WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Từ toàn quốc kháng chiến tới Điện Biên Phủ

Tình hình sau thế chiến

Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính pháp tại Đông Dương, Đại sứ Nhật yết kiến nhà vua và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam . Bảo Đại bèn tuyên bố độc lập ngày 10-3-1945 và gia nhập khối Đại Đông Á, nhà vua ra tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945. Ông mời Giáo sư Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng thành lập nội các ngày 7-4-1945, lấy bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước làm quốc ca, lấy cờ vàng quẻ ly gồm hai vạch liền và một gạch gẫy ở giữa làm quốc kỳ.

Chính phủ Trần Trọng Kim

Chính phủ Trần Trọng Kim

Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh, Thủ Tướng Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8 vì bất lực, chính phủ không có quân đội. Khi ấy tình hình trong nước rất xáo xộn, Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8, ngày 22-8 họ gửi điện văn vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã cướp được chính quyền. Các vị triều thần như Thủ Tướng, Tổng Lý Ngự Tiền Văn Phòng cũng khuyên nhà vua thoái vị, vì quá sợ hãi Việt Minh đang bành trướng mạnh lại có vũ trang. Tháng 6 năm 1945 Hồ chí Minh đã được Mỹ thả dù xuống chiến khu cung cấp cho VM nhiều súng đủ các loại để chống Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội nên dù muốn chống lại phong trào cũng khó. Ngày 25-8-1945, nhà vua đọc bản tuyên ngôn thoái vị trước cửa Ngọ môn lâu

Ngày 2-9 Hồ chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập.

De Gaulle quyết định tái chiếm Đông dương để đòi lại chủ quyền những nhà máy, đồn điền, cửa hàng, mỏ than… mà Pháp cho là của họ. Tháng 9-1945 Thực dân thành lập Quân đoàn viễn chinh để tái chiếm Đông Dương, họ gặp sự kháng cự mạnh của người Việt và cường độ chiến tranh ngày một gia tăng có thể chia làm 3 giai đoạn (1)

-Chuẩn bị tái chiếm (1945-1946) – Theo dõi tình hình, móc nối Pháp kiều và những thành phần thân Pháp.

-Tái chiếm (1946-1949) – Pháp trở lại Đông Dương sau khi Nhật đầu hàng , đưa quân chiếm lại toàn cõi Đông Dương
-Chiến tranh khốc liệt- (1949-1954) Sau khi chiếm trọn vẹn nước Tầu, Trung Cộng huấn luyện và viện trợ cho Việt Minh nhiều vũ khí, đạn dược khiến tình thế ngày càng bất lợi cho Pháp, họ yếu thế và sa lầy.
Hội nghị Postdam tháng 7-1945 quyết định giao cho quân đội Trung Hoa giải giới Nhật phía trên vĩ tuyến 16, phía dưới thuộc quân Anh

Diễn tiến quân sự

Pháp theo chân quân Anh giải giới Nhật, tới Tân Sơn Nhất với 300 người lính đầu tiên ngày 11-9, sau họ đưa thêm nhiều quân sang chiếm các tỉnh dưới vĩ tuyến 16. Từ giữa tháng 10-1945 tới đầu tháng 2-1946 quân Pháp đã bình định được miền nam, chiếm lại được Vĩnh Long, Cần Thơ, Tây Ninh, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Long Xuyên, Châu Đốc, Cà Mâu….

Trong thời gian này họ đã đưa vào 50,000 quân tham chiến, 7,425 xe cộ đủ loại , 21,000 tấn quân nhu, tổng kết Pháp có 630 người chết và mất tích, 1,037 người bị thương (2)

Đầu năm 1946, Pháp bắt đầu thương thuyết với chính phủ Tưởng Giới Thạch tại Trùng Khánh để được thay thế quân Tầu giải giới Nhật. Sau đó thương thuyết với Việt Minh

Đầu tháng 3-1946 Tướng Leclerc cho đổ bộ lên Hải Phòng , ngày 5-3 quân Pháp và Tầu đã chạm súng nhưng sau đó hai bên đã dàn xếp. Việt Minh ký với Pháp Hiệp định sơ bộ thuận cho Pháp vào BV. Họ mượn tay Pháp để đuổi Tầu về nước (3) và củng cố nội bộ, tiêu diệt các đảng phái quốc gia không CS. Theo tờ tường trình của Tướng Leclerc gửi chính phủ Pháp ngày 27-3-1946 thì tính tới cuối năm, VM đã thủ tiêu, giết hại tổng cộng khoảng 50,000 người

Ngày 18-3 Leclerc đưa quân từ Hải phòng lên Hà nội, ngày 27-3 Leclerc thảo tờ trình Chính phủ cho biết 6 tháng qua (9/1945 – 2/1946) có 600 lính Pháp bị giết, 1,000 bị thương. Từ giữa 1945 Việt Minh được Mỹ thả dù cho nhiều súng đạn để chống Nhật. Tháng 9 sau khi đầu hàng, nhiều người Nhật giúp súng đạn và huấn luyện VM chống lại Pháp vì họ cũng là da vàng. Quốc dân đảng Trung hoa không ưa Pháp và bán súng cho VM nên họ cũng thành lập được một lực lượng vũ trang đáng kể.

Theo nhận xét của Henri Navarre, cựu Tư lệnh Đông dương cuộc chiến này bị đối lập tại Pháp chống lại cho là cuộc chiến ô nhục, nhơ bẩn mà chính phủ không dám đặt tên cho nó. Những đợt tiếp viện, tăng quân yếu kém được thực hiện lén lút (4)

Theo tường trình của Leclerc VM được giúp đỡ nhiều, trước đó họ cũng đã được người Trung hoa và các phái bộ Mỹ giúp về quân sự, chính trị. Họ tuyên truyền mạnh và cả hăm dọa nên số người theo rất đông

Từ đầu tháng 4, quân Pháp lần lượt thay thế quân Tầu tại miền Bắc phía trên vĩ tuyến 16. Từ tháng 4 tới tháng 6-1946 Pháp thương thuyết với VM để giải quyết tình hình bằng ngoại giao, chính trị. Hội nghị Đà Lạt ngày 17-4 không có kết quả, Hồ chí Minh cùng Tướng Salan sang Pháp theo lời mời của chính phủ Pháp từ 22-6 tới 27-7-1946. Ngày 6-7 khai mạc Hội nghị Fontainebleau , hai bên căng thẳng, phái đoàn VN bỏ ra về phản đối Pháp không thực lòng

Hồ Chí Minh ở lại ký bản tạm ước với Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại để hoãn binh. Tình hình căng thẳng giữa Việt Minh và Pháp, nhân vụ nổ súng giữa các đơn vị VM và Pháp tại Hải phòng ngày 20-11-1946, thực dân chiếm luôn thành phố này hôm 23-11.

Leclerc từ chức Tư lệnh từ tháng 7-1946 nhưng vì tình hình căng thẳng, chính phủ Pháp cử ông sang Đông Dương điều tra ngày 18-12 nhưng đã quá trễ, hôm sau ngày 19-12-1946 chiến tranh toàn quốc bùng nổ khi VM tấn công quân Pháp tại Hà nội. Tình hình hai bên đã quá căng thẳng từ nhiều ngày trước.

