Hạt ươm hư [7]
Chương 20
Không khí Tết đang về ngoài kia. Nhưng sao u ám quá! Dân chúng mua sắm Tết trong im lìm, không ồn ào, vồn vã như trước 75. Cũng có những tiếng pháo nổ lẹt đẹt đâu đó của bọn con nít vô tư.
Tuấn đứng trong bãi tập bắn, luyện võ, cùng đồng đội nhìn ra bên ngoài ngắm cảnh người dân đang chuẩn bị Tết. Đây là cái Tết thứ hai sau “giải phóng”.Một cái Tết trầm lắng.
Người người đi im lìm, thỏ thẻ buôn bán trước một cái đồn Công an vũ trang tai ác. Sau 75, nghe nói đến công an của nhân dân, người dân mắt lấm lét, nhìn ngang, xẻ dọc canh chừng. Đó là một thứ hung Thần của thời đại mới! Bọn chúng có thể bắn chết dân, mà không tù tội gì không qua tòa án xét xử. Ai ai cũng biết, năm 1975, một anh bán đồng hồ dỏm, gọi là đồng hồ hai cửa sổ không người lái, của Chợ Lớn, đã bị lôi ra trước chợ Đầm Nha Trang, bắn bỏ, bởi chỉ một anh bộ đội quèn tiếc của, mà một tờ báo ở Khánh Hòa đưa tin, như một sự hăm dọa lẫn trấn áp.
- Tết, sao buồn quá, ông nhỉ! – Tuấn hích hông Hưng, nói.
- Ê, Tuấn nhìn kìa!
Anh sửng sốt nhìn theo ngón tay Hưng chỉ lên cao. Tuấn thấy một băng rôn treo trên cao, từ cột trụ điện bên này đường chạy sang bên kia, với hàng chữ:
“Nhiệt liệt, tưởng nhớ Tết Mậu Thân, quân ta toàn thắng!
Tuấn ngạc nhiên giây lát, rồi đến bàng hoàng, như muốn vỡ cái mật của anh, – mà anh cho rằng không nhỏ lắm!
Suốt 4 ngàn năm lập hiến, quốc dân VN chưa bao giờ có được một cái Tết, gọi là Tết cho đúng nghĩa trang nghiêm của nó.Triền miên trong chiến tranh chống chọi ngoại xâm, từ thế hệ này đến thế hệ khác qua bao đời khổ ải của cả dân tộc.Một Mậu Thân bất hạnh, đã để lại cho dân tộc này những ngày vào Tết rơi vào trình trạng đau khổ. Khó một ai có thể quên, những ngày Tết của Mậu Thân 1968, bằng những nén nhang của thân nhân người chết khóc thảm thiết, kêu gào của gần 6000 nạn nhân bị giết tập thể, bởi người đồng chủng máu đỏ, da vàng khi Tết về trên quê hương, gia đình đoàn tụ. Chỉ có lũ mọi rợ, không tim mới vinh danh ngày này, bằng những băng rôn, treo la liệt khắp các nẻo đường thành phố và thôn quê: “Nhiệt liệt, tưởng nhớ những ngày của Mậu Thân, quân ta toàn thắng”, trước mắt Tuấn! Lẽ ra, anh đã quên từ lâu sự kiện đau đớn này trên quê hương anh và của cả dân tộc anh, khi còn quá trẻ. Nhưng bây giờ, những băng rôn kia, treo trước mắt, trên đường phố, hiển hiện đập vào mắt mọi người, và anh cũng nhìn thấy, như nhắc lại lý do, vì sao, anh có một bà Mẹ điên!
Họ muốn gì, khi lập lại sự kiện đau khổ này, vào những ngày Tết thiêng liêng nhất của dân tộc VN, sau 1975?
Trí thức đâu, Nhân sĩ đâu (của cả hai miền) sau hòa bình, nói gì? Các ông, là những người đại diện cho quần chúng ở 2 miền Nam, Bắc… có thấy và nhìn; và làm gì chưa? Vậy thì đừng nói: toàn dân miền Bắc chúng tôi, cả công, nông dân… chúng tôi vì hạt gạo, hạt muối để giải phóng ách nộ lệ đế quốc Mỹ; và (một số trí thức miền Nam) lập ra Mặt trận giải phóng miền Nam, để bài Mỹ!
Để làm gì?
