Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc[2]
Tiếp theo phần I
Sự khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc dẫn tới sự xác định vai trò lãnh đạo phong trào Việt kiều yêu nước (1912-1927) của Phan Văn Trường trong những năm đầu (1911-1920) và của Nguyễn Thế Truyền trong những năm cuối (1921-1927). Đó là cơ sở đầu tiên của những ngòi bút chống thực dân trên đất Pháp.
Từ 1927, khi Nguyễn Thế Truyền về nước, phong trào Việt kiều yêu nước sẽ do nhóm Trốt-kít tiếp tục lãnh đạo với Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch… Những nhà ái quốc này, tới năm 1945, sẽ bị Việt minh thủ tiêu, trừ Hồ Hữu Tường sống sót vì trốn ở Hà Nội.
Từ trước đến nay, Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh được chính thức coi là người lãnh đạo và xây dựng phong trào Việt kiều yêu nước.
Trong giới thông thạo lịch sử và giới nghiên cứu, Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường được nêu ra như những người mở đường, hai nhà lãnh đạo; nhưng vai trò lãnh đạo chính được dành cho Phan Châu Trinh. Phan Văn Trường ít ai biết, hoặc có biết, cũng chỉ coi ông là người phiên dịch tư tưởng Phan Châu Trinh ra tiếng Pháp (cả Hồ Hữu Tường cũng lầm như thế).
Nhưng sự thật có lẽ khác hẳn: Trong thời kỳ đấu tranh ở Pháp, Phan Châu Trinh, với một quá khứ can trường, tuy được dân tộc quý mến, nhưng ông không phải là người lãnh đạo phong trào. Lý do: ông không cùng tư tưởng với những người viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Là nhà nho, không hiểu tiếng Pháp và văn hoá Pháp, cho nên biện pháp đấu tranh của ông trên đất Pháp, trở thành lạc hậu, so với những người Tây học.
1. Phan Châu Trinh dưới mắt Phan Văn Trường
Sự bất đồng ý kiến giữa Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh đã nhiều nơi đề cập, nhất là qua những bức thư Phan Châu Trinh viết cho Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái Quốc, đã được công bố.
Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc đến ý kiến của Phan Văn Trường trong cuốn hồi ký Une histoire de conspirateurs annamites à Paris (Chuyện những người An Nam âm mưu tại Paris), bắt đầu đăng trên báo Chuông Rè từ cuối năm 1925. Sử gia Ngô Văn, người in lại cuốn hồi ký này ở Paris năm 2003 (nxb L’insomniaque) cho biết: Ở thời điểm xuất hiện trên báo Chuông Rè, tác phẩm gây chấn động trong lòng người dân nô lệ như một luồng điện giật.
Sau khi Phan Văn Trường mất (ngày 21/4/1933), bà Phạm Vân Anh có viết loạt bài tựa đề Cái đời gian truân lưu lạc của Phan Văn Trường, ký VA [PNTV từ số 211 (10/8/1933) đến số 218 (28/9/1933), đăng lại trên cuốn Phụ Nữ Tân Văn Phấn son tô điểm sơn hà của Thiện Mộc Lan, Văn Hoá Sài Gòn, 2010]. Loạt bài của VA, phỏng theo hồi ký của Phan Văn Trường nhưng đã lược bỏ tất cả những chi tiết liên quan đến chính trị và tinh thần chống thực dân trong bản Pháp văn, vì dưới thời Pháp thuộc, báo tiếng Việt không tự do bằng báo tiếng Pháp.
Cuốn hồi ký này, viết xong tại Paris, tháng 10/1923. Tháng 12/1923, Phan Văn Trường xuống tàu về nước, tới Sài Gòn cuối tháng giêng 1924. Sau đó ông ra Bắc khoảng một năm, thăm gia đình sau 16 năm xa cách, đến 1925, ông mới trở lại Sài Gòn và lo việc lập văn phòng luật sư và làm báo. Vì vậy, hồi ký chỉ bắt đầu đăng trên báo Chuông Rè từ ngày 30/11/1925.
Nội dung tác phẩm trình bày hành trình tư tưởng và con đường tranh đấu của Phan Văn Trường. Kêu gọi người dân nô lệ phải đứng lên làm người. Đừng sợ kẻ khác. Dù phải trả giá thế nào đi chăng nữa. Ông thuật lại vụ án mà ông và Phan Châu Trinh bị thực dân dàn dựng để ghép hai người vào tội âm mưu lật đổ chính quyền Pháp.
Phan Văn Trường đã dành nhiều trang hồi ký cho Phan Châu Trinh, người bạn đồng hành của mình. Ông viết theo lối Tây học, có gì nói thẳng, cả cái hay lẫn cái dở của bạn. Một nhận xét: Phan Văn Trường không hề nhắc đến tên Nguyễn Tất Thành, mặc dù Nguyễn Tất Thành ở nhà Phan Văn Trường trong 2 năm (từ tháng 6/1919 đến tháng 7/1921).
Sự ngây thơ của Phan Châu Trinh, được phân tích khá cặn kẽ, trong chương X. Phan Văn Trường mô tả Tây Hồ như sau:
Ông Phan Châu Trinh là người thông minh thiên bẩm, uyên bác và có kinh nghiệm sống, nói chuyện hay, nhưng dường như những ưu điểm trên đây bị sự khinh suất khó mường tượng và sự ngây thơ lạ lùng phá vỡ. Những lời lẽ hạ mình đối với chính quyền thực dân trong Đầu Pháp chính phủ thư, thực vô ích, vì ông không hiểu rõ thâm ý của chính quyền thuộc địa, mà hậu quả còn bị bọn quan lại thâm thù và kết án tử hình nếu hội nhân quyền Pháp không kịp thời can thiệp. Phan Châu Trinh đến Pháp với con trai là Phan Châu Dật, 12 tuổi, để lại nhà vợ và 2 con gái. Chính phủ Pháp trợ cấp mỗi tháng 420 francs. Hai cha con ở một nhà trọ, có vài công chức cao cấp của chính quyền thuộc địa thỉnh thoảng đến thăm. Ông được đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng, người Việt ở Paris đến thăm và nghe ông nói chuyện, để thoả lòng nhớ nước, Phan Văn Trường viết: “vị nhân sĩ này tượng trưng xã hội An Nam xưa. Ông ra vào văn phòng của bộ Thuộc địa như một nhân vật được ưu ái tín nhiệm (personna grata), ông trình bày những quan điểm chính trị, đặc biệt yêu cầu ân xá cho những người bạn cùng cảnh ngộ còn ở trong tù, nhưng không bao giờ ông nhận được trả lời ngoài sự im lặng khinh bỉ.
Sự chăm sóc hời hợt của chính quyền thuộc địa lúc đầu, lạnh dần để cuối cùng chuyển sang ác cảm và thù nghịch.” (Hồi ký PVT, trang 72).
Vẫn theo Phan Văn Trường, sự chăm sóc hời hợt này chỉ là cái cớ để dễ bề trừng phạt khi Phan Châu Trinh dám bàn (phiếm) đến chính sách chính trị ở Đông Dương, và đã cùng Phan Văn Trường, làm một bản Thỉnh nguyện gửi hội Nhân Quyền, nhờ can thiệp cho những người bạn còn bị tù Côn đảo vì biến cố 1908. Thế là một loạt báo Pháp ở Đông dương (được lệnh) phát triển phong trào bôi nhọ, viết bài ngụ ý tiếc, rằng chính quyền Đông Dương đã không để xử tử (Trinh) cho rồi, và quy kết hai người (Trinh và Trường) vào tội tổ chức cuộc nổi dậy chống Pháp tại Đông Dương.
Sau vụ này, Phan Châu Trinh vẫn còn được trợ cấp, ông sống rất chật vật, phải gửi con vào nội trú tỉnh nhỏ và ông ở khách sạn, ăn cơm rẻ tiền. Mặc dù ở trong tình trạng khốn đốn, Phan Châu Trinh là người bền chí, ông vẫn còn tin vào chính quyền thực dân, ông đến Bộ Thuộc địa thường xuyên, tìm gặp những công chức cao cấp phụ trách vần đề Đông Dương để bày tỏ lòng trung thực của mình.