Quân Pháp tại phía trên vĩ tuyến 16 có hơn một sư đoàn không đủ để bình định hết miền Bắc mà chỉ đủ giữ các thành phố. Trong mấy tháng đầu năm 1947 Pháp giải tỏa quốc lộ 5 nối Hà Nội Hải Phòng.

Chiếm Phủ lý 6-1-1947. Từ Đà Nẵng tiến ra Huế giải tỏa đơn vị Pháp bị vây tại đây, chiếm Quảng Trị ngày 18-2, chiếm Đồng Hới đầu tháng 3. Chiếm nhanh chóng mỏ than Hòn Gay. Chiếm các miền Thái thuộc Sơn La Lai Châu.

Đầu tháng 4-1947 tân Cao ủy Bollaert vận động thương thuyết với VM nhưng bất thành và chuyển sang tiếp xúc với Bảo Đại lập chính phủ Quốc gia chống Cộng Sản từ tháng 9-1947. Cựu hoàng ở Hồng kông hướng các hoạt động chính trị về quốc nội.

Tháng 10-1947 Pháp mở cuộc tổng tấn công qui mô lên miền rừng núi Việt Bắc để tiêu diệt chủ lực quân VM tại đây. Họ huy động 20 tiểu đoàn bộ binh và nhẩy dù có chiến xa yểm trợ. Trung Tướng Salan chỉ huy tổng quát chiến dịch: cánh thứ nhất từ Hà nội chiếm Sơn Tây, Hưng Hóa, Phủ Đoan Hùng, cánh thứ hai dọc theo quốc lộ 4 chiếm Thất Khê, Đông Khê. Giữa hai gọng kìm này là những cánh quân nhẩy dù chiếm Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang ngày 13-10-1947, trong cuộc nhẩy dù xuống Bắc Cạn, Pháp đã bắt hụt Hồ chí Minh. Ngoài ra còn những nỗ lực phụ chiếm Tây Bắc Việt Bắc, chiếm Phong Thổ, Chapa. Cuộc hành quân không tiêu diệt được chủ lực quân VM vì họ né tránh để bảo toàn lực lượng. Sau đó Pháp rút về đồng bằng chỉ để lại quân tại vùng Đông Bắc Việt Bắc tại khu tam giác Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn.

Sang năm 1948, Pháp mở rộng vùng chiếm đóng tại Quảng Yên, Kiến An, Hà Đông, Ninh Bình, chiếm đóng Sơn Tây và Việt Trì. Phía VM mở rộng hoạt động du kích, quấy phá đồn bót, phục kích công voa.

Pháp kiểm soát được Nam việt nhưng vùng Đồng Tháp Mười, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Tây bắc Thủ Đầu Một… vẫn thuộc VM. Ngày 1-3- 1948 VM phục kích tiêu diệt đoàn công voa Pháp, tiêu diệt 70 xe gần La Ngà trên Quốc lộ 20. Các tỉnh Quảng Nam , Quảng Ngãi và Bình Định ở trong tay VM vì Pháp không đủ quân số để chiếm toàn thể lãnh thổ
Sang năm 1949 tháng 7 và tháng 8 Pháp mở các cuộc hành quân chiếm Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên; tháng 9 chiếm Phát Diệm và Bùi Chu.

Năm 1950 tình hình biến chuyển mau lẹ, gió đã đổi chiều khi Trung Cộng chiếm trọn vẹn nước Tầu. VM được họ tiếp tế vũ khí đạn dược ồ ạt và huấn luyện tại biên giới. Trung Cộng giúp VM thành lập hai sư đoàn đầu tiên 304, 308 bằng kết hợp các trung đoàn chủ lực tại BV và Trung Việt. VM đã đủ mạnh và bước sang giai đoạn cầm cự , tháng 9-1950 họ mở chiến dịch chiến dịch Lê Hồng Phong vào vùng Tam Đảo, uy hiếp Lào Kay, và mở chiến dịch Hoàng văn Thụ chiếm Đông Khê trên quốc lộ 4 khiến Cao Bằng bị cô lập.

Trước tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương nghiên cứu tình hình. Revers đề nghị với chính phủ cho rút khỏi Cao Bằng và được chấp thuận, đáng lẽ thực hiện sớm cuối năm 1949 nhưng vì để trễ tới cuối năm 1950 nên đã bị thảm bại.

Tháng 10-1950 VM đánh thắng trận lớn đầu tiên mà họ gọi là chiến thắng Cao Bắc Lạng. Tại trận này quân Pháp rút bỏ Cao Bằng bị chận đánh tan nát

Giữa tháng 10-1950 Pháp bỏ Lào Kay rút về Lai châu, bỏ Hòa bình.

Hạ tuần tháng 12-1950 Chính phủ Pháp cử Đại tướng De Lattre de Tassigny sang giữ chức Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh. Ngay từ giai đoạn này quân số VM đông hơn Pháp tại miền Bắc Pháp có khoảng 23 tiểu đoàn, VM có khoảng 70 tiểu đoàn, miền Trung Pháp 14, VM 18…Tháng 3-1951 De Lattre về Pháp xin tăng viện và được chấp thuận 11tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn truyền tin (5)

De Lattre là người có quyết định táo bạo tại trận Vĩnh Yên khi cho lệnh ném bom napalm ngay giữa mặt trận, ông quyết định nhanh chóng đã thắng lớn trong trận này. Đầu năm 1952 De Lattre về Pháp chết vì bệnh ung thư.

Tháng 1-1951 VM đã thành lập được 5 sư đoàn bộ binh (304, 308, 312, 316, 320) và một sư đoàn pháo binh (351), họ có 81 tiểu đoàn bộ binh 12 tiểu đoàn pháo binh, 8 tiểu đoàn công binh.

Các trận đánh quan trọng và các chiến dịch lớn gồm:

Trận Cao Bắc Lạng

Từ giữa và cuối 1949, Trung Cộng thắng thế tại Hoa lục, tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers sang Đông dương nghiên cứu tình hình, ông đề nghị rút bỏ Cao bằng . Nếu thực hiện cuối 1949 thì thuận lợi nhưng vì để tới gần cuối 1950 mới cho rút nên đã thảm bại. Trận đánh kéo dài từ từ 29-9 tới 7-10-1950, toàn bộ quân Pháp triệt thoái gồm 7,000 người. Đại tá Charton chỉ huy đạo quân rút khỏi Cao Bằng về Đông Khê. Đại tá Lepage chỉ huy một lực lượng khoảng 5 tiểu đoàn để tái chiếm Đông Khê. Cả hai cánh quân bị một lực lượng lớn của VM khoảng 30 tiểu đoàn chận đánh tan nát.