Hãy trả lời đi! Vì sao, sau hòa bình, lại lập lại sự mất mát lớn lao nhất của cả một dân tộc, sau Cải cách ruộng đất đang dần khép kín?
Có phải, là một sự hù dọa, sẽ bùng lên đàn áp và tàn sát lần nữa!
“Đừng nghe những gì CS nói”, và đừng nghe những gì Trí thức sống dưới chế độ ấy nói.Chúng chỉ là những Cục Cứt chưa được gột rữa linh hồn, qua cái gọi là Sợ hãi.
Người có óc, có tim, có lý trí, và có tấm lòng VN… nên im lặng và phải nghĩ rằng đây là một cuộc chiến phi lý tương tàn do ngoại bang gây ra, lại là ngày Tết dân tộc cổ truyền. Mọi công dân VN, Tết là một cái gì đó vô cùng xót xa cho dân tộc, dù vẫn vui chơi thưởng Tết, nhưng vẫn luôn nhớ gần 6000 nạn nhân đã bị chết thê thảm dưới bàn tay CSVN. Nhưng lũ giết nhân dân mình không gớm tay lại cổ võ ngày chiến thắng! Có chiến thắng không, khi rút lại về rừng làm thằng Mán, Mọi, sau đợt phản công của quân đội VNCH!? Hay gặm khoai mì, khoai lang để sống… lấp ló trong hang, trong hốc của núi rừng, để rồi lâu lâu xuống núi khủng bố bằng: đắp mô chôn mìn, cho nổ xe lam, đặt bom trong nhà hàng, rạp chiếu bóng giết dân…
Thế nhưng, khi một ông Tướng miền Nam, đưa cây colt bắn vào đầu một trong những tên khủng bố tàn ác này, giữa đô thành Sài Gòn thì cả thế giới la toáng lên. Bọn thanh niên phản chiến và bọn cực tả ở nhiều nước, cả ở trong Quốc hội Mỹ, đều đồng thanh lên án chính quyền VNCH, đưa đến Mỹ bỏ miền Nam vào tay bọn chuyên trò khủng bố đê hèn!
Chỉ có con ngưòi đội lớp Sa-tan, không còn trái tim làm ngưòi, mà nó là con Thú, vui sướng trên những thân xác ngưòi đã chết. Cứ nói láo và tuyên truyền riết, rồi nhân dân sẽ tin như một thằng điên Đức quốc xã đã nói trong thời Đệ nhị thế chiến! Đó là chiến lược của người Cộng Sản.
Lưỡi không xương, nhiều đường lắc léo! Lắc léo là bản chất con người, để tự vệ tính gian xảo của họ, thủ thân cho chính mình để thủ đắc một điều gì đó. Nhưng lắc léo, dối trá… để bảo vệ một thể chế, chính quyền, đó là sự gian xảo xuyên cấp quốc gia, mang tính phản dân tộc.
&
- Các đồng lên xe, khẩn trương. Giờ xuất phát bắt đầu!
Bộ chi huy đại đội ra lệnh trên loa khi những chiếc G.M.C và Môlôtôva từ từ chạy vào quân trường. Lính được đùn lên xe ngồi. 17 A trưởng của khung, đi trên một chiếc xe Môlôtôva với dao, rựa chất đầy lòng xe. Tất cả sẽ đi lên Khánh Vĩnh, đốn cây làm củi để chuẩn bị ngày tiệc Tết có thịt tươi. Nghe nói, hai A được một con lợn, do hậu cần Tỉnh cung cấp! Bọn lính đói, nghe mà sướng cả lòng. Chỉ còn năm hôm nữa là Tết, tha hồ chén no say, qua ba tháng đói meo, chưa bao giờ được ăn thịt! Quả thật, Tuấn thèm một miếng thịt lợn, hơn bao giờ hết, mặc dù khi còn ở với gia đinh ông Năm, anh thường ăn chay hơn mặn. Ôi. Một miếng thịt lợn nhục nhả cho đời lính, mà vẫn nhớ, vẫn thèm quay quắc hơn bất cứ thứ gì trên đời, trong một đất nước vừa hòa bình!