Nhưng sau những hớ hênh của ông (Phan Văn Trường muốn nói đến việc Phan Châu Trinh tin cậy mật thám Nguyễn Như Chuyên, coi như môn sinh), ông và tôi bị bắt, bị giam 11 tháng. Tháng 7/1915, ra tù, đang trong chiến tranh, chính quyền thuộc địa cúp hết trợ cấp, hy vọng, không biết tiếng Pháp, không có nghề, bắt buộc ông phải về xứ. Nhưng Phan Châu Trinh không về, ông ở lại, học nghề rửa ảnh và sống ung dung.
Sau những bài học đắng cay như thế, tưởng Phan Châu Trinh sẽ hết lạc quan, nhưng không, ông vẫn tiếp tục thái độ triết nhân của mình, coi như không có chuyện gì xẩy ra, vẫn đến Bộ thuộc địa, tìm gặp những kẻ đã đày đọa mình, và xin hội kiến Albert Sarraut hết lần này đến lần khác.
Phan Văn Trường viết: “Tạm nói mà không hề có ý miệt thị rằng, người này -vẫn bám vào chính quyền thuộc địa, bị đuổi cửa trước thì luồn vào cửa sau- người mà chính quyền thuộc địa hai lần buộc tội âm mưu chống Pháp!
Phan Châu Trinh là một người thông minh, một người tử tế, một người bạn tốt; nhưng những đức tính này không đủ để làm nên một người cách mạng” (PVT, trang 73-74-75).
So với lời Phan Châu Trinh phê phán Phan Bội Châu, trong bài “Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp”, thì lời Phan Văn Trường phê phán Phan Châu Trinh cũng chưa nặng bằng.
Đọc những lời Phan Văn Trường phê phán Phan Châu Trinh, thấy, tuy họ bất đồng ý kiến ngay từ đầu, nhưng vẫn làm việc với nhau. Ngoài ra, dù bất đồng ý kiến, vẫn không có sự phân hóa giữa bốn người Trinh, Trường, Ninh và Truyền, vì họ hoạt động liên đới cùng nhau cho tới khi người thì chết, người thì đi tù.
Chân dung này, Phan văn Trường viết năm 1923, mục đích bênh vực Phan Châu Trinh, bị Pháp kết tội oan, vì không hiểu rõ chủ trương Pháp Việt đề huề của ông.
Nhưng đồng thời cũng nói lên sự khác biệt trong chủ trương tranh đấu của Phan Văn Trường với Phan Châu Trinh, đó cũng là sự khác biệt sâu xa giữa những người Nho học và Tây học.
Tinh thần Tây học này, lại được xác định một lần nữa trong nhận định của Hoàng Xuân Hãn.
Về “Đầu Pháp chính phủ thư” của Phan Châu Trinh, Hoàng Xuân Hãn viết: “Lời lẽ trong thư kịch liệt, có thể kích thích sĩ khí, nhưng lại vô tình hay hữu ý ngoa ngoắt bôi nhọ quốc dân và quan lại, dường như để nhử chính quyền tin mình mà nhận lời mình. Kết quả là không những ý mình không toại, mà thực dân đã dùng quan lại để trừ khử ông: ông bị kết án tử hình; rồi may nhờ Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, chỉ bị đầy ra Côn Đảo. Giả sử thực dân bấy giờ khôn ngoan hơn, biết thấy lợi xa mà nghe lời ông, thì lập trường của ông trong giai đoạn nầy có lẽ sẽ có lợi cho dân ta trong quá trình tìm giải phóng. Trái lại, sự thất bại của ông đã làm cho người ngày nay, khi đọc lại thư ông, chỉ có cảm tưởng ông ngây thơ về chính trị và cảm thấy tức tối khi ông mạt sát quá đáng đồng bào, mà tâng bốc vượt mức thực dân. Tuy vậy, ta không thể không nhận rằng ông có óc hiện thực, biết quan sát, phân tích và có thái độ can đảm và thẳng thắn.” (Hoàng Xuân Hãn, Tựa cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp của Thu Trang, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 8).
2. Con đường tư tưởng của nhóm Tây học
Khảo sát các tư liệu, chúng ta có thể xác định Phan Văn Trường mới thực sự là thủ lãnh phong trào Việt kiều yêu nước, chính ông đã xây dựng nền móng, rồi cùng với Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh hình thành đường lối chính trị và tư tưởng chống Pháp:
- Bằng ngòi bút, đả kích trực tiếp thực dân bằng cách trình bày những tội ác của thực dân trên báo chí Pháp. Đối lập nước Pháp cộng hoà với nước Pháp thực dân: Nói rõ tội trạng của bọn thực dân để người Pháp phải xấu hổ mà bác bỏ chính sách dã man đó đi.
- Liên kết với các nhà văn và nhà chính trị phái tả, và các báo L’Humanité (Nhân loại) và Le Populaire (Người bình dân) của đảng Xã Hội; La vie ouvrière (Đời sống thợ thuyền), La revue communiste (Tạp chí Cộng sản), Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản, Le libertaire (Người tự do tuyệt đối) của nhóm anarchiste…
- Từ 1922 trở đi, nhóm Ngũ long, nhất là Nguyễn Thế Truyền, đã sử dụng Hội Liên Hiệp thuộc địa và báo Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản, làm bàn đạp để kết giao với các nhà hoạt động cách mạng trên các thuộc địa Châu Phi, Madagascar, tạo thành phong trào chống thuộc địa toàn cầu.
- Tác phẩm Le procès de la colonisation française (Bản án chế độ thực dân Pháp) là thành quả của sự hợp tác này. Và cũng từ cuối năm 1923, khi mọi người đã rời khỏi Paris, một mình Nguyễn Thế Truyền đứng mũi chịu sào (với sự giúp sức của chú ruột Nguyễn Thế Phu, em ruột Nguyễn Thế Song, người cùng làng Nguyễn Thế Thạch, và các đồng chí và môn đệ như Nguyễn Văn Luận, Tạ Thu Thâu…) đã mở rộng cuộc đấu tranh, không những về phía Châu Phi, Madagascar, mà còn viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc trên báo Inprekorr của Nga, ấn bản tiếng Pháp. Tham vọng “toàn cầu hoá” cuộc tranh đấu chống thực dân là của Nguyễn Thế Truyền.
Phan Châu Trinh là nhà nho, không biết tiếng Pháp, nên ông không thể hiểu được con đường chính trị này. Vì vậy, không những ông không tha thiết, mà còn chống lại việc viết báo tiếng Pháp cho người Pháp đọc. Những đề tài viết về một người boxeur da đen như Siki của Nguyễn Thế Truyền có thể là vô bổ đối với Phan Châu Trinh, nhưng đối với cuộc tranh đấu chung, đó là một cái nhìn thấu suốt tình hình thế giới.
Ngoài niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, ba cây bút Tây học ký tên Nguyễn Ái Quốc luôn luôn đề cao tư tưởng phương Đông: Phan Văn Trường nghiêng về văn minh Trung Hoa, Nguyễn An Ninh nghiêng về văn minh Ấn Độ, và Nguyễn Thế Truyền nghiêng về lịch sử và văn hoá dân tộc. Đó là điểm khác biệt giữa ba người. Tinh thần này không thấy ở các nhà nho, dường như họ bị choáng ngợp trước nền văn minh Tây phương, mà Phan Châu Trinh là tiêu biểu: chống Pháp nhưng luôn luôn hạ mình một cách quá đáng trước người Pháp. Sau này Hồ Chi Minh tôn Mác-Lê nin làm thày, ngoài cái nhục chư hầu, còn là sự hạ mình cố hữu của nhà nho, và cũng nói lên nội dung khác biệt sâu xa giữa những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và những điều Hồ Chí Minh nói và viết sau này.
Trí thức ở Pháp có truyền thống theo cánh tả. Trong bối cảnh chính trị đầu thế kỷ XX, các trí thức Việt nam như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền… muốn tranh đấu cho đất nước, chỉ có thể dựa vào trí thức cánh tả, trong các đảng xã hội, đảng cộng sản, nhóm anarchiste… nhờ họ làm hậu thuẫn để chống lại chính sách thực dân… Tuy vậy, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh không vào đảng nào, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành vào đảng Xã hội, rồi đảng Cộng sản.