Tổng cộng Pháp mất hai liên đoàn phải bỏ Lạng Sơn. Trận đánh rung động cả nước Pháp, thiệt hại trên 7,000 người vừa bị giết vừa mất tích, mất 13 khẩu đại bác 105 ly, 125 súng cối, gần 500 xe cộ, 3 chi đội thiết giáp, 940 đại liên, 1,200 trung liên và trên 800 súng trường . Số vũ khí này VM có thể trang bị cho 5 trung đoàn bộ binh (6)

Trận Vĩnh Yên từ 13-1-1951 tới 17-1-1951

Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, ngày 7-12-1950 chính phủ Pháp hốt hoảng cử Tướng De Lattre De Tassigny sang Đông Dương vào lúc này người Pháp đang mât tinh thần. Ông vừa làm Cao ủy vừa giữ chức Tư lệnh quân viễn chinh, lần đầu tiên một Tướng lãnh chỉ huy cả dân sự và quân sự. De Lattre tới Đông Dương ngày 17-12-1950 để cứu vãn tình thế và cũng để rửa hận cho trận thảm bại nhục nhã Cao -Bắc- Lạng cách đây hai tháng.

Tân Tư lệnh dám quyết định những việc mà các Tư lệnh trước không ai dám làm như tập trung xử dụng những người dân sự Pháp để đảm nhiệm canh phòng thay thế cho người lính để ra trận (7)

Sau trận đại thắng Cao Bằng mới đây, Việt Minh thừa thắng sông lên đem binh về “lấy nốt Thăng Long”. Ngày 10-1-1951 Võ Nguyên Giáp đưa hai sư đoàn 308, 312 chuẩn bị một cuộc tấn công lớn tại Vĩnh Yên gần Hà Nội và Châu thổ Bắc Việt. Việt Minh giải truyền đơn ní “Bác Hồ về Hà Nội ăn Tết”, tình báo Pháp đã biết VM tập trung quân ở đâu và mục tiêu chọn vào ngày nào.

Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương Pháp được đánh một trận diện địa chuẩn bị trước. Võ Nguyên Giáp được cố vấn Tầu dậy cho lối đánh biển người, đẩy thanh niên vào tử địa. Trận đánh diễn ra tại một vùng đồi trọc chiều ngang 12 km, dọc 10 km, phía Bắc tỉnh lỵ Vĩnh Yên. VM tập trung quân tại vùng núi Tam Đảo, lực lượng VM gồm 2 sư đoàn 308, 312; Pháp gồm hai liên đoàn: liên đoàn bắc phi của Đại tá Edon, liên đoàn 3 của Đại tá Vanuxem đóng tại các đồn phía Tây để ngăn chận VM.

Ngày 13-1 Giáp cho tấn công chia cắt hai liên đoàn Pháp, Võ Nguyên Giáp gần hoàn thành lời hứa, Hà Nội mất tinh thần, bao chí Paris đăng tin Hà Nội sắp mất.

De Lattre bèn đích thân chỉ huy trận đánh. Ngày 14-1-1951 ông bay tới Vĩnh Yên, cho trưng dụng tất cả máy bay chở quân trừ bị từ miền nam VN ra Bắc, và cho tiếp tế từ Hà nội, từ miền Bắc. De Lattre lệnh cho hai lữ đoàn chiếm các ngọn đồi phía bắc Vĩnh Yên. Ngày 16-1 lúc 15 giờ Pháp chiếm lại đồi 101, 210, lúc 17 giờ sư đoàn 308 tập trung tấn công mạnh, lần đầu tiên quân Pháp đối diện với trận đánh biển người.

VM xung phong hết lớp này đến lớp khác cùng với yểm trợ của súng cối, hai bên đã trộn trấu. De Lattre có một quyết định thật táo bạo, ông huy động hàng trăm máy bay oanh tạc cơ và vận tải ném bom napalm, đây là trận oanh tạc lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương, lửa cháy ngút trời giết hại đối phương và hy sinh cả binh sĩ của Pháp.

Với lối đánh táo bạo, dũng mãnh, De Lattre đánh cho Võ Nguyên Giáp và các cố vấn Tầu tả tơi, VM bị thiệt hại nặng, 6,000 bị giết, bị thương 8,000, 500 bị bắt làm tù binh, Pháp tổn thất một nửa.

VM trộn trấu tưởng là Pháp sẽ không dám pháo hay oanh tạc nhưng không ngờ De Lattre táo bạo, thí quân cả hai bên. De Lattre tung vào trận địa các đơn vị trừ bị trưa 17-1 và cho ném bom napalm đã đẩu lui những đợt tấn công cuối cùng của VM.

De Lattre đã cứu được Vĩnh yên và Hà Nội, ông cho tổ chức duyệt binh để trấn an dân chúng. Sau đó Pháp củng cố phòng thủ chờ VM. De Lattre gấp rút cải tổ quân đội và thành lập nhiều liên đoàn lưu động tại BV để phòng thủ chống VM. (8)

Võ Nguyện Giáp thất bại nặng ở Vĩnh Yên, ngày 23-1 ông ta nhận sai lầm, cũng lên án các chiến binh thiếu can đảm, hèn nhát và ca ngợi dân công đã mang tới mặt trận 5,000 tấn thực phẩm, súng đạn (9)

Trận Mạo khê.

Tháng 3-1951 Tướng Giáp cho mở trận tấn công định chiếm vùng núi Đông triều ở Tây Bắc Hải Phòng. Pháp có ba căn cứ bảo vệ khu quân sự Mạo Khê: Một đồn trên đồi mỏ Mạo Khê, một đơn vị chiên xa đóng tại khu phố Mạo Khê, một đại đội đóng tại nhà thờ Mạo Khê, tổng cộng 400 người.

Phía VM gồm sư đoàn 308, 312, 316, đêm 23-3 VM tấn công hạ 7 đồn dọc theo tỉnh lộ 18. Đêm 26-3 De Lattre tiên đoán VM sẽ tấn công đồn Mạo Khê, ông huy động gửi 3 tiểu đoàn tới, cho hải đoàn xung phong vào sông Bạch đằng yểm trợ hải pháo. Một giờ khuya 27-3 VM pháo kích, tấn công đồn mỏ Mạo Khê, sau nhiều đợt tấn công nhưng binh sĩ trong đồn chống cự và đẩy lui các đợt xung phong.

Mười giờ sáng VM tấn công đồn và cả khu nhà thờ Mạo khê, quân Pháp có máy bay và hải quân yểm trợ nhưng VM rất đông, một máy bay Hellcat bị bắn hạ. Tối 27-3, VM mở cuộc tấn công chót vào đồn và khu phố Mạo khê, phá hủy ba chiến xa Pháp. Sáu giờ sáng VM rút lui và không chiếm được mục tiêu.

VM có 500 người bị giết, Pháp khoảng 200, đây là trận thứ hai của VM đánh vào đồng bằng, De Lattre coi đây là chiến thắng quan trọng.

De Lattre sang Đông dương từ đầu năm 1951 tới nay được gần nửa năm đã phải đương đầu với hai trận lớn của VM. Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, quân Pháp mất tinh thần nhưng De Lattre với chiến thuật táo bạo, dũng mãnh đã chuyển bại thành thắng nâng cao tinh thần chiến đấu quân sĩ. Ông cho lập phòng tuyến bảo vệ châu thổ BV, chuyển bớt các đơn vị đóng đồn không cần thiết thành những đơn vị lưu động.