Tuấn vẫn còn nhớ, tuần trước được lãnh lương “quí” sau ba tháng quân trường.Họ không phát lương bằng tiền, mà là hiện vật, họ gọi là nhu yếu phẩm. Mỗi tân binh được nhận: 1 cây thuốc lá Vàm cỏ, 1 ký đường, một ít bột ngọt, 2 ký xà-bông bột, thuốc đánh răng…
Thằng Hưng và Thiện dẫn Tuấn qua bên kia đường trước cổng trại, bán lại số nhu yếu phẩm đó. Mỗi đứa được mấy chục bạc bỏ túi. Ngày hôm sau, khi chạy từ đường Trần Phú (trước gọi là đại lộ Duy Tân) về gần đến trại, thằng sinh viên và Hưng tách hàng, kéo Tuấn lại nói.
- Ê Tuấn. Chạy chậm lại, rồi từ từ cắt hàng, vào quán bún cá, mỗi đứa làm một tô.Tao đói lắm rối. Mẹ nó, cứ mỗi sáng chạy gần 5 cây số, 10 ký đồ trên vai, với cái bụng đói meo, chắc có ngày té đường mà chết.
Ba gã, chạy chậm lại, rồi tách hàng chạy lụt đụt cuối hàng, từ từ, vừa giả vờ ôm súng thở dốc, chạy ngay vào tiệm bún cá bên đường. Mỗi chú, chén đến hai tô, chứ không là một tô bún cá như dự tính, bằng thủ thuật nhà binh thật lẹ, miệng vẫn còn thòm thèm, nhưng không dám ăn tiếp sợ trể khi điểm quân. Vậy mà vẫn trễ đến hơn 5 phút! Khi cả ba vừa vào cổng đã thấy ông chính trị viên đại đội đứng chờ, ngay bót gác, giọng trọ trẹ Hà Tĩnh.
- Các đồng chí chạy đi mô, mà trễ hơn năm phút?
- Báo cáo đồng chí. Chúng tôi bị vọp bẽ ạ!
- Vọp bẽ cả ba? Các đồng chí đùa chắc. Các đồng chí tưởng rằng hôm qua, các đồng chí đem đồ của quân đội phát cho đi bán lấy tiền, chúng tôi không biết à!? Đảng và nhà nước luôn luôn sáng suốt và theo dõi tân binh các anh rất chặt chẻ. Đó là chủ trương của đảng ta. Miệng mồm các đồng chí còn bóng nhẫy thế kia, có mà chối!?
- Báo cáo, đồng chí. Chúng em đói quá, nên khi thấy chạy về gần quân trường, tạt ngang vào quán tranh thủ cứu đói ạ. Chúng em, thiệt tình rất đói, đồng chí ạ!
- Không có cãi mà nì! Không những ba đồng chí, mà cả tân binh ở đây đều đói! Đó là hậu quả chiến tranh do bọn Ngụy để lại trên đất nước chúng ta. Thằng tổng thống – Ngụy – Nguyễn văn Thiệu, trước khi bỏ nước trốn chạy, đã cướp và mang theo 16 tấn vàng quốc gia ra khỏi đất nước, để bây giờ đất nước này khốn khổ và nghèo đói. Bọn Ngụy quyền miền Nam chỉ biết sống hưởng thụ và xa hoa trên cộng đồng, quê hương dân tộc, trên thân những con điếm sở Mỹ. Chúng chuyên bám vào chân đế quốc Mỹ, ăn bơ thừa canh cặn và hút máu nhân dân miền Nam đau khổ. Đảng và nhà nước ta, vì nhân dân miền Nam, ở miền Bắc phải cắn đôi hạt gạo, hạt muối trong từng hộ gia đình mà chia sẻ đói no cùng nhân dân miền Nam ruột thịt, mến yêu.
Cả ba thằng tân binh đứng im nghe giảng “moran” cái kiểu: đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam bỏ con tép, bắt con tôm… như một thứ kinh nhật tụng của mọi thằng CS tưởng rằng mình nói, kẻ khác im re, là hắn đúng! Hắn không nghĩ rằng, các đồng chí của hắn: đang có trong tay bạo lực và súng đạn dư thừa, từ những nước anh em CS viện trợ để đàn áp nhân dân. Hay hắn ngu đến mức như con Vẹt lập đi, lập lại lời nói đã được gieo vào cái đầu vốn không khai mở nổi, khi nhìn thấy hai miền Nam, Bắc có cuộc sống rất xa cách nhau!
