Thằng
CS nó dư biết Mỹ nham hiểm ra sao, nhưng CS nó cũng biết
nương theo cái…nham hiểm Tư Bản, để nó mát mặt lúc
nào nay lúc ấy. Nhưng người Quốc Gia, yếu xíu, thì…tự tin
một cách ngu muội, cho đến bao giờ? ( Master DâM)
Bác Dâm Tiên nói đúng . Báo chí Mỹ hàng ngày thỉnh thoảng có đề cập đến vấn đề này . Tuy Tòa Bạch Ốc đồng ý cho bạch hóa một số hồ sơ ” mật” , nhưng không phải là tất cả . Ngay cả trong tài liệu được bạch hóa, họ cũng bôi đen những đoạn văn họ không muốn dân chúng biết đến .
Kính hai bác Dâm Tiên và lethan,
1/
Các bác dẫn chứng tài liệu của thiên hạ, nhất là từ các học giả người Mỷ, rồi chính giới Mỹ …, chúng tôi cũng theo đuôi dẫn chứng cụ thể những tài liệu được chính phủ Mỹ bạch hoá sau này.
Tin hay kô là quyền mỗi người, chúng tôi không ép uổng nổi ai hết, nhưng nêu ra để rộng đường dư luận; chứ chẳng bao giờ chúng tôi ăn kô nói có, nói hay viết mà kô dẫn chứng cụ thể (hard proof)
2/
Chúng tôi có rất nhiều kinh nghiệm riêng khi sống dưới thời quốc gia, rồi thời CS, nhưng ở đây chúng tôi không dẫn chứng, bởi góc nhìn mỗi người khác nhau, nêu ra dễ gây cảm tưởng đứng thiên lệch về một phe.
Điều rất quan trọng là chùng tôi nhất quyết từ chối sử dụng tài liệu của CS, bởi trung thành theo nguyên tắc vàng (golden principle): đừng vội tin mà hãy nhìn thật kỹ những gì CS nói và làm.
CS vốn gian manh xảo trá, nên tạo ra trong dân gian thành ngữ ‘nói dối như Vẹm’ xưa nay ai cũng biết. Tin vào CS là tự giết chết chính mình, bởi phe ta thiếu chi chứng cớ rành rành, lại đàn tâm sử dụng tài liệu nguỵ tạo của CS, để ru ngủ phe mình.
Ở đây tôi lưu ý, có người cố tình dùng tài liệu (mập mờ về nguồn cội) của CS, để làm chứng cớ gian. Thật là ‘hết khôn dồn nói dại’. Đó chẳng qua do cái bệnh háo thắng, cứ tưởng ‘cả vú lấp miệng em’, và ‘vừa đánh trống vừa ăn cướp’ theo sách lược cố hữu của đám CS …
3/
Chúng tôi hăng hái tham gia thảo luận dựa vào tinh thần dân chủ đa nguyên, tôn trọng những ý kiến khác biệt. Bởi thế chùng tôi thực tình rất buồn lẫn phẫn nộ khi có xuất hiện hiện tượng nhục mạ người không cùng chính kiến. Cụ thề như dưới đây, lethan đã ‘chanh chua’ nhập đề như sau
lethan says: 07/11/2013 at 23:43
Gửi tên dư luận viên VC MP :
Nếu còn tái diễn chúng tôi xin phép miễn đối thoại, bởi kô bình tĩnh sẽ dẫn tới đôi co vô bổ, lại làm phiền người khác.
Kính cáo,
LMC
Trích: “chùng tôi thực tình rất buồn lẫn phẫn nộ khi có xuất hiện hiện tượng nhục mạ người không cùng chính kiến.
…….
Nếu còn tái diễn chúng tôi xin phép miễn đối thoại, bởi kô bình tĩnh sẽ dẫn tới đôi co vô bổ, lại làm phiền người khác” (Lại Mạnh Cường)
Kính Bác, vậy cũng mong Bác và người đồng chính kiến với bác, luật sư Nguyễn Tường tâm, cũng có thể gọi những người bất đồng chính kiến với các Bác, những nhân vật cầm quyền của VNCH, những chính quyền của các Tổng thống VNCH bằng danh xưng mà họ tự gọi, tự xưng, chứ đừng xách mé “Diệm & Thiệu”, “độc tài quân phiệt”, “đọc tài gia đình trị”, chung chung rất không thích hợp với một “trí thức”, xuất thân của các Bác…
Kính Bác,
Tôi KHÔNG mong Bác và người đồng chính kiến với bác, cũng có thể gọi những người bất đồng chính kiến với các Bác, những nhân vật cầm quyền của CS, bằng danh xưng mà họ TỰ GỌI, TỰ XƯNG
Lão Ngoan Đồng
__”Nhưng thực ra trong cuộc họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ ngày 5 tháng 10, 1963, TT Kennedy đã chấp thuận kế hoạch cho tới cuối năm (1963) sẽ rút 1000 (một ngàn) nhân viên quân sự Kế hoạch này được ghi trong Bản Ghi Chú Thi Hành của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia số 263 (National Security Action Memorandum 263)” … (trích Nguyễn Tường Tậm)…
Vậy ra cho đến ngày 05 tháng Mười 1963 thì tình hình an ninh VNCH vẫn còn sáng sủa nên TT Kennedy mới nuôi hy vọng sẽ rút 1,000 cố vấn quân sự về Mỹ . Thế thì tại sao lại có cuộc đảo chính lật đổ và ám sát anh em ông Diệm chỉ chưa đầymột tháng sau ?
Còn nếu Kennedy muốn chơi trò tháu cáy thì để warning anh em ông Diệm thì cuộc đảo chính phải muộn hơn nhiều mới hợp lý . Hoặc giả người Mỹ đã quá chán ngán, muốn bỏ cuộc vì biết không thể thắng cuộc chiến ấy thì họ cứ rút hết cố vấn, chẳng cần phải đảo chính làm gì khi không tìm được người đủ khả năng thay thế anh em nhà Ngô .
Quý vị có thể cho một lý do nào khác ít mâu thuẫn hơn được không ?
Kính nhờ ông Trọng Đ. suy nghĩ tại tí, bỏ tự ái, xem sao, bởi ông ghi sai
sử liệu ngược đến 180 đô như ri như rà:
” Kennedy quyết định rút khỏi Miền Nam.” ( ???)
DâM đề nghị nắn thẳng lại như ri rà : ” Đầu thập niên1960s, HK quyết định
mang quân vô Miền Nam VN nhằm mục đích… ( tự ý đục bõ ), TThống
N.Đ. Diệm lo ngại cho số phận quân dân VNCH, chống lại ý định của Hoa
Kỳ, và phải chịu hy sinh mạng sống của Người.”
Xin ông Trọng Đ. chịu khó động não một chút, thì biết nếu Mỹ…rút khỏi cái
” bàn đạp chiến lược” là Miền Nam VN, thì mỸ không thể nào tạo được
thắng lợi như trong hiện tại.”
Xin ông Trọng Đ.chớ buồn phiền vì tên vì tên DâM lớp Ba nè. — Kính lạy