Trận Bờ sông Đáy. (10)

Trận qui mô được Tướng Giáp chuẩn bị chu đáo phía VM đưa vào ba sư đoàn 304, 308 và 320, Pháp cũng huy động lực lượng lớn gồm: 3 liên đoàn lưu động, một liên đoàn thiết giáp, hai tiểu đoàn nhẩy dù, 3 hải đoàn, 4 tiểu đoàn pháo, 30 chiến đấu cơ. Một trận đánh kéo dài 26 ngày trên một chiến tuyến dài 80km gồm nhiều giai doạn. Sư đoàn 308 đánh Ninh Bình, sư đoàn 304 đánh Phủ lý, sư đoàn 320 đánh vào giáo khu Phát Diệm phía nam Ninh Bình.

Gồm có 4 trận:

1- Ninh Bình (29-5 tới 30-5)
2- Yên Cư Hạ (4-6 tới 18-6)
3- Phát Diệm (8-6 tới 9-6)
4- Đông bắc Phủ lý (20-6 tới 23-6)

Tại trận Ninh bình VM để lại 350 xác chết , 153 súng trường, 40 tiểu liên, 12 trung liên, 2 đại liên, 9 súng cối. Phía người Pháp chết và bị thương 1,000 người, nhiều đại bác bị phá hủy, các tầu chiến bị hư hại, con trai De Lattre tử trận tại đây.

Trận Yên Cư Hạ từ 4-6 tới 18-6-1951, đây là một đồn kiên cố, xây bằng bê tông, có hàng rào kẽm gai. Tại trận này VM chết 200 người, hai đại đội Pháp giữ đồn chỉ còn vài chục người sống sót.

Trận Phát Diệm từ 8-6 tới 9-6. Sư đoàn 320 vào giáo khu Phát Diệm, uy hiếp tinh thần, phô trương lực lượng.

Trận Đông Bắc Phủ lý từ 20-6 tới 23-6. Trận phản công qui mô của Pháp vào vùng Phủ lý, Ninh bình, VM bị thiệt hại rất nhiều.

Qua các trận đánh thấy VM chưa thể thắng ở đồng bằng nhưng địch đã mạnh hơn trước. Hai bên tổn thất nặng. Pháp huy động nhanh các lực lượng tiếp viện hải, không quân.

Trận Hòa Bình

Tháng 9-1951, De Lattre chuẩn bị đánh Thanh Hóa nhưng đoàn tầu chở quân gặp bão nên phải quay về. De Lattre đổi ý cho đánh chiếm Hòa Bình, ông huy động 15 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn nhẩy dù, 2 liên đoàn thiết giáp, 7 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 2 hải đoàn xung phong . Cuộc hành quân Hòa Bình ngày 9-11-1951 gồm 3 lực lượng và chiếm tỉnh dễ dàng. VM huy động các sư đoàn 304, 308, 312 tới mặt trận.

Đầu tháng 12 VM gây áp lực quanh Hòa Bình qua trận Tu Vũ, Xóm Phèo, họ chiếm được đồn nhưng bị thiệt hại nặng, VM phục kích đoàn tầu trên sông và bộ binh Pháp trên đường số 6, tại trận Xóm Phèo VM thiệt hại nhiều.

Salan thay thế De Lattre cho rút khỏi Hòa Bình, giữ Hòa Bình bất lợi vì địch có cao xạ bắn chính xác những máy bay hạ cánh, phục kích đoàn tầu. Binh lính hay bị sốt rét, chiến trường rừng núi không thích hợp với Pháp. Ngày 22-2-1952 bắt đầu rút để lo bảo vệ đồng bằng, tới 24-2 cuộc triệt thoái coi như chấm dứt.

De Lattre chuyển bại thành thắng, lên tinh thần quyết tâm đánh Hòa Bình nhưng tại rừng núi nhiều bệnh tật, Pháp thua VM tại rừng núi nhưng thắng tại đồng bằng. Lên rừng mất ưu thế không quân, binh sĩ không chịu nổi khí hậu rừng núi. Hòa Bình là một thất bại cho Pháp

Trận Miền Thái từ 11-10-1952 tới 1-12-1952. Xứ Thái gồm Sơn La, Lai Châu. Lực lượng VM tấn công xứ Thái gồm các sư đoàn 308, 312, 316, sư đoàn pháo 351 và các đơn vị công binh. Ngày 17-10 sư đoàn 308 đánh đồn Nghĩa lộ trong đó có 700 quân Pháp, VM pháo dữ dội rồi xung phong chiếm đồn bắt nhiều tù binh. Các đồn ở miền này bị đánh, chiếm, VM làm tan rã hệ thống phòng thủ dọc sông Hồng.

Hành quân Lorraine .

Pháp mở cuộc hành quân Lorraine ngày 29-10-1952 nhằm tấn công các tuyến giao thông, cơ sở VM tại Việt Bắc. Trung Tướng Salan lên làm Tư lệnh thay thế De Lattre, ông giao cho Tướng Linares (Tư Lệnh BV) chỉ huy và điều động chiến dịch gồm 4 liên đoàn lưu động, 3 liên đoàn nhẩy dù, 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 liên đoàn thiết giáp, 2 hải đoàn xung phong, 2 tiểu đoàn pháo, tổng cộng 30,000 người.

Pháp tảo thanh một vùng rộng lớn giữa sông Hồng và sông Đáy. Bộ chỉ huy đóng tại Việt Trì. Ngày 9-11 các tiểu đoàn nhẩy dù xuống bao vây Phủ Đoan, thị trấn bỏ ngỏ, Pháp chiếm được một kho quân nhu lớn. Ngày 14-11 tới Phủ Yên Bình cách Phủ Đoan 60 km về hướng Bắc không gặp kháng cự, không gặp người dân nào. Pháp mệt mỏi phải rút, VM cho 2 trung đoàn về đối phó. Ngày 17-11 Pháp lọt ổ phục kích VM dài 4km tại thung lũng Chấn Mương từ sáng tới 4 giờ chiều, Pháp nhờ không quân yểm trợ mới thoát ra khỏi, Pháp thiệt hại gần một tiểu đoàn

Pháo Lũy Nasan.

Trong khi ấy, Salan cho lập pháo lũy Nasan, ông chủ trương lập những cứ điểm mạnh dựa trên các sân bay hơn là mở những cuộc hành quân phiêu lưu.

Nasan là một thung lũng dài 2km, ngang 1km, xung quanh có 24 ngọn đồi. Một vị trí chiến lược quan trọng giữa các đường tiến quân tại miền Thái, các ngọn đồi ngăn chận đường tiến quân VM, mục đích của chiến lũy.