Cả ba im lặng.Họ biết, đừng chống chỏi những tên chiến thắng đầy hãnh tiến. Bọn chúng ăn trên, ngồi trốc trong quân trường, thịt cá ê hề, có hôm phải đổ đi. – Tuấn tự nhủ thầm.
- Ba đồng chí vào hàng. Bơm dầu 100 cái! Rõ?
Bơm dầu, chỉ là hình thức kỷ luật nhẹ. Đứng thẳng, hai tay bắt chéo qua tai, nắm dái tai, ngồi thụp xuống, thụp lên như bơm dầu! Chưa đến 100 cái bơm dầu, ba thằng tân binh háu đói, miệng ói ra những thức ăn vừa tọng vào mồm, mặt xanh lè như trúng phải gió độc, mới được cho vào hàng điểm danh quân số!
“Thằng tham ăn” nhìn Tuấn mỉm cười, khoái trá!
- Mày cứ cười trên sự đau khổ của đồng chí mày. Một ngày nào đó, tao sẽ tính sổ!
&
Khánh Vĩnh là một vùng rừng núi bạt ngàn, chưa được khám phá.Thời người Pháp đô hộ, họ chưa mở đường đến tận nơi núi rừng nguyên sinh, còn nguyên vẹn nét hoang sơ.Thời đệ nhị Cộng hòa cũng vậy.Khánh Vĩnh là một cái gì đó người ta nghe nói tới, nhưng chưa bao giờ bước chân vào. Người ta đồn rằng: khi bước vào khu rừng nguyên sinh, đã thấy cái đầu lâu, với hai cái xương bắt chéo nhau, với tấm bảng ghi:
Nơi cách mạng cư trú. Cấm vào!
Đó là theo lời của mụ Bốn Cao thường đi đường rừng về kể lại.
Sau 1975, một số đông người Dân tộc thiểu số, theo CS, nói rành tiếng Kinh, xuống tiệm hình ông Năm Bóng Tối chụp ảnh để làm lý lịch, họ cũng nói vậy. Đất Khánh Vĩnh đi khó về, nếu không có người dẫn đường.Nơi này cài chông độc, tên độc cả mìm claymor của Mỹ và tự tạo đầy rẫy khắp núi rừng. Vào Khánh Vĩnh chẳng khác nào vào đất chết! Chưa nói đến trên dãy Trường Sơn từ Buôn Mê Thuộc, lính chính qui Bắc Việt nằm đầy rẫy trên những hang núi trùng trùng, có thể tiếp quân bất cứ lúc nào.
Bây giờ, Tuấn đang đứng trên cánh rừng bạt ngàn của Khánh Vĩnh. Nó đúng là bạt ngàn khi những chiếc xe nhà binh lướt qua những con đường đất vừa mới cày sơ sài bằng những chiếc xe ủi cơ giới còn đậu ngỗn ngang hai bên đường. Bây giờ thì nó tang hoang, nát bấy!
Chỉ mới hai năm đầu “giải phóng” miền Nam mà nạn phá rừng đã đến mức trầm trọng.Quân đội phá bằng cơ giới. Người dân bắt đầu đói, cả làng, cả xóm đua nhau lên núi đốn cây, tàn phá rừng như một cơn dịch, để kiếm cái ăn bỏ bụng, khi tem phiếu thực phẩm càng lúc càng thắt chặt hơn. Tại sao, cái đói, nghèo nó đến nhanh như vậy ở miền Nam?Tuấn tự hỏi và tìm ra câu trả lời không khó.Cuộc sống hào nhoáng của những thành phố lớn ở miền Nam chỉ là bề ngoài của một đất nước chiến tranh triền miên, đã làm dân tộc VN kiệt quệ, sống trong vất vưỡng.Ruộng vườn bị bỏ hoang phế không thể canh tác, vì nạn ngày Quốc gia, đêm Cộng sản thao túng. Cộng nạn đổi tiền cướp trắng và đánh tư sản mại bản, những người nghèo gần như hoàn toàn trắng tay…
Khi đến khu trại của công an nhân dân Vũ trang, Tuấn thấy nhiều con đường xuyên rừng bị cày phá làm đường cho xe chạy. Nguyên một khu rừng mấy ngàn héc-ta, bị cày nát, chia cho những cánh quân đội CS làm nơi trú ngụ, học tập. Hải quân, Không quân, Quân đội nhân dân, Công an áo vàng, Công an Vũ trang… gom lại thành một vòng tròn, bịt kín ở chính giữa là một trại Tù Cải tạo và Phục hồi nhân phẩm. Đố có phạm nhân nào vượt được tù ra khỏi nơi đây, dù một con kiến!