Bản Tuyên ngôn Cộng sản của Marx – Engels viết cho một xã hội Tây phương đã công nghiệp hoá, không có điểm gì chung với một xã hội Việt Nam chưa có kỹ nghệ, 80% là nông dân “tay làm hàm nhai”. Vậy tại sao Phan Văn Trường lại cho in bản Tuyên ngôn của đảng cộng sản trên báo La cloche fêlée, Ngô Văn giải thích:
“Vào thời kỳ này [thập niên 1920] ở Pháp, bản tuyên ngôn của Các Mác và Ăng ghen được phổ biến rộng rãi, in ra sách nhỏ rẻ tiền. Nó không chứa đựng điều gì làm choáng váng đầu óc của tầng lớp thanh niên trí thức An Nam”, nhưng “chương trình quá độ sơ thảo trong bản tuyên ngôn có thể làm cho thanh niên suy nghĩ” (Ngô Văn, trang 63-63).
3. Phan Văn Trường
Hồ Hữu Tường viết về Phan Văn Trường như sau:
“Tôi ở chung với cụ Phan Văn Trường được hơn tuần thì cụ về xứ [tháng 2/1930, sau khi Phan Văn Trường ra tù lần thứ nhì, ba năm trước khi ông mất]. Trong thời gian đó, ngày nào tôi cũng quấn quýt theo bên cụ, mà nghe cụ kể những mẩu chuyện thăng trầm của đời tranh đấu mình. Cụ rất vui tính, cười hề hề, dầu cho chuyện bi đát, cụ cũng tìm thấy vài nét ngộ nghĩnh để mà trào lộng. Cụ là một bực học giả uyên thâm, các sách hay của Đông phương lẫn Tây phương cụ đều đọc cả. Cụ nói:
“Tôi đọc được nhiều là nhờ nghèo. Mùa lạnh ở nhà rét quá chịu không nổi, mà mình không đủ tiền mua than củi để sưởi. Đành vào thơ viện từ chín giờ sáng đến mười giờ tối. Gián đoạn bằng hai lượt đi ăn. Vào thơ viện, phải im phăng phắc, thì đọc sách là việc bắt buộc.
Triết học, kinh tế học, xã hội học, tôn giáo… sách nào căn bản, cụ đều có nghiên cứu kỹ. Luận án thi tiến sĩ luật của cụ bàn về chủ nghiã Bôn-sê-vích ở Nga [Hồ Hữu Tường ghi nhầm có lẽ đây là luận văn cử nhân, còn luận án tiến sĩ của Phan Văn Trường về Luật Gia Long] đem áp dụng vừa được cuộc cách mạng. Nhưng mà trong thâm tâm, cụ chê tất cả các triết gia Tây phương, ngay cả Marx nữa:
Bọn nó vì tự cao ám thị mà chẳng chịu ngó đến văn hóa Đông phương, thành chui rút vào tháp ngà, không có một cái nhìn thống quản. Riêng có anh chàng Schopenhauer khiêm tốn, đọc sách Phật, nên tác phẩm của y đọc dễ chịu hơn”. (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, trang 20).
Những điều Hồ Hữu Tường viết về Phan Văn Trường được thể hiện rõ ràng trên bản Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam.
Tháng 6/1919, bản Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam được đưa đến Versailles và gửi cho báo chí. Ngày 18/6/1919 L’Humanité đăng bản Thỉnh nguyện dưới tựa đề: Les droits des peuples (Quyền của các dân tộc). Điện tín từ phủ toàn quyền ở Hà nội gửi sang, cho biết bản Thỉnh nguyện cũng đã đến tay báo chí ở Việt nam. Từ đó, chính quyền thuộc địa mới chú ý đến tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc, ra lệnh theo dõi, điều tra, xem Nguyễn Ái Quốc là ai?
Đọc bản Thỉnh nguyện của người An Nam, trên báo L’Humamité, độc giả Pháp phải chú ý vì giá trị độc đáo của văn bản: Lời lẽ nhũn nhặn mà kiêu kỳ: tự xưng nước mình là Đế Quốc (L’Empire d’Annam), ngụ ý coi kẻ xâm lăng là tiểu quốc. Xin Pháp trả tự do và dân chủ cho dân mình, nhưng lại bảo họ phải làm điều đó vì bổn phận của họ đối với dân tộc họ và đối với nhân loại, nếu họ không làm thì ô nhục cho quốc thể của họ. Bút pháp Phan Văn Trường có lý lẽ của một luật sư, có kiến thức của một học giả, có sự xử dụng chữ nghiã của một văn tài. Văn bản đã được gửi về Việt nam qua nhiều ngả. Nhờ vậy, mà người Việt lấy lại niềm tự hào dân tộc. Bản Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam trở thành bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của người Việt.
Và bọn thực dân bắt đầu lên tiếng phản bác trên báo chí. Phan Văn Trường bắt buộc phải trả lời. L’Humanité ngày 2/8/1919 đăng bài La question des indigènes en Indochine (Vấn đề người bản xứ tại Đông Dương) của Phan Văn Trường, ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sau bài viết này, vấn đề Nguyễn Ái Quốc và nhóm An Nam Yêu nước được đem ra Hạ viện bàn cãi.
Quả bom Phan Văn Trường đã ném trúng đích: lần đầu tiên một kẻ indigène dám lên tiếng ngạo nghễ đòi tự do dân chủ.
4. Xác định hai bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc do Phan Văn Trường viết
Dưới đây chúng tôi trình bày phương pháp xác định văn bản, bắt đầu bằng 2 văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc do Phan Văn Trường viết:
1- Tại sao chúng ta có thể xác định La question des indigènes en Indochine (Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương), là do Phan Văn Trường viết?
Nhờ những chi tiết sau đây trong bài viết:
- Tác giả coi những yêu cầu trong bản Thỉnh nguyện tám điểm năm 1919 là của chính mình. Thuật lại lập luận của đối phương cho rằng các yêu sách của mình, đã gây chấn động trong giới thực dân. Đây là hiện tượng sự thực toát ra từ vô thức của ngòi bút: chỉ Phan Văn Trường mới viết như vậy, những người khác không thể và không dám nhận bản Thỉnh nguyện thư là của mình vì không do họ viết ra.
- Tác giả nhắc đến bản Thỉnh nguyện năm 1912, đòi trả tự do cho các sĩ phu bị tù Côn đảo, đăng trong Bulletin officiel de la Ligue des droits de l’homme ngày 31/10/1912. Văn bản này do Phan Văn Trường viết dùm Phan Châu Trinh. Ngoài Phan Văn Trường, dường như không ai biết đến việc này. Hiện nay, những tài liệu đã in đều không nhắc đến công của Phan Văn Trường và cho là văn bản này đã mất.
- Tác giả biết đích xác việc một sĩ quan cao cấp trong quân đội được lệnh tịch thu các bản Thỉnh nguyện 1919 trong tay lính thợ Việt nam. Chỉ có Phan Văn Trường, cựu quân nhân, có đường dây trong quân đội mới dám cam đoan biết đích xác việc này.
2- Bài Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương đăng trên La revue communiste, số 15, tháng 5/1921, thường được trích dẫn trong các bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, và được coi là “nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh”, cũng có những dấu ấn cho thấy đây là bài viết của Phan Văn Trường, căn cứ vào nội dung đề cao văn minh phương Đông một cách ngạo nghễ:
- 5000 năm trước, Hoàng Đế đã áp dụng chính sách phân phối ruộng đất.
- 2205 năm trước Công Nguyên, nhà Hạ đã đặt ra chế độ cưỡng bức lao động.
- 551 năm trước Công Nguyên: Khổng Tử đã khởi xướng thuyết Đại đồng và nguyên tắc: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Phan Văn Trường sẽ ghi câu này dưới tên báo La Cloche fêlée (từ số 52) thay thế câu Organe de propagande démocratique (Cơ quan truyền bá dân chủ) của Nguyễn An Ninh, để chứng minh rằng dân chủ phát xuất từ phương Đông.