1- Để đón các toán quân Pháp rút từ các đồn bị cô lập ở Tây Bắc và Đông Nam
2- Ngăn chận VM tiến về Lai Châu
3- Tiêu diệt chủ lực quân VM nếu họ tấn công

Mặt trận Pháp bị chia làm hai, một ở Nasan và một ở Lai Châu. Pháo lũy Nasan thiết lập đầu tháng 11-1952, được tăng cường ngày 1-11 khi các đơn vị Thái được đưa về đây, một liên đoàn lưu động VN được chở tới bằng máy bay. Ngày 21-11 có ba tiểu đoàn nhẩy dù các pháo đội được đưa tới. Cuối tháng 11-1952 pháo lũy Nasan gồm tổng cộng 10 tiểu đoàn trong đó có lính nhẩy dù, bộ binh, các tiểu đoàn Thái. Ngoài ra còn một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo binh với 5 pháo đội, 2 chi đoàn thiết giáp, di chuyển khó khăn, bị hạn chế nên chỉ có 10 quân xa tiếp tế, tải thương. Đại tá nhẩy dù Gilles được giao chỉ huy mặt trận này.

VM tấn công đêm 23-11-1952 nhưng bị đẩy lui, đêm 30 rạng 1-12 VM thật sự tấn công lớn nhưng thất bại. Đêm 1 rạng 2-12 VM mở cuộc tấn công quyết liệt suốt đêm, họ chiếm được hai điểm tựa 21bis và 22 bảo vệ sân bay. Pháo binh Pháp bắn liên tục, trận đánh kéo dài tới hôm sau. Pháp cho nhẩy dù xuống đỉnh đồi mới giải tỏa được , VM bỏ lại hơn 600 xác chết và tịch thu được nhiều súng, trận này VM bị thiệt hại nặng, sau đó VM chỉ pháo kích chứ không đánh. Tổng kết mặt trận Nasan Pháp cho biết VM bị mất 5,000 người. Trận miền Thái chấm dứt, Pháp giữ được Lai Châu, Nasan. Người Pháp cho rằng việc thiết lập pháo lũy Nasan là tốt và sau đó họ thiết lập thêm pháo lũy tại cánh đồng Chum, tại Séno, và cuối cùng tại Điện Biên Phủ đưa tới thất bại.

Điện Biên Phủ.

Tháng 5-1953, chính phủ Pháp cử Đại Tướng Henri Navarre sang làm Tư lệnh Đông Dương thay Trung tướng Salan để cứu vãn tình hình quân sự tại đây. Ông cho lập một chiến lũy, một căn cứ lớn tại ĐBP.

Theo Navarre (11) mục đích cho đóng quân tại đây để ngăn chận VM tiến đánh Thượng Lào và tạo mặt trận lớn để địch không đánh châu thổ BV. ĐBP là một khu lòng chảo có núi đồi bao quanh, là một cánh đồng dài 12 km rộng 9 km. Những đỉnh núi cao cách phi trường từ 10 tới 12 km, sẽ thiết lập đồn lũy quanh đó. Khoảng cách này ngoài tầm pháo của địch.

Chiến lũy ĐBP được xây dựng theo kiểu pháo lũy Nasan năm trước, Pháp tin tưởng cũng sẽ chống lại VM hữu hiệu và gây thiệt hại nặng cho đối phương. Navarre cho lập chiến lũy ngoài những mục tiêu kể trên còn để dụ VM lại giết một mẻ lớn làm suy yếu đối phương vì họ nay đã đông, mạnh hơn trước (12). ĐBP cách châu thổ BV 200 km, cách biên giới Tầu 300 km, cách Hà Nội 300 km.

Ngày 13-3-1954 trận đánh khởi đầu, Pháp có 12 tiểu đoàn, trong khi chiến trận diễn ra, Pháp cho nhẩy dù thêm 5 tiểu đoàn, tổng cộng toàn bộ vào khoảng 15,000 người. Phía VM tổng cộng có 5 sư đoàn chính qui vào khoảng 50,000 người, chưa kể 25,000 dân công tiếp tế . VM có 600 xe vận tải chở đạn dược tiếp liệu từ Trung Cộng sang ĐBP.

ĐBP chia làm ba khu, phía Bắc gồm hai căn cứ tại hai ngọn đồi, khu Trung ương gồm 5 trung tâm kháng cự và khu Isabelle ở phía Nam .

Hai tiền đồn phía bắc bị thất thủ vào ngày 13 và 14-3 sau một ngày giao chiến, hỏa lực địch quá mạnh, sau ngày 26-3 chỉ tiếp tế được bằng thả dù, số phận ĐBP đã được định đoạt. Tổng thống Eisenhower và các cố vấn đã nghiên cứu kế hoạch cứu nguy ĐBP bằng oanh tạc ồ ạt, Tòa Bạch ốc đã thảo luận, dự định trong suốt tháng 4-1954 nhưng kế hoạch bất thành.

Trận đánh kéo dài từ ngày 13-3 tới ngày 7-5 thì ĐBP thất thủ, 11 ngàn quân Pháp bị bắt làm tù binh, trên 2,000 bị giết chưa kể trên 2,000 mất tích, VM thiệt hại khoảng 10,000 người.

Pháp thảm bại vì lực lượng địch đông gấp 4 lần, hỏa lực phòng không và pháo binh của VM do Trung Cộng cung cấp rất mạnh. Ngoài ra không quân Pháp thiếu khả năng yểm trợ cho một trận đánh quá lớn. Navarre chưa có kinh nghiệm về Đông Dương đã sai lầm cho lựa chọn trận đánh tại một địa điểm xa xôi chỉ tiếp tế được bằng máy bay mà thực ra không quân Pháp quá yếu, toàn chiến trường Đông Dương họ chỉ có chưa tới 200 máy bay.

ĐBP là trận đánh lớn nhất và quan trọng nhất trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất đồng thời cũng là một trong những trận đánh quan trọng trên thế giới.

Tình hình chính trị

Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8. Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại thoái vị, ông được Hồ chí Minh mời làm cố vấn. Tháng 9-1946 ông được đưa qua Trùng Khánh để tiếp xúc với Tưởng Giới Thạch, sau đó Cựu hoàng bỏ trốn qua Hồng Kông.

Khi đã chiếm được được các thành phố tại Trung châu Bắc Việt, Trung Việt, các tỉnh cao nguyên, Nam Bộ. Pháp bằt đầu chiêu dụ dân chúng, đón tiếp người hồi cư, trả lương cho công chức. Dân tản cư kéo về ngày một đông hơn, dân quê có, dân tỉnh hồi cư cũng có, họ không tin tưởng vào cuộc kháng chiến gian khổ và đẫm máu của Việt Minh.

Người Pháp tính tới việc dùng chiến tranh tâm lý, chính trị để tranh thủ nhân tâm, họ cần một người ôn hòa, thân Pháp, được toàn quốc biết tới, giúp họ để chiêu dụ người dân. Cựu hoàng Bảo Đại là người đủ điều kiện và có thẩm quyền nhất, ông đã là vua, được nhân dân kính trọng, có tinh thần quốc gia và công nhận quyền lợi của người Pháp. Họ nghĩ tới cựu hoàng Bảo Đại và tìm cách mời ông về nước. Báo Thời sự ở Hà Nội đưa ý kiến thỉnh cựu hoàng hồi hương lãnh đạo phong trào Quốc gia chống Cộng và dành độc lập.