Cái nhanh nhất và giỏi nhất mà người CS làm nên trên đất nước này là… nhà tù và trại cải tạo cùng cướp tiền nhân dân! Cái Ngu nhất của CSVN là: ngoài phá rừng ra và chỉ biết trồng khoai mì, khoai lang để sinh sống. Phá rừng để trồng khoai mì và khoai lang để nuôi một quân đội hùng mạnh! Tuấn đã từng đọc những câu chuyện, do những cán binh CS chiêu hồi, viết rằng: cái quan trọng nhất của lính Bắc Việt, đi tới núi rừng Trường Sơn bất cứ nơi nào, có đào củ mì ăn, thì phải chôn lại gắp 3, 4 những “hom” mì cho những lớp đi sau từ miền Bắc vào ăn tiếp. Anh đã không tin, cho là tuyên truyền và bây giờ anh thấy. Không những anh thấy, mà anh là người đang làm cái công việc ngu xuẫn nhất là đốt, và chặt cây rừng để trồng khoai mì, khoai lang cho chính mình và cho các đồng chí sau này ăn! Cả đất nước sau thời hậu chiến, đói mờ mắt vì cái ăn. Quân đội, học đường, nhân dân… cứ cắm cúi, ghim những “hom” mì hai gang tay vào lòng đất, trong 3, 4 tháng sẽ có cái ăn mà không cần chăm sóc nhiều.
Trong ba ngày, gần 10 chiếc xe G.M.C. và Môlôtôva, chạy lên xuống mỗi ngày hai bận, để chở củ mì và củi về quân trường Nha Trang, với đoạn đường trên dưới 50 km. Tuấn và những tân binh nhìn củ mì, thấy ớn tận họng vì đã ăn nó trên ba tháng qua, nhưng vẫn phải nhai nó với lương khô Trung quốc.
- Đất nước còn nghèo sau chiến tranh, do bọn tay sai Ngụy và đế quốc Mỹ để lại!
Đó là những lời nói, đầy trí tuệ!
- Ai đã gây ra cảnh nồi da, xẻ thịt??? Tuấn muốn hét lên thật to, và anh nghe trong máu của núi rừng đang chảy thắm đất, vọng lại âm u.
- Ai… aiai…???
Một con sóc màu đỏ như máu, nhảy qua tàn cây, phóng vút theo tiếng âm vọng của núi rừng Khánh Vĩnh. Tuấn chợt nhớ tới H’Nia, nhớ lão Tôn và mụ Bốn Cao da diết. Anh nhận ra rằng: cuộc đời này, có rồi mất như một hằng cửu của đất trời và cây cỏ.
Hạt bụi hóa thành kiếp thân, rồi cũng trở về với cát bụi; và lập lại như trái đất quay… miên viễn.
&
Ngày cuối cùng được nghỉ, Tuấn đi lang thang trên những cánh rừng bạt ngàn bị chặt, đốt nham nhở. Những chiếc xe cơ giới của mấy binh chủng cứ cày sâu vào rừng. Anh cứ đi miết, mới biết rằng đang bước qua phần đất của công an áo vàng giữ trại tù, khi nhìn thấy cái cổng: Trại
Cải tạo và Phục hồi nhân phẩm, Đồng Găng.
Tuấn xốc lại áo quần chỉnh tề, bước vào bót trại định xin nước uống, thì anh nghe tiếng gọi.
- Phải Tuấn không? – Anh ngơ ngác nhìn. Từ trong một dãy láng, gã công an áo vàng, đeo súng ngắn, mang lon trung sĩ lúp xúp chạy ra, ôm Tuấn.
- Đúng là mày, Tuấn.Sao lại ở đây?
- Ô kìa. Phải Lương không?
Đúng là Lương. Nó là thằng đầu tiên cùng anh nhận cây súng Carbin M.2 vào đầu năm 1975, sau lên núi theo CS. Hai đứa hàn huyên trò chuyện. Chợt Lương nói.
- Này Tuấn. Mày còn nhớ chú Tám, ba thằng Đại?Ông bây giờ đang ở đây.