Năm 1921, khi Phan Văn Trường viết bài báo này, chủ nghiã cộng sản mới bắt đầu phát triển ở châu Âu, và được một phần trí thức ngưỡng mộ, ông đưa ra ý kiến: nên phát triển chủ nghiã cộng sản ở Á Châu (để đuổi thực dân), nhưng vẫn ngụ ý cao kỳ: những nguyên tắc mà chủ nghiã cộng sản ở phương Tây của các anh đưa ra, phương Đông chúng tôi đã áp dụng từ bốn, năm ngàn năm nay rồi! Chúng tôi hiện đang mắc vào hiểm hoạ thực dân, hãy đợi khi nào chúng tôi đuổi được bọn thực dân, chúng tôi sẽ giúp các anh “tự giải phóng”. Đó là cái ý thâm trầm sâu sắc của Phan Văn Trường trong bài Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương.
5. Bút pháp Nguyễn Thế Truyền, qua hai bài trên cùng tờ Le Paria, ra ngày 1/12/1922
Trong ngày 1/12/1922, Trên báo Le Paria có hai bài, một bài ký tên Nguyễn Thế Truyền, một bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Khảo sát hai văn bản này, chúng ta có thể xác định Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc là một.
Nguyên văn bài Un Bolchevick jaune (Một người Bôn-sơ-vich da vàng) ký tên Nguyễn Thế Truyền, in trên Le Paria ngày 1/12/1922, xin tạm dịch như sau:
“Nguyễn Ái Quốc có phải là một “kẻ đầy tham vọng, không nhân cách và không đại diện cho ai”, như ý kiến của La Dépêche [Điện văn] rất coloniale [thực dân] kia. Những lời phỉ báng như thế, hiển nhiên phản ảnh sự nghiêng mình [hommage] của cái thấp hèn trước cái cao cả. Vì thế, đáng được trả lời.
Tham vọng? Hẳn thế, Nguyễn Ái Quốc đầy tham vọng. Nhưng tham vọng gì? Tham vọng giải phóng anh em rơi vào vòng nô lệ, bị bọn “diều hâu thực dân” bóc lột dã man. Có tham vọng nào cao quý hơn?
Kẻ viết bài giấu tên trên báo La Dépêche Coloniale kia, vì ngươi không biết đến nhân cách của Nguyễn Ái Quốc, nên ta cho ngươi biết.
Trong xứ, Nguyễn Ái Quốc sống hạnh phúc bên cạnh người thân. Khi còn rất trẻ, một hôm thấy Pháp chặt đầu đồng bào. Quốc không hiểu tại sao. Phẫn uất, Quốc ra đi, xa lánh bất công, để có thể kêu gào: “Công lý!” ở nơi khác. (…) Hôm nay, anh cương cường tranh đấu cùng những người anh em châu Phi, châu Âu. Với nghề khiêm tốn “sửa ảnh”, vất vả để kiếm sống, nhưng anh trong sạch hơn bao nhiêu quan chức, quá quan cách, ở các Thuộc địa, kia.
Ồ! Không! Quốc không hề như họ. Chẳng tiền hô hậu ủng, không diêm dúa mề đai, không cồng kềnh “ấn trát”, nhưng anh mang nguyện ước của đồng bào, kỳ vọng của Dân tộc bị áp bức. Năm ngoái, trở lại Đông Dương, tôi được nghe những lời cảm động về anh, bí mật truyền miệng mọi người. Một cụ bà kể: tôi có hai đứa cháu bị Pháp bắt đi đầy (vì tư tưởng); cụ hỏi tôi: “Cậu ơi, Cậu có biết Nguyễn Ái Quốc không?” – Một em bé dễ thương nhớ lại người cha, nhân sĩ nổi tiếng, bị tình nghi vì tư tưởng, một ngày kia bị cảnh sát Tây lôi đi như con chó; trong đầu đầy hình ảnh anh hùng huyền thoại, đứa nhỏ hỏi tôi: “Nguyễn Ái Quốc có phải là người bằng xương, bằng thịt không?”
- Này, người của La Dépêche Coloniale, ngươi không hiểu gì hết, ngươi đang phỉ báng một chân lý lớn lao, một sự hy sinh cao cả, hãy câm đi!” Nguyễn Thế Truyền.
Bài này, không nói lên lòng “tôn thờ” Nguyễn Ái Quốc (Tất Thành) của Nguyễn Thế Truyền, như Thu Trang nhận xét, mà Nguyễn Thế Truyền vinh danh một người anh hùng vô hình, nói khác đi, một người anh hùng huyền thoại, vì thế ông đặt vào miệng bà cụ câu: Có ai gặp Nguyễn Ái Quốc không? Đặt vào miệng đứa nhỏ câu: Nguyễn Ái Quốc có phải là người bằng xương bằng thịt không? Đó là ý chính của Nguyễn Thế Truyền: hóm hỉnh xác định Nguyễn Ái Quốc là một huyền thoại.
- Là người chống Pháp không khoan nhượng, Nguyễn Thế Truyền mạnh tay (tát tổng đốc Vi Văn Định), mạnh bút, luôn luôn đánh thẳng vào thực dân với lời lẽ quyết liệt. Bài này tát kẻ viết bài trên báo La Dépêche Coloniale, hèn, giấu tên (có thể là người Việt), không hiểu thế nào là sự hy sinh cao cả cho một chân lý.
- Bài báo còn cho thấy văn phong sắc, gọn, của Nguyễn Thế Truyền, sự kiêu kỳ, lối chơi chữ của ông và xác định một thông tin: khi Nguyễn Thế Truyền về nước, giữa năm 1920, cái tên Nguyễn Ái Quốc đã được mọi người truyền tụng.
- Lối viết của Nguyễn Thế Truyền khác Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh: Câu ngắn, giọng khiêu khích, châm biếm và hay chơi chữ.
Trên cùng số báo Le Paria, ra ngày 1/12/1922, có bài A propos de Siki, (Về vụ Siki), ký tên Nguyễn Ái Quốc, viết về sự kiện Siki, boxeur da đen hạ Carpentier, boxeur da trắng:
Chúng tôi trích một đoạn, phần tiếng Pháp trước, để độc giả thấy bút pháp của Nguyễn Thế Truyền:
“Depuis que le colonialisme existe, des blancs ont été payés pour casser la g… aux noirs. Pour une fois, un noir a été payé pour en faire autant à un blanc. Adversaire de toute violence, nous désapprouvons l’un et l’autre procédé. Mais le fait est là, nous n’avons qu’à le constater. Constatons.
D’un coup de poing – sinon scientifiquement envoyé, du moins formidablement placé – Siki déplaca proprement Carpentier de son piédestal pour grimper dessus lui-même.
Le championnat de la boxe a changé de mains, mais la gloire sportive nationale n’a pas souffert, puisque Siki, enfant du Sénégal, est parconséquent, fils de France, donc Français.
Malgré cela, il arrive que chaque fois que Carpentier triomphe, c’est naturellement par son adresse et par sa science. Mais toutes les fois qu’il est battu, c’est toujours par la force brutale d’un Dempsey ou la mauvaise jambe d’un Siki. C’est pourquoi, au match de Buffalo, on a voulu déclarer – on a même fait déjà la déclaration – que Siki, bienque gagnant, était vaincu “quand même”.
Dịch:
“Từ khi có chế độ thuộc địa, người da trắng được trả tiền để đánh bể mặt người da đen. Bận này, một anh da đen lại được trả tiền để nện anh da trắng. Chống mọi bạo lực, chúng tôi không tán thành cả hai cách này. Nhưng sự kiện sờ sờ ra đó, chúng ta chỉ việc ngó qua. Xem nào.
Một cú đấm -nếu không được gọi là khoa học, thì ít ra thì cũng trúng boong- Siki rành rành hạ bệ Carpentier và leo lên thế chỗ.
Giải vô địch đánh bốc đã đổi chủ, nhưng hào quang thể tháo quốc gia không hề hấn gì, vì Siki, đứa con Sénégal, tức, con Pháp, vậy, là người Pháp.