Nhiều cuộc biểu tình khá lớn để ủng hộ và yêu cầu cựu hoàng về nước cứu vãn thời cuộc như tại Huế ngày 12-8-1947, ở Hà nội ngày 1-9-1947 và cả Sài Gòn (13). Ngài đã là vua nay đứng đầu nước là lẽ tự nhiên , năm 1945 Ngài thoái vị để tránh đổ máu để bây giờ đất nước bị chiến tranh tàn phá.

Giải pháp Bảo Đại được nêu ra từ đầu 1947 nhưng hai năm sau mới thực hiện được.

Nhiều nhà cách mạng lưu vong taị Hồng Kông đề nghị cựu hoàng về gánh vác việc quốc gia, người Pháp cũng liên lạc với ông đề nghị tương tự nhưng ông vẫn dè dặt. Bảo Đại tuyên bố với phái đoàn quốc nội ra mời Ngài về nước, ông nói tôi vì hạnh phúc của dân mà thoái vị, nay nếu nhân dân lại muốn tôi giúp nước và điều đình với Pháp tôi sẽ sẵn sàng nhận để đòi hỏi độc lập thống nhất cho Việt Nam.

Ngày 6-12-1947 Bảo Đại nhận lời mời của Cao uỷ Bollaert và gặp ông tại vịnh Hạ Long để trao đổi nhận xét tình thế rồi lại về Hương Cảng. Ngày 19-12-1947 một phái đoàn gồm ông Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu sang Hương Cảng thúc dục Cựu hoàng về lãnh trọng trách, ông chấp nhận và nói còn phải sang Âu châu vận động.

Kế hoạch thành tựu, ngày mồng 5-6-1948 trên một chiến hạm tại vịnh Hạ Long, Bollaert nhân danh chính phủ Pháp long trọng tuyên bố nước Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Cựu hoàng Bảo Đại xác nhận chính thức việc điều đình với Pháp trên căn bản đó và công nhận một chính phủ lâm thời do Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân điều khiển. (14)
Trong giai đoạn đầu chính phủ Quốc gia chưa có quyền, chỉ có tính cách tượng trưng, lo giúp dân hồi cư, mở trạm cứu thương, trường học, đáng kể là lập toà án, các đoàn cảnh vệ, trường Võ bị Huế, nơi huấn luyện sĩ quan Quốc Gia Việt Nam đầu tiên.

Ngày 8-3-1949 tại điện Elysée, Cựu hoàng và Tổng thống Pháp Vincent Aurilole trao đổi văn thư thừa nhận Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 14-6-1949 Quốc Trưởng Bảo Đại hiệu triệu quốc dân tại toà Đô sảnh Sài Gòn sau khi miền Nam sáp nhập vào lãnh thổ Quốc gia, Cựu Hoàng kêu gọi nhân dân hãy đồng tâm nhất trí. Người dân cho rằng Pháp trả được phần nào hay phần nấy, nay Ngài đã về y như nhà có nóc.

Chính phủ Bảo Đại chấp chính từ tháng 7-1949 đến đầu năm 1950, kế đó là các chính phủ Nguyễn Phan Long 1950, Trần Văn Hữu 1950-1951. Chế độ không có hiến pháp mà chỉ có hai đạo dụ ngày 1-7-1949 về tổ chức công quyền. Quốc trưởng có quyền lập pháp, ban hành đạo dụ, Thủ tướng được ủy nhiệm do Quốc trưởng bổ nhiệm.

Từ 1947, cách đây hai năm, sau khi Pháp mở rộng các khu vực chiếm đóng tại các thành phố miền Bắc và Trung bộ, người dân trong vùng Việt Minh đã trở về các thành phố ngày một đông. Cửa hàng cửa hiệu đã đầy hàng hóa nhập cảng, Pháp tạo không khí sinh hoạt ổn định và lấy lòng dân. Nay Cựu hoàng về nước trị vì đã gây được niềm tin tưởng nơi người dân y như nhà có nóc mà núp, có cột mà dựa. Từ đấy dân chúng hồi cư tấp nập về thành thị, trong tháng 7-1949 mỗi ngày có vài nghìn người, riêng ngày 30-10 tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây số người trở về lên tới 35,000 người. Quân Pháp lan tràn kiểm soát vùng duyên hải đông dân như Bùi Chu, Phát Diệm ngày 16-10-1949. Công chức kéo về rất nhiều, chính giới Pháp Việt đã cho giải pháp Bảo Đại đem lại thắng lợi trước cảnh hồi cư đông đúc tại nhiều tỉnh miền Bắc, người dân bỏ già Hồ về với Cựu hoàng.

Diện tích vùng thuộc Pháp tại Trung châu tăng lên gấp ba, số ruộng cầy cấy tăng lên nhiều. Gạo xuất cảng từ 59,000 tấn năm 1945 tăng lên 379,000 tấn năm 1950, nhân công dồi dào, an ninh bảo đảm hơn, các ngành sản xuất than đá, vải sợi, xi măng, đường… đều tiến bộ. Trị giá nhập cảng năm 1946 là 16 tỷ đồng quan Pháp đến năm 1949 tăng lên 73 tỷ đồng. Hàng hoá tràn ngập các cửa tiệm, chợ búa, các ngành sản xuất cũng tiến hẳn lên, lương bổng công tư chức khá cao. Cựu hoàng về nước đem theo nhiều thuận lợi, vùng chiếm đóng nay là vùng Quốc Gia mở rộng dễ dàng, Việt Minh chỉ đột kích, khủng bố chưa có trận đánh lớn. (15)

Từ 1949, chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã được một số khá đông các nước công nhận và đã bắt đầu bước vào chính trường ngoại giao, đã được gia nhập trên 30 cơ quan quốc tế với tư cách hội viên: Ủy hội kinh tế Viễn đông Ecafe, Tổ chức Y tế quốc tế, Lao động quốc tế, Lương nông Quốc tế, Văn hóa Quốc tế Unesco… Hoa kỳ đã đặt Phái bộ viện trợ quân sự từ ngày 6-3-1950, viện trợ thương mại từ tháng 7-1950, đã ký kết hiệp ước tương trợ Việt Mỹ.

Quân đội Quốc gia được thành lập và phát triển nhanh, năm 1950 mới có 5 tiểu đoàn, năm 1951 tăng lên 26 tiểu đoàn, năm 1953 lên 6 sư đoàn gồm 167,000 binh sĩ và 3,500 sĩ quan, lương bổng do chính phủ trả tượng trưng một ít còn lại do Mỹ đài thọ. Cấp chỉ huy được đào tạo tại các trường võ bị, trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khai giảng 5-11-1950, trường Quân y thành lập 7-8-1950, trường Không quân thành lập 24-6-1951, trường Hải quân từ 1-1-1952. Các tổ chức quân sự khác cũng được thành lập như Toà án quân sự ngày 22-11-1951, Bộ Tổng Tham Mưu ngày 12-4-1952. Nhiều luật lệ quân sự được ban hành : Qui chế Quân đội Dụ số 1 ngày 30-1-1051, Bộ Quân luật Dụ số 8 ngày 14-4-51, Chế độ Quân dịch Dụ số 29 ngày 29-6-53.