- Vậy à? – Tuấn thở khó nhọc.
- Cả lão Tôn nữa, mày ạ! Mà sao lão Tôn bị bắt khi đang làm xã đội trưởng?
Tuấn kể vắn tắc câu chuyện, đoạn nói.
- Mày có thể cho tao nhìn chú Tám một chút được không?
Thằng Lương ngập ngừng.
- Tao trách nhiệm láng chú ấy. Mày chỉ nhìn thôi nhé. Cấm nói chuyện!
Cả hai đi vào láng, như trao đổi chuyện trò.Đến trước láng, cả hai dừng lại. Chú Tám – ba thằng Đại – đã đứng trước cửa từ khi nào nhìn Tuấn, như muốn ôm đứa cháu từng là bạn con mình. Dường như, chú cố nén tiếng nấc nghẹn. Chú đứng im, nhìn, tay vẫn vuốt thanh tre rừng. Tuấn sửng sờ nhìn chú.Mới gần hai năm chú già đi và tóc bạc trắng.Hình ảnh của người lính quân cảnh thời VNCH hiện ra trong trí Tuấn. Nó oai hùng biết bao! Nó an dân biết bao! Nó không luộm thuộm như bộ đội, công an CSVN! Và nhất là không làm nhân dân sợ hãi khi thấy họ!
Ôi. Thời gian!
- Dân tộc tôi, là một dân tộc bán khai man mọi, rợ, hay thông minh, khi (thế hệ sau khen) hiến dâng cả con gái yêu của mình, lấy hai Châu Ô và Lý để sau đó, diệt cả dân tộc Chăm, để tiến về phương Nam. (đầy hãnh tiến)? Có phải vậy không?Chắc là không? Nhưng sao, tôi gặp lại người thân như người chú ruột, đã từng thương yêu tôi, bạn bè tôi, cũng như các con của ông ấy, mà không một lời hỏi thăm. Trời cuối năm, gió của núi rừng Khánh Vĩnh xào xạt lá cây cao, đổ nghiêng ngã những bụi mì nằm sát rạt, mà chú với một cái áo vá chùm đụp đến tang thương. Chú làm gì để bị đưa đi cải tạo, phục hồi nhân phẩm!? Những kẽ giết người không gớm tay trong dịp Tết Mậu Thân, những tên khủng bố gài bom dân lành, là những kẻ nên làm lại nhân phẩm làm người. Kẻ thua trận như chú, đã mất tất cả, còn gì gọi là nhân phẩm? Hay nhân phẩm dựa trên những con chữ “hiếp dâm” của chữ nghĩa, cho một sự trả thù nhỏ nhen, đê tiện và tàn ác của một loại vong nô ngoại bang đang bắt đầu bằng trang sử mới?
Một dân tộc thích chém giết và bỏ tù người đồng chủng, hành hạ nhau kẽ ngã ngựa, thì làm sao có thể có một thế giới Đại đồng với những dân tộc khác?
Vậy thế giới Đại đồng là gì? – Tuấn đau nhói.
- Thế giới, cái mả mẹ bọn CS khát máu và khoác lác! Thế giới… bạo dâm bằng chữ nghĩa và mồm của một thứ chủ nghĩa ngoại bang từ… Mút-cu-vào-nhanh!!!
…
Tôi đi giữa ngàn
Trên từng cây số tang thương
Màu xanh của lá đang chuyển vàng
Phá nát… quê hương tôi
Có cánh cờ đỏ sao vàng
Giữa rừng núi âm u
Dập nát cả tương lai
Tôi tự hỏi:
Của tôi hay của cả dân tộc tôi!?
&
Một dân tộc hay một chế độ, một chính quyền… sống trong sự giả dối rất nhiều năm thì cái xã hội ấy sẽ rã rệu ra sao, không cần nói nhiều. Nó sẽ băng hoại tất cả, về mặt dân sự, văn hóa, tâm linh như một tất nhiên.
“Phê và tự phê”, là một chính sách độc hại nhất của con người CS. Không có lỗi lầm gì, cũng phải tự tìm cái lỗi của chính mình và đồng đội mình (mà không có!) để phê!
- Nếu, các đồng chí cho rằng, mình không có lỗi trong đời sống thường nhật, thì ít nhất các đồng chí, đôi lúc cũng có những suy nghĩ khúc mắc này, nọ trong ý tưởng, phải không? v..v… Vậy chúng ta, kiểm điểm lại từ đầu nhé!