Ấy thế mà mỗi khi Carpentier thắng thì tất nhiên là nhờ tài trí và phương pháp khoa học của anh. Còn lần nào thua thì y như rằng là vì một tên Dempsey nào đó, đánh ác hay một tên Siki nào đó, đá hiểm. Vì vậy, trong trận đấu Buffalo, người ta những muốn tuyên bố – người ta đã tuyên bố rồi – rằng Siki dù thắng, “vưỡn” bại!” (trích dịch bài A propos de Siki (Về vụ Siki), ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Rất khó xác định những lời này của Nguyễn Tất Thành, vì một người mới học tiếng Pháp vài năm mà viết được như thế thì quả là phép lạ, nhất là tính cách hóm hỉnh, cũng không hề tìm thấy trong các văn bản sau này của Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn An Ninh
Nguyễn An Ninh có hai lối viết, một lối viết tranh luận, đôi khi cũng sát phạt không kém gì Nguyễn Thế Truyền, một lối viết hoà nhã, gần với văn phong Phan Văn Trường.
Bài Lettre à Monsieur Outrey (Thư gửi ông Outrey) đăng trên Le populaire ngày 14/10/1919, là lối văn tranh luận, với những chi tiết nói lên sự đụng độ kịch liệt giữa Outrey và Nguyễn An Ninh:
Sự việc phát xuất từ bài L’Indochine et la Corée; une intéressante comparaison (Đông dương và Triều tiên) in trên báo Le populaire ngày 4/9/1919. Trong bài này Nguyễn An Ninh so sánh sự bảo hộ Triều tiên của Nhật bản với sự bảo hộ Đông dương của Pháp. Ông buộc tội Pháp đã đầu độc người da vàng bằng những lời hứa hão và dùng bọn bồi bút để ca tụng chính quyền thuộc địa. Ernest Outrey, từng làm Thống đốc Nam Kỳ. Năm 1914, đắc cử dân biểu, đại diện cho người Pháp ở Sàigòn tại quốc hội Pháp.
Ngày 18/9/1919, tại Hạ viện, Outrey đánh thẳng vào “bè lũ” Nguyễn Ái Quấc và đồng bọn An Nam yêu nước. Được tin, Nguyễn An Ninh đang nghỉ ở Biarritz viết lá thư ngỏ cho Outrey, gửi đăng trên báo Le Populaire, phản pháo mãnh liệt, đồng thời xác định mình là Nguyễn Ái Quốc, ông viết:
“Ông đã nói đi nói lại [ở hạ viện] rằng tôi bị truy nã ở Đông Dương vì âm mưu chống Pháp. Vậy hãy nói cho biết, lúc nào, toà án nào, âm mưu gì?”
Outrey và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh. Nguyễn An Ninh cũng biết rõ âm mưu của Outrey ở Nam Kỳ. Nhưng tới năm 1919, Nguyễn An Ninh chưa hề bị bắt, vì vậy Ninh mới thách Outrey tìm ra chứng cớ ông bị bắt năm nào, ở đâu? Về phần Outrey, khi đọc văn, y đoán chắc Nguyễn Ái Quấc là Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội ở hạ viện, Outrey đã mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh. Cuối cùng Nguyễn An Ninh cũng đã “đáp lễ” Outrey tới nơi tới chốn.
Nguyễn An Ninh và Outrey
Đối với những độc giả không biết rõ lịch sử Nguyễn An Ninh, chúng tôi xin nói thêm:
Nguyễn An Ninh viết báo tiếng Pháp và đánh lộn với Tây từ thời niên thiếu (học Taberd, rồi Chasseloup Laubat), các bạn ông là Bùi Thế Mỹ và Lê Văn Thử đều ghi lại trong hai cuốn chân dung Nguyễn An Ninh. Gia đình ông là gia đình chống Pháp hàng đầu ở Nam Kỳ: cha (Nguyễn An Khương), chú (Nguyễn An Cư) và cô ruột, đều là những nhà cách mạng. Khách sạn Chiêu Nam lầu của gia đình là nguồn tài trợ cho phong trào Đông Du. Còn là nơi tá túc của hội viên các hội kín Đông kinh nghiã thục và Cường Để (Vương Hồng Sển, Sàigòn năm xưa, trang 250).
Dựa trên các cơ sở đó, ngày 18/9/1919, tại quốc hội Pháp, Ernest Outrey tố cáo Nguyễn Ái Quốc là người đã bị truy nã về tội chống Pháp ở Nam kỳ.
Xin nhắc lại: Trong suốt thời gian từ 1911 đến 1919, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành đều không có mặt tại Nam Kỳ.
Sở dĩ Nguyễn An Ninh không bị bắt vì tuổi vị thành niên. Vì thế, Ninh mới viết Lá thư gửi ông Outrey, thách Outrey, phải nói rõ rằng tôi (Nguyễn Ái Quốc) bị bắt ở Nam Kỳ lúc nào, ra toà nào?
Vì câu thách thức này mà ta xác định được tác giả Lá thư gửi ông Outrey là Nguyễn An Ninh. Khi xác định được Nguyễn An Ninh là tác giả Lá thư gửi ông Outrey thì tự nhiên ông là tác giả bài Đông dương và Triều tiên, vì bài này là đầu mối cho việc Outrey đem Nguyễn Ái Quốc ra luận tội tại quốc hội.
Người viết nào cũng để lại căn cước của mình qua văn bản.
Cho nên dù ký tên như thế nào đi nữa, người đọc tinh ý luôn luôn tìm ra bản chất và lai lịch của người viết.
Sự xác định tác giả một số bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi ghi danh sách trong phần chú thích ở cuối bài, dựa trên cơ sở của những chi tiết đó.
La France et L’Indochine
Khía cạnh thứ hai: Nguyễn An Ninh là ngòi bút của văn chương và tư tưởng.
Trong La France et L’Indochine, (Nước Pháp và Đông Dương), Nguyễn An Ninh viết, xin dịch:
“Trong nhưng năm gần đây, mặc dù thực dân hết sức tìm cách giam hãm người An Nam, nhưng dưới lực đẩy của phong trào thanh niên Tây du, một vài người đã có thể đến Pháp, quan sát đời sống hàng ngày và tìm hiểu bí quyết về sức mạnh vật chất của Âu Châu. Họ mang về nước tư tưởng dân chủ, tinh thần phê phán của Châu Âu; hơi thở Tây phương đã làm sống lại niềm tin và nghị lực của họ. Họ đã nhận tận tay người Pháp bản án chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Thực dân không thể ngăn cấm người An nam biết tiếng Pháp đọc Montesquieu, Rousseau, Voltaire.
Và, cùng một lúc, tinh thần phê phán Tây phương, giúp thanh niên An nam, mang trong tâm hồn giống nòi họ, giải thoát triết học Khổng Tử và Mạnh Tử khỏi lớp bụi dầy của đạo lý Khổng Mạnh suy đồi. Đã có một số xu hướng nổi lên và xác định, tìm cách cổ động quần chúng bỏ khát vọng phục thù bằng bạo lực và dấn thân vào con đường tranh đấu mới: Đòi hỏi những tự do căn bản để bảo tồn phẩm giá con người, đòi hỏi những cải cách, trùng hợp tinh thần dân chủ của dân tộc An nam với tư tưởng Tây Phương. Họ không còn chấp nhận, như quần chúng đã phải chấp nhận, như kẻ bại trận trên chiến trường đã phải chấp nhận, cái luật chiến tranh, cái đắc ý thô bạo của kẻ thắng và cái nhục nhã của người thua. Họ cũng không còn chiến đấu bí mật với lòng yêu nước thuần tuý nữa mà họ tranh đấu công khai, nhân danh nguyên tắc nhân quyền 1789. Và bọn thực dân không còn dám dựa trên cớ “chủ quyền nước Pháp bị đe doạ” để bắt họ đi đày hoặc xử tử.
Như thế, chính sách người bóc lột người ở Đông Dương đã được báo trước sự phá sản không thể tránh khỏi.