Tổ chức Tư pháp và các Toà án Việt nam do Dụ số 4 ngày 18-10-1949, Qui chế các thẩm phán, do các Sắc lệnh ngày 1-12-1950, Toà án Hành chánh được thiết lập từ 5-1-1950.

Hành chánh địa phương: Các Hội đồng đô thành, thành phố và thị xã được tổ chức từ 1952.

Các tổ chức chuyên môn hành chánh như Viện thống kê ngày 10-12-1949, Việt Nam thống tấn xã ngày 22-1-1951, Quốc gia kiến ốc cục 15-6-1951, Sổ số kiến thiết Quốc gia 16-8-1951, Sở Du lịch Quốc gia 5-6-1951, Công ty hàng không 30-10-1951, Trường Quốc Gia Hành chánh 7-4-1952.

Giáo dục văn hoá: Trường Đại Học Văn Khoa, Sở Bảo tồn cổ tích ngày 4-1-1950, Trường Cao đẳng sư phạm 16-1-1950.
Kinh tế xã hội. Bộ Luật Lao động ban hành ngày 10-7-1952, Bộ luật cải cách điền địa ngày 4-6-53.

Qui chế nghiệp đoàn 16-11-1952; Qui chế Công chức Quốc gia Dụ số 9 ngày 14-7-1950; Qui chế các Hiệp hội Dụ số 10 ngày 6-8-1950; Qui chế Thể thao thanh niên Sắc lệnh 53 ngày 17-6-1950; Qui chế Hàng hải Dụ số 6 ngày 19-4-1951; Bộ luật thuế trực thu, gián thu Dụ số 4 ngày 13-4-1953….

Từ tháng 7-1949 đến tháng 7-1954 Quốc gia Việt Nam đã có 8 chính phủ và 5 vị Thủ tướng .

Chính phủ Bảo Đại Từ 1-7-1949 đến 22-1-1950, hơn 6 tháng

Chính phủ Nguyễn Phan Long từ 22-1-1950 đến 6-5-1950, hơn 3 tháng

Chính phủ Trần Văn Hữu từ 6-5-1950 đến 21-2-1951, 9 tháng rưỡi.

Chính phủ Trần Văn Hữu từ 21-2-1951 tới 7-3-1952, 12 tháng rưỡi.

Chính phủ Trần Văn Hữu 7-3-1952 tới 25-6-1952, 3 tháng18 ngày

Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 25-6-1952 tới 8-1-1953, 6 tháng rưỡi

Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 8-1-1953 tới 11-1-1954, 12 tháng 3 ngày

Chính phủ Bửu Lộc từ 11-1-1954 tới 7-7-1954, gần 6 tháng. (16)

Chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chính từ ngày song thất 7-7-1954 đúng hai tháng sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ, hai tuần trước Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7, sau đó chính phủ Quốc gia rút vào Nam

Nhận xét và kết luận.

Việt minh cướp chính quyền năm 1945 và tiêu diệt các đảng phái thành phần yêu nước không Cộng Sản. Ngay từ đầu họ đã gây đổ máu giữa lòng dân tộc trong khi cần đoàn kết để đánh thắng thực dân.

Tướng Navarre , cựu Tư lệnh Đông Dương đã nhận xét về VM như sau : VM hoạt động mạnh tại Bắc phần, họ chờ Nhật thua trận để cướp chính quyền. Họ khéo léo được Mỹ giúp đỡ và dựa vào chính phủ lâm thời Pháp. Họ lấy cảm tình Mỹ, giả vờ là phong trào Quốc gia chống Nhật, chống thực dân. VM lấy lòng chính phủ Pháp mới (chính phủ thân đồng minh), họ lừa gạt chỗ này, bịp bợm chỗ nọ. Họ chống Nhật cho có hình thức để lấy lòng Mỹ (17)

Thật vậy VM tuyên truyền mạnh nên phong trào phát triển nhanh, đồng thời với tuyên truyền họ cũng kết hợp bạo lực cách mạng để ép buộc người ta theo. Như đã nói trên, cuộc tổng nổi dậy của VM cũng đã khiến mấy vạn người phải bị giết oan uổng trong đó có tình nghi, đảng phái Quốc gia không CS, những người thân Pháp. Phong trào VM không phải chỉ gồm toàn là người yêu nước như Tây phương nghĩ mà trong đó nhiều người theo VM vì sợ bị hãm hại.

Trước ngày Trung Cộng chiếm trọn nước Tầu tháng 10-1949, VM còn yếu. Súng đạn của họ một phần do Mỹ giúp để chống Nhật, phần do quân Nhật khi đầu hàng trao lại, họ mua súng lậu của Tầu, nhưng VM cũng đã tổ chức thành nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn và trung đoàn. Giai đoạn này họ tránh đụng chạm với Pháp và kiểm soát được vùng thôn quê.

Người Pháp mặc dù kiểm soát được nhiều thành phố,tỉnh lỵ nhưng thiếu quân số nên không bình định được hết các vùng của VM tại miền Bắc. Khi Mao Trạch Đông đại thắng tại chiến trường Hoa lục thì gió đã đổi chiều với thực dân Pháp. Việt Minh được Tầu giúp vũ khí, huấn luyện tại biên giới đã trở thành một lực lượng quân sự chính qui mạnh đủ khả năng tấn công đồng bằng Bắc bộ. Trận thắng lớn của VM tại Cao Bắc Lạng cuối năm 1951 mở đầu cho thất bại của thực dân Pháp tại Đông Dương.

De Lattre, Tư lệnh Đông dương từ cuối 1950 đã đánh bại được VM nhiều trận trong năm 1951 khiến quân Pháp lên tinh thần. Sang năm 1952 Tướng Salan lên thay De Lattre, VM ngày càng mạnh hơn, quân lưu động ngày một đông hơn Pháp. Giữa năm 1953, Tướng Navarre được cử sang thay Salan khi tình thế ngày càng bất lợi. Pháp quá mệt mỏi vì cuộc chiến sa lầy, trong khi VM được Trung cộng viện trợ quân sự ngày càng dồi dào, quân Pháp tại Đông dương không được tăng viện nhiều, đa số chi phí dựa vào viện trợ Mỹ.

Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954 sau gần hai tháng cầm cự. Một phần vì sai lầm của Navarre , phần vì Không quân Pháp quá yếu. Toàn chiến trường Đông dương họ chỉ có khoảng 200 máy bay trong khi thập niên 60, 70 tại miền nam VN, không quân Mỹ có nhiều ngàn máy bay, chưa kể không quân VNCH. Hội nghị Genève tiếp theo ngay sau ĐBP đưa tới chia đôi đất nước ngày 20-7-1954.