Những anh nông dân từng cắm đầu và lưng xuống, cho trời và đất; và những gã kéo lưới chài suốt một thời tuổi trẻ dầm mình trên sóng nước, dễ bị cho ăn “cứt gà sáp” nhất! Chủ trương ngu dân để dễ bề cai trị và sai khiến, làm đám tân binh thất học bị mụ mị cả tinh thần. Họ bắt đầu ra chiêu, bằng cách tự họ ăn cứt gà sáp! Ban đầu họ còn ngu ngơ phê bình lung tung, sau, thấm dần, họ khôn ra theo chiều con số IQ ngược.
“Thằng tham ăn” phát biểu.
- Đồng chí Tuấn là một con người không gắn liền và đoàn kết với đồng đội chúng ta.Đồng chí ấy, thường ngồi riêng một mình đọc sách và thường nghĩ “dớ dẩn”. Đó gọi là… tiểu tư sản tính, phải không các đồng chí!
- Nhưng đồng chí T. cũng sai. Đồng chí luôn háu đói, ăm tham phải không ạ? Đồng chí cũng không coi đồng đội ra gì. – Một gã khác phát biểu.
Tuấn muốn phì cười văng nước bọt, nhưng kềm lại.Bọn này, ban đầu chỉ tìm cách châm chích nhau, sau không thấy hiệu quả, chúng đi dần tới moi móc nhau, để lấy điểm thi đua.Kết quả, là tình đồng chi thắm thiết bắt đầu rạn nứt để tìm cách hảm hại nhau. Từ đó, người CS sống trong bon chen, nghi ngờ lẫn nhau, đánh phá nhau nếu có dịp. Chậm dần, theo năm tháng họ chai cứng tình cảm và trở thành một cánh tay đắc lực nhất của đảng, như một con thiêu thân trung thành vìquyền lợi.
- Còn đồng chí Tuấn thế nào. Có khuyết điểm nào không? – A trưởng Thắng hỏi.
- Khuyết điểm lớn nhất của tôi, là đã dìm đồng chí A trưởng xém chết đuối ở hồ bơi tập thể. Tôi xin nhận khuyết điểm và tự phê bình, làm như vậy là… mất cảnh giác, để địch dễ lợi dụng!
- Báo cáo đồng chí A trưởng. Đêm hôm kia, lúc 1 giờ sáng, tôi thức dậy đi trực ban, tôi thấy đồng chí Tuấn, hình như đang ngồi tu hay làm gì khó hiểu lắm ạ! Có đồng chí A, B cùng thấy khi vào đánh thức tôi đi trực ạ!
Tuấn giật thót mình. Thì ra “thằng tham ăn” nó theo dõi anh bấy lâu. Có những đêm khó ngủ hoặc suy nghĩ nhiều, Tuấn thường ngồi thiền nữa giờ, cho thanh thản.
- Hãy coi chừng Tuấn ơi! Mày biết mà.Chế độ này, nó phải triệt hạ cho bằng hết mọi thứ tôn giáo từ từ.Mọi thứ tôn giáo, đều dạy con người làm điều thiện và sống lễ nghĩa. Bẩm sinh của con người là cái ác và cái thiện rất gần kề nhau, vì thế cần phải xây đắp và gầy dựng lâu dài, nhiều thế hệ, con người mới thuần tính làm người. Khi con người sống hướng thiện thì xã hội sẽ lành mạnh. Khi con người sống trong sự thủ ác ẩn ý, thì xã hội hỗn loạn. Ai nói người CS muốn xây dựng một xã hội ổn định để trị dân.Đó là điều sai lầm to lớn nhất.Họ luôn luôn muốn tạo một xã hội hỗn loạn, để trấn áp, cũng cố cái đảng mang về từ trời Âu, để địa vị ngày một thăng tiến. Vì vậy, họ luôn luôn trấn áp tôn giáo để làm hỗn loạn xã hội theo chiều hướng suy nghĩ của cách cai trị độc ác để độc tài và độc trị.