Hoặc là, biện pháp đán áp, điên cuồng vì thất bại, vẫn cố chấp, mặc kệ dấu hiệu báo trước những biến cố sắp tới, vẫn tiếp tục đè nặng trên con mồi đang vùng vẫy; như thế thảm họa chung sẽ xẩy ra: nước Pháp mất hết thanh danh và lợi ích -”sứ mệnh giáo hoá” của châu Âu sẽ lộ bộ mặt thật của nó- và nước An Nam, sau những kinh hoàng, thống khổ, sẽ được tự do hơn để hoàn tất sứ mệnh của mình.
Hoặc là, nước cộng hoà Pháp đến Đông Dương để thay thế bè lũ thực dân; như thế, không những, thanh danh và lợi ích của Pháp sẽ được bảo toàn, mà Pháp còn được hưởng sự tri ân của một dân tộc sẽ ủng hộ uy danh của họ ở châu Á.
Cách đây khoảng 15 năm, để trả lời tiếng kêu của những người bị họ đán áp, những kẻ thực dân, đã viết trên báo của họ như sau: “Nước Pháp không đến đây với (đoản) Kiếm và Luật (pháp). Chỉ có Kiếm”. Hình như rằng, sau sáu mươi năm bị đô hộ và chịu ảnh hưởng Pháp, ngày nay, đất Nam kỳ đã được công bố là đất Pháp, người An nam có quyền đòi hỏi nước Pháp phải mang sang Đông Dương, không những Luật, mà cả thanh Kiếm để bảo vệ Luật. Sự hoà hợp giữa lý tưởng cộng hoà Pháp và tư tưởng dân chủ của một xã hội xây dựng trên nền móng tư tưởng Khổng Mạnh, không vượt trên sự tiến hoá tự nhiên, như thực dân vẫn muốn cho người ta tưởng. Phong trào giải phóng ở Á châu không đi theo những quy luật chi phối sự tiến hoá chậm rãi từ xã hội dã man lên xã hội Âu châu tân tiến.
Phải là thực dân trong nghĩa ngu xuẩn nhất mới có có thể tin được “nghiã vụ giáo hoá” của những người Âu châu sang “thuộc địa hoá” Đông Dương. Ở Ấn Độ, sự tuyên ngôn về “nghiã vụ giáo hoá” Tây phương gợi trong lòng một Tagore ý thức giáo hoá Đông phương. Ở Trung hoa, giới thanh niên đã đi học ở Âu châu, đặt câu hỏi trên báo chí như một thách đố với châu Âu: “Bạn có thể nói cho chúng tôi biết, nước bạn đã có văn minh chưa? (…)
Về chính sách thực dân mà nước Pháp áp dụng ở Đông Dương, chúng tôi nhận thấy:
1- Rằng, ở Đông Dương, nước Pháp chẳng những không áp dụng những nguyên tắc lớn mà họ đã tuyên thệ, mà còn tiêu diệt tư tưởng dân chủ của xã hội An Nam.
2- Rằng, nước Pháp, thừa nhận tự do và quyền công dân Pháp cho những người, hôm qua, vẫn còn là nô lệ, nhưng lại áp đặt chế độ nô lệ ở Đông Dương cho một dân tộc tự do, đã có một nền văn minh, từ khi cư dân sống trên đất Pháp vẫn còn ăn lông ở lỗ (vivait dans des cités lacustres)”. (Trích và dịch La France et L’Indochine, Europe, số 31, ra ngày 15/7/1925)
Bút pháp thứ hai này, có thể hiện diện trong cuốn “La France en Indochine” nay không còn văn bản gốc. Nhưng bài viết La France et L’Indochine mà chúng tôi vừa trích dịch một đoạn trên đây, có thể tóm gọn tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An Ninh.
Theo Đặng Hữu Thụ, cuốn “La France en Indochine” tháng 4/1925, in 2000 bản tại nhà A et F Debeaufauve Tournefort Paris. Nguyễn An Ninh trao cho Nguyễn Thế Truyền 150 bản. Nguyễn Thế Truyền nhờ các thủy thủ Việt nam đem về phổ biến trong nước. Ngoài ra, sách cũng được gửi tặng một số dân biểu, nghị sĩ Pháp, hội Nhân quyền và báo chí viết về thuộc địa.
Khi đáp tàu về nước ngày 28/5/1925 cùng Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh mang theo một số cuốn. Nhưng Bộ thuộc địa biết, đánh điện về Phủ toàn quyền, và sách đã bị tịch thu khi tàu cập bến. (ĐHT, trang 64).
Trong bài viết trên RFI, chúng tôi đặt nghi vấn sau đây:
“Một cuốn sách, mang tên Đông dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng, đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?”
Nhưng hiện tại, nhờ có cuốn Nguyễn An Ninh tác phẩm (nxb Văn Học, 2009) trong tay, chúng tôi so sánh bản dịch Đông dương (1923-1924) in trong Hồ Chí Minh toàn tập với bản dịch Nước Pháp ở Đông Dương (La France en Indochine), in trong cuốn Nguyễn An Ninh, thì thấy là hai tác phẩm khác nhau.
6. Le procès de la colonisation française (Bản án chế độ thực dân Pháp) và Đông Dương (1923-1924)
“Bản án chế độ thực dân Pháp” có thể được coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn Thế Truyền làm “chủ biên” và viết lời giới thiệu. Cuốn sách in năm 1925, sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga hai năm. 1946, in lại lần đầu ở Hà Nội.
Trong hồi ký Trần Dân Tiên, viết khoảng 1948, Hồ Chí Minh không nói gì đến cuốn Đông dương (1923-1924), chắc ông không biết có cuốn sách này. Đông Dương cùng bố cục như Bản Án chế độ thực dân Pháp, nhưng lời văn điềm đạm hơn, gần với lối viết của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Điểm chung của hai tác phẩm là cùng dùng những mẩu chuyện, những nhân chứng đã có trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đông dương nói đến tình trạng ở nước ta, còn Bản Án chế độ thực dân Pháp viết chung cho nhiều dân tộc.
Về “Bản án chế độ thực dân Pháp” Hồ Chí Minh chỉ nói một câu: ““Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: “Bản án chế độ thực dân Pháp”; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia”. (Trần Dân Tiên, trang 37).
Việc ông cho rằng: “quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia”, chứng tỏ ông chưa đọc “Bản án chế độ thực dân Pháp” khi ông viết dòng chữ này, và ông đã vô tình hạ giá tác phẩm: chẳng có cuốn sách nào của người Pháp lại viết về tội ác của một thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện, để cho ông chép lại. Hầu như trọn phần nhân chứng đều do lính thợ Việt Nam cung cấp, họ kể lại những tội ác của quân đội viễn chinh mà họ đã mục kích: hãm hiếp phụ nữ, tra tấn, giết người… những lời chứng này được Phan Văn Trường thu lượm trong thời kỳ làm việc tại Công binh xưởng Toulouse.
Ngòi bút Nguyễn Ái Quốc xuất hiện đều đặn trên các báo từ tháng 8/1919 đến đầu năm 1920: thời gian này chủ yếu là Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh chấp bút. Trong năm 1920, rất ít văn bản, có thể vì Phan Văn Trường bận việc toà án, đi về giữa Paris và Mayence, Nguyễn An Ninh về Sàigòn (2 lần, để cưới vợ và ly dị người vợ đầu) và Nguyễn Thế Truyền về Việt Nam một năm (8/1920-8/1921).
Thời điểm tung hoành mạnh mẽ nhất là khoảng 1921-1922, khi Nguyễn Thế Truyền chính thức bước vào “nghề báo” và Nguyễn An Ninh còn ở Paris: bút hiệu Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trên nhiều tờ báo một lúc, vậy hai người viết chính trong thời kỳ này là Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh. Phan Văn Trường làm việc ở Mayence từ đầu năm 1921 đến năm 1922, ít tham dự. Mùa thu 1922, Nguyễn An Ninh về Sàigòn. Cuối năm 1923, Phan Văn Trường về nước. Còn lại Nguyễn Thế Truyền, một mình, ký cả tên Nguyễn Ái Quốc và tên thật Nguyễn Thế Truyền.
Về sự xuất hiện trên mặt báo: Có thể nói, những bài trên Le Paria (Người cùng khổ) và L’humanité (Nhân loại), phần lớn của Nguyễn Thế Truyền. Những bài trên Le Libertaire (Người tự do tuyệt đối) của nhóm Vô chính phủ, phần lớn của Nguyễn An Ninh. Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprekorr, báo Nga ấn bản pháp ngữ, của Nguyễn Thế Truyền.