Khi những con người đã gọi là đồng chí với nhau, mà hằng đêm, họp tổ tam tam (tổ có 3 người) cấu xé nhau, bôi bác nhau, kể tội nhau… rồi cuối tuần họp tiểu đội, rồi cuối tháng họp đại đội. Con người đồng chí bắt đầu giả dối và bất toàn tính nhân văn. Hãm hại nhau để khỏi bị loại ra khỏi vòng thủ ác.Họ trở nên lạnh lùng, không còn sự mẫn cảm trong chiều suy nghĩ làm người.Chỉ có người thủ ác, mới gọi là đồng chí cho nhau và song hành đi bên nhau, vì quyền lợi.Khi không còn gọi là đồng chí của nhau, người CS sẽ triệt hạ đối tượng họ một cách không thương tiếc và dã man nhất.
Ôi, tình đồng chí thắm thiết vô cùng đảng ta ơi! – Tuấn rên lên sau nhiều đêm bị kiểm điểm.
&
29 Tết, mọi tân binh được nghỉ ngơi, được quyền ra khỏi doanh trại không cần báo cáo.Tuấn chẳng biết, phải đi về đâu, khi anh đã chối bỏ quê hương đã nuôi anh khôn lớn. Đã quyết ra đi, không nên trở lại Diên Khánh, nơi anh đã được sinh ra, uống sữa nơi đó, ăn cơm nơi đó… Anh bây giờ như người mất quê hương trên chính đất nước mình.Tuấn đi quanh quẩn trại. Anh nghe tiếng ồn ào từ dưới ban hậu cần vọng lên. Tuấn xuống nhà bếp, nhìn bọn anh nuôi đại đội đang chuẩn bị tiệc Tết, cho buổi chiều nay. Anh nhìn quanh căn bếp, thất vọng khi không thấy một con lợn nào ở đó, như lời đồn hậu cần Tỉnh sẽ cung cấp vào dịp Tết. Tuấn đi vào láng nằm nghỉ trên bộ ván cá nhân.
Có một mùi gì đó tanh tanh khó ngữi cả buổi sáng hôm ấy, mà Tuấn chưa tìm ra. Anh bật dậy nhìn quanh láng cũng không thấy gì! Cuối dãy láng, “thằng tham ăn” đang nằm trùm chăn, kín mặt.Tuấn gõ gõ trên mặt ván giường, “thằng tham ăn” ló đầu ra.
- Ông hổng về nhà à, ngay Nha Trang mà?
- A, đồng chí Tuấn. Quê tôi tận Tuy Hòa, xa lắm đồng chí ơi! Làm gì có tiền, đón xe về quê trong dịp Tết!
- Sao hồi đó ông nói, là dân Lò Heo Nha Trang?
- Hù mấy đồng chí chơi thôi. Ai dè, đồng chí Tuấn… làm thiệt!
- Hỏi thiệt nhé. Còn giận tôi không?
“Thằng tham ăn” trù trừ, mắt nhìn lên trần nhà, nói nho nhỏ.
- Hết rồi, đồng chí Tuấn ạ. – Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, Tuấn biết hắn không thành thật, nhưng vẫn bắt tay.
- Ta hòa nhé, đồng chí Tòng. – Hắn đưa tay ra bắt.
- Mẹ kiếp. Một bàn tay lạnh ngắt! – Tuấn nghĩ.
- Dường như, có một mùi tanh tanh khó ngữi, ông có cảm giác đó?
“Thằng tham ăn” chỉ dưới gầm giường.Tuấn cúi xuống nhìn, thấy một bao bố có ít vết máu loang ra.
- Cái gì vậy?
- Chó!
Mọi thù hằn của Tuấn đối với “thằng tham ăn” chợt tiêu tan! Anh gọi hắn bằng từ “đồng chí” chân thật nhất, lần đầu trong đời.
- Tôi xin lỗi đã đánh đồng hôm ấy, vì thiếu suy nghĩ!
“Thằng tham ăn” ngơ ngác nhìn Tuấn không hiểu. Tuấn khoác áo, đội mũ công an vũ trang. Anh đi ra khỏi doanh trại, hướng về phía biển, hướng Đại lộ, mang tên một vị Vua còn trẻ, vì quốc gia, dân tộc, chịu lưu đày trên một đất nước xa lạ toàn giống dân Da đen, bởi thực dân Pháp không một lời van xin.
Anh đi ra khỏi doanh trại, lòng ngổn ngang, chưa biết dừng chân lại chỗ nào.
(Còn tiếp)
© Đàn Chim Việt