Bản án chế độ thực dân Pháp, được viết và soạn vào khoảng 1923, từ những thông tin, những đoạn, những ý tưởng đã có trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và những thông tin khác đến từ các thuộc địa châu Phi. Tác phẩm không chỉ đưa ra bộ mặt lầm than, thống khổ của một dân tộc Việt Nam mà còn của tất cả những người dân da màu khác đang bị đô hộ. Vì vậy nó có tính chất nhân loại. Khó có thể xác định ai là tác giả, vì nội dung cho thấy bàn tay của nhiều người: Nguyễn Thế Truyền, trước tiên, vì ông đã có công soạn thảo, chỉnh đốn, viết tựa. Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, viết về luật pháp. Phan Văn Trường viết về công binh. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường đều có thể khắc họa những chân dung toàn quyền và viết về các chính sách dã man của thực dân Pháp trên đất nước ta. Nhưng còn có những đóng góp khác của các nhà văn châu Phi, và thư từ độc giả từ các nơi gửi về… do đó Nguyễn Thế Truyền đã giữ tên tác giả chung là Nguyễn Ái Quốc.
*
III- Kết luận
Georges Pompidou, tổng thống Pháp, lúc còn sống có lần khuyên một môn sinh: muốn làm chính trị, phải biết lịch sử. Ông có thể nói: Làm người phải biết lịch sử. Bởi lịch sử một dân tộc, được xây dựng bằng lịch sử của mỗi con người. Và lịch sử nhân loại xây trên nền lịch sử mỗi dân tộc. Nếu lịch sử nhỏ của mỗi cá nhân bị xoá bỏ, bị bôi nhọ, hay bị man trá đi, thì, lịch sử dân tộc ấy sẽ như thế nào? Lịch sử của một người gồm thâu tất cả những hành động thể xác và tinh thần của người ấy trong đời. Nếu ta thấy lịch sử của chính mình bị đánh tráo cho người khác, thì phản ứng của ta ra sao? Vậy sống, không chỉ là tồn tại, mà còn là hình thành và bảo vệ lịch sử của chính mình và của người khác. Vì thế, cần phải biết rõ hành trình sống của dân tộc mình, biết rõ công việc những người đi trước đã làm, tìm hiểu những thành công và thất bại của họ, để rút kinh nghiệm cho tương lai.
Vì thế, không thể để cho lớp trẻ học mãi những điều mạo nhận: Bất cứ một người có suy nghĩ nào, khi đọc cuốn Hồ Chí minh toàn tập cũng phải hồ nghi về xuất xứ các văn bản in trong tập sách nhiều nghìn trang này. Vậy sự vơ vét liều lĩnh các văn bản khác nhau của những người viết khác nhau vào trong một toàn tập của một tác giả mà học sinh phải học như kinh điển, là không thể chấp nhận được.
Bởi giáo dục quần chúng với những “toàn tập” ngụy tạo như thế có khác gì tiêu diệt giáo dục ngay từ đầu. Cho nên, vấn đề tái tạo lại các tác giả, đối với dân tộc Việt Nam, là cốt tử. Bởi nền giáo dục của chúng ta cần được xây dựng trên một nền tảng lành mạnh không ngụy tạo.
Dạy cho học sinh sự ngụy tạo lịch sử từ lúc mới đến trường, có khác nào dạy trẻ nói dối từ bé?
Dường như thanh niên ngày nay vẫn còn loay hoay với những khẩu hiệu vô nghiã: nhờ ơn bác, nhờ ơn đảng, vì họ được/bị đào tạo trong một môi trường ngụy tạo lịch sử. Nói như George Orwel: Khi sự ngụy tạo được lập đi lập lại không ngừng, nó sẽ trở thành sự thực vĩnh viễn. Hãy còn kịp, nếu chúng ta muốn viết lại lịch sử của Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường… và bao nhiêu người khác đã hy sinh cuộc đời cho hai chữ tự do, dân chủ. Hãy còn kịp để nói lại với thanh niên ngày nay rằng tên tuổi những nhà cách mạng đích thực ấy sẽ không bị chôn vùi hoặc bức tử mãi mãi, mà bổn phận của tuổi trẻ là phải tìm tòi, để viết lại lịch sử, một lịch sử không ngụy tạo.
Việc nghiên cứu văn bản Nguyễn Ái Quốc, để xác định ai là tác giả, cũng nằm trong chiều hướng đó: Tái tạo sự thật lịch sử để góp phần xây dựng một nền giáo dục chân chính.
Nguồn: http://thuykhue.free.fr/stt/n/nhanvan15-3.html
————————————————-
Chú thích:
Sự xác định văn bản mà chúng tôi nêu ra một số tên sau đây, dựa vào lối hành văn và tư tưởng khác nhau của mỗi tác giả; nhưng cũng có khi, chỉ dựa vào một vài chi tiết rất nhỏ:
Phan Văn Trường: Tâm địa thực dân, Vấn đề dân bản xứ (L’Humanité 2/8/1919), Những kẻ bại trận ở Đông dương (La vie ouvrière số 101, ngày 8/4/1921), Quyền của những người lính (La vie ouvrière số 105, ngày 7/5/1921), Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương (La revue communiste, số 15, tháng 5/1921), Vụ âm mưu ở Đông Dương (17/8/1921)…
Nguyễn An Ninh: Đông dương và Triều tiên (Le populaire, 4/9/1919), Thư gửi ông Outrey (Le populaire, 14/10/1919), Phong trào cách mạng ở Ấn Độ (La revue communiste, số 18-19 tháng 8-9/1921). La civilisation supérieure (Nền văn minh thượng đẳng) (Le Libertaire, 23/9/1921), Tội ác của chủ nghiã thực dân (La vie ouvrière, số 126, ngày 30/9/1921), Sự quái đản của công cuộc khai hoá (Le Libertaire, ngày 30/9 và 7/10/1921). Aimez la France qui vous protège (Hãy yêu Pháp, nước bảo hộ bạn) (Le Libertaire, ngày 14/10/1921)…
Nguyễn Thế Truyền: Zoologie (Thú vật học) (Le Paria số 2, ngày 1/5/1922) Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa (L’humanité ngày 25/5/1922), Paris (L’humanité, 30 -31/5/1922), Lời than của bà Trưng Trắc (L’humanité, 24/6/1922), Les cilivisateurs (Những kẻ đi khai hoá) (Le Paria số 4, ngày 1/7/1922), La haine des races (Hận thù chủng tộc) (Le paria số 4, ngày 1/7/1922) 1/7/1922, Lettre ouverte à M. Albert Sarraut (Thư ngỏ gửi ông Albert Sarraut), (Le journal du peuple, 25/7/1922), Khai hoá giết người (Le paria số 5, 1/8/1922), La femme annamite et la dominatinon française (Phụ nữ An nam và sự đô hộ của Pháp) (Le Paria số 5 ngày 1/8/1922), Nhân đạo thực dân (Le paria, số 6-7 (tháng 9 và 10/1922), Le martyre d’Amdouni et Ben Belkhir (Amdouni và Ben Belkhir chịu nhục hình) (Le Paria, số 8, 11/1922), A propos de Siki (Về vụ Siki) (Le Paria, số 9, 12/1922), Indigène à la mode (Le Paria số 10, 15/1/1922)…
Sự thật của HCM …Trần Dân Tiên – TLan v v,,!? , có những chuyện sau này tuyên truyền rằng khi sinh thời ông Hồ đã nói cho cấp dưới của ông là …Các cháu đừng học tập bác những điều là : (“không có vợ ” hoặc ” hút thuốc lá ” chỉ có trời mới biết …?..
Lũ vô sản sợ người trí thức là do những bài viết, những sự hiểu biết như này đây.
Miệng thì chúng bô bô vô sản, ghét trí thức; nhưng chúng lại hết sức cố gắng sơn lên ông Hồ một lớp sơn sáng như mặt trời, là người tài ba, không minh, thông suốt, cái gì cũng đáng thờ hết.
Lớp sơn ngày càng rơi rớt, để lộ bộ mặt đất sét xấu xí của lão, của chúng.
Tác giả Thuỵ Khuê có lối viết thật nhẹ nhàng, rõ ràng, mạch lạc, đọc rất thú vị.
Nếu đám đần lãnh đạo có chút khôn ngoan thì mời cô Thuỵ Khuê này về viết sách giáo khoa cho lớp trẻ Việt đọc, học. Lũ đần viết sách, đã ngu, khi đọc sách xong lại ngu thêm!
Cảm ơn Chị Ngyễn Thụy Khuê.
Một bài viết công phu,khoa học và rất khách quan.
Đọc bài này của Chị, tôi nhớ lại và thấm thía câu chuyện cách đây hơn 40 năm, lúc chúng tôi còn là sinh viên ở SG. Câu chuyện được tóm tắt ngắn gọn như thế này: GS Hồ Hữu Tường đã kể cho chúng tôi: “NTT thời gian ở Pháp chỉ là người bán báo, đưa thư và làm tà lọt cho các Cụ Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền…”
Hóa ra Nguyễn Ái Quốc là tên tập thể của 3 vị cách mệnh tiền bối khả kính này.
Đọc bài này của Chị, một lần nữa xác tín điều mà GS Hồ Hữu Tường đã kể.( hồi đó chúng tôi còn bán tín bán nghi)
Với mong muốn “hãy trả lại sự trung thực cho lịch sử”, tôi mong Chị hãy bỏ thì giờ và công sức làm một cuộc “khảo sát văn bản” tác phẩm Nhật Kỳ Trong Tù. Tôi tin Chị có đủ năng lực, tâm lực va điều kiện để làm việc này.
Nêu được tôi sẽ gửi Chị xem một vài nhận xét của một người đọc bình thường về tác phẩm NKTT
Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng là những thằng đại bịp…
ĐÂY QUẢ LÀ MỘT ĐỘNG TÁC ĐẦY Ý NGHĨA
Bài viết “Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc” của tác giả nữ Thụy Khuê, quả là một động tác đầy ý nghĩa. Nó có thể có nhiều tác động đến chính các yếu tố lịch sử hiện nay. Bởi vì, danh gọi Nguyễn Ái Quấc vào đầu thế kỷ 20 ở Pháp, của một nhóm người Việt Nam yêu nước, là tác giả gọi chung của nhiều bài báo khác khau, do nhiều người yêu nước viết, mà cụ thể là những vị như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, hay Nguyễn An Ninh chẳng hạn. Còn ngay cả như Phan Chu Trinh nổi tiếng nhất khi ấy, nhưng không viết được tiếng Pháp, hay Nguyễn Tất Thành, chỉ là lớp hậu bối, cũng khó mà có các bài viết bằng tiếng Pháp già giặn như thế được. Cho nên, nếu sau này người ta đã gom chung vào một bộ sách lớn, về những bài viết đó, để chỉ cho rằng do ông Hồ Chí Minh viết, thì rõ chỉ là một việc bóp méo lịch sử một cách không ngay ngắn. Lịch sử là của chung một dân tộc, dân tộc nào cũng vậy, nên nó luôn cần phải có sự khách quan, chính xác. Nếu vì lẽ gì đó mà người ta bóp méo hay xuyên tạc lịch sử đi, thì quả là một trách nhiệm rất lớn đối với quốc gia, dân tộc. Vì như vậy, cũng sẽ khiến người đời sau biết sử một cách sai sự thật, tức là không hề biết lịch sử. Cho dầu lịch sử trong giai đoạn nào, khía cạnh, với nội dung nhỏ hay lớn, chúng cũng đều là các chìa khóa, các khoen khớp, để cho thấy nguyên toàn bộ hệ thống chung, giúp suy ra được chính xác điều này, hay điều khác. Nên không thể nhầm lẫn giữa lịch sử với chính trị. Chính trị có thể là các việc gì đó chỉ xảy ra trong mỗi giai đoạn. Nhưng khi chúng đã ổn định rồi, chúng đã trở thành như lịch sử, nếu chúng quả thật quan trọng. Có nghĩa, khi đã trở thành lịch sử, thì nhất thiết không thể bị xuyên tạc, bóp méo, cải sửa, hay biến đổi khác đi được. Kể từ khi ông Hồ Chí Minh thành công được về mặt chính quyền, nắm được quyền lực đất nước, những tài liệu lịch sử về bản thân, hay về thời đại của ông sau đó, dường như chỉ còn là nhắm viết chỉ cho cá nhân ông, cho thời đại của ông, mà không còn cho những ai quan trọng khác nữa. Người ta đã quên rằng lịch sử chỉ vẫn là một chuỗi có hệ thống các móc xích với nhau. Không có mọi nhân vật, mọi giai đoạn trước ông, cũng không thể bắt cầu qua được thời kỳ của cá nhân ông, hay của thời đại được gọi là của ông. Đây vốn hình như là căn bệnh truyền thống duy nhất chung của mọi người cộng sản. Tức luôn luôn cho chính trị cao hơn lịch sử, cho chính trị thay thế được lịch sử, hay thậm chí nếu cần, chính trị cũng có thể xuyên tạc hay bóp méo được cả lịch sử. Đó chính là nguyên tắc lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm thống sói. Có nghĩa, hầu như không còn những nhà sử học, những nhà khoa học khách quan, những người yêu nước thực tâm nữa, mà tất yếu hay nhất nhất cũng chỉ còn là những con người cộng sản. Những người cộng sản, với chỉ tiêu chung nhất là chính trị, là ý thức hệ, là chủ thuyết Mác Lênin, nhưng không còn có điều gì lớn hơn, hay bao trùm hơn, ngoài cái đó cả. Ông Hồ Chí Minh quả như một tiền đề, một nền móng tất yếu về sau, cho mọi sự kiện luôn luôn có cùng một tính chất như thế. Đó là điều mà mọi người muốn nói lên sự thật của ngày hôm nay đều không thể không nói, và cũng là điều mà mọi người thuộc các thế hệ của mai sau không thể không biết tới.
Võ Hưng Thanh
(16/9/11)
@ Mr. Vo . I like your comment. if there are more and more Vietnamese people who have opinions like yours, a democratic Vietnam is not far away.
Thanks, very well. Ok.
Cảm ơn chị Thụy Khuê đã nêu ra những câu hỏi, mà những nhà nghiên cứu phải tìm ra câu trả lời nghiêm túc.
Đã từ lâu, rất nhiều người Việt nam trong đó có tôi đã thắc mắc rằng: Tiếng Pháp rất khó học, để viết được những luận văn, hay những áng văn chương thì còn khó hơn rất nhiều. Khi Nguyễn Tất Thành đặt chân đến Pháp, mới học song bậc tiểu học ở Viết Nam, vốn liếng tiếng Pháp đáng là bao, có giỏi lắm thì cũng chỉ đủ để mua thực phẩm, hỏi thăm đường, hoạc đọc được những bài báo dễ, ngắn. Làm sao có thể viết văn bằng tiếng Pháp được.
Rồi đây, bức màn bí mật này cũng sẽ được vén lên cho bàn dân thiên hạ biết.
Một lần nữa cảm ơn chị Thụy Khuê và các anh chị trong bbt đcv đã cung cấp cho độc giả những tư liệu quý.
Trần Thiên Di
Cám ơn bà Thụy Khuê đã chia xẻ những phân tích rất chuẩn xác để chung tay tay lột mặt nạ một thần tượng bằng đất bùn mà đảng cs vẫn hằng ra sức sơn phết , dù càng sơn phết thì lại càng lở loét
Chuyện Hồ Chí Minh mạo danh, tiếm danh, tiếm đoạt văn thơ và ngay cả tiếm đoạt lòng yêu nước và công lao chống ngoại xâm của cả dân tộc….rồi tự viết sách ca tụng mình dưới những tên Trần Dân Tiên , T.Lan..v.v…., đã là chuyện mà ngày nay, nhân dân VN không mấy ai là không biết, ấy cũng là nhờ vào công lao sưu tập và phân tích rất khoa học của những nhà trí thức chân chính như bà .