Trong thời kháng chiến này người dân vùng thôn quê, thượng du vô cùng gian khổ, ban ngày quân Pháp hành quân bắn phá, cướp bóc hãm hiếp. Ban đêm VM về thu thuế, bắt bớ, thủ tiêu tình nghi phản động. Nhiều người trốn lên tỉnh để thoát khỏi cảnh một cổ hai chòng.

Giaỉ pháp Bảo Đại mang lại nhiều thành quả tốt đẹp, người dân từ các vùng lửa đạn đã trốn về thành, họ không tin tưởng cuộc kháng chiến đầy máu lửa của VM. Quốc trưởng Bảo Đại đã xây dựng được nền móng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam , tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa sau này. Người Pháp ngoan cố theo đuổi chính sách thuộc địa lỗi thời không những bị người bản xứ chống đối mà cả Hoa Kỳ và chính phủ Tưởng Giới Thạch đều không muốn Pháp trở lại Đông Dương. Đối với người Việt quốc gia, quân Pháp là đồng minh chống lại VM Cộng Sản, người Quốc gia tuy hợp tác với Pháp nhưng chỉ chờ thắng được VM để đòi Pháp trao trả độc lập. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta năm 1945 nhưng họ cũng chiến đấu chống Cộng Sản bảo vệ chúng ta, xương máu của 75,500 chiến sĩ quân đội Liên hiệp Pháp đã giữ được một nửa nước VN tự do.

Cuộc chiến đẫm máu tám năm khói lửa do VM khởi xướng cuối năm 1946, chấm dứt giữa năm 1954 đã khiến khoảng 300,000 thanh niên tử trận, 500,000 bị thương, thường dân có 150,000 người thiệt mạng. Quân đội Liên hiệp Pháp có 75,500 người tử trận, Quân đội QGVN có 419,000 người gồm cả chết, bị thương và bị bắt (18). Miền Bắc đã trở thành bãi chiến trường, nhiều thành phố, tỉnh lỵ trung du, đồng bằng bị tàn phá.

Mấy năm sau miền nam cũng biến thành bãi chiến trường tàn khốc trong một cuộc chiến khác dài và đẫm máu hơn.

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

(trích trong Điện Biên Phủ, Kế Hoạch Cứu Nguy, Nguyên Nhân Thất Thủ, in 2014)

————————————————————–

Chú thích

(1) Quân Sử 4, Quân lực VNCH Trong Giai Đoạn Thành Hình, Bộ TTM VNCH trang 11, 12
(2) Sách kể trên trang 95, 96
(3) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 15 nói chúng ta công nhận VN là một nước độc lập, có Quốc hội, Quân đội, Tài chính nằm trong Liên hiệp Pháp, đổi lại chúng ta được thay 200,000 quân Tầu bằng 15,000 quân Pháp phía trên vĩ tuyến 16
(4) Sách kể trên trang 17
(5) Quân sử 4 trang 46, 47, 48
(6) Quân sử 4 trang 124, Street Without Joy trang 32, 33
Trong bài Bataille de la RC4 (wikipedia) , Việt minh có 670 người bị giết, bị thương, Pháp 2,000 ngưòi tử thương, 3,000 bị bắt làm tù binh
(7) Street Without Joy trang 36
(8) Quân sử 125-128, Street Without Joy trang 37- 40
(9) Street Without Joy trang 40
(10) Quân sử 4 trang 133-144
(11) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine , trang 188-200
(12) Bernard Fall, Hell In A Very Small Place , Preface trang ix
(13) Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, Quyển thượng, 1939-1954, trang 144
(14) Sách kể trên trang 158, 160, 161
(15) Sách kể trên, trang 173,174
(16) Sách kể trên trang 206-210
(17) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 13
(18) Wikipedia, Yahoo.fr: Guerre d’Indochine

72 Phản hồi cho “Từ toàn quốc kháng chiến tới Điện Biên Phủ”

  1. Hùng says:

    “Cũng nhờ giặc Mỹ nó…đài thọ mà Hoàng Sa mí Trường Sa còn thuộc chủ quyền của …cò vàng ba que VN quê hương ngạo nghể..”.
    Thằng đếch nào làm mất Hoàng Sa vào tay giặc Tàu tháng 1/1974?
    VNCH chỉ chiếm được 5 đảo ở Trường Sa. VNCS nay chiếm đóng đến 21 đảo và bãi cạn.

    • Hùng says:

      Việt Cộng như chú mày đã hỏi thì anh mày xin thưa,

      Đương nhiên là Cộng Sản Bắc Việt làm dân tộc Việt Nam mất Hoàng Sa!

      Mùa hè năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt đánh Việt Nam Cộng Hòa tơi tả, Tổng Tiến Công đấy nhé…, từ làng trên đến thôn dưới, xã trong ấp ngoài đều banh xác….thế thì đến năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa lấy mẹ gì mà còn sức để giử Hoàng Sa!

      Chú mày chưa nghe cái câu, hai thằng đánh một , không chột cũng què hay sao?

      Cộng Sản lần lượt “chơi” bề hội đồng luân xa chiến hiếp dâm dân tộc Việt ta, hết thằng Cộng Bắc Việt tấn công rồi đến đến thằng Tàu Cộng tấn công, thế thì làm sao quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa chịu cho nổi.

      Việt Cộng như chú mày đừng có ma ranh chạy cái tội giúp Tàu Cộng chiếm Hoàng Sa của dân tộc ta nhé!

    • Nguyen Hung says:

      Quần đảo Trường Sa gồm có 15 đảo nhỏ và trên 130 đá, bãi nổi và chìm, bãi san hô . Quần đảo này hiện nay không những chỉ Việt nam và Tàu cộng mà các nước khác như Đài Loan, Phi, Malai và Brunây cũng chiếm giữ .

      Nói là ” chiếm giữ” cho oai, chớ nếu không có siêu cường Mỹ lên tiếng trong vụ tranh chấp Biển Đông thì Việt nam đã bị loại ra khỏi danh sách các nước đang tranh chấp và vô khối ” liệt sĩ ” Quân Đội Nhân Dân VN đã về chầu Hà Bá từ lâu rồi.

      Những thành tích ô nhục giữ biển đảo của bè lũ ngụy quyền Cộng sản Hà nội hãy còn đây này:

      Gạc Ma : Hải quân Việt Nam đứng im làm bia thịt cho Hải quân Tàu cộng nã súng phòng không vào người :

      https://www.youtube.com/watch?v=aqblBfAfIrA

      Hoàng Sa: Cảnh sát biển Việt nam bị Hải quân Tàu cộng đái vào đầu :

      http://thanhnien.vn/thoi-su/video-clip-tau-trung-quoc-phun-voi-rong-xoi-xa-vao-tau-cuu-ho-viet-nam-78948.html

    • Bà năm trầu says:

      Thằng chó chệt Hùng nầy ăn cái đếch gì mà ngu đến thế?

      Mầy phải hỏi nếu thằng đếch Hồ đếch Đồng không ký công hàm công nhận thì bố thằng Tàu cộng có dám xua quân chiếm Hoàng Sa hay không?
      Nếu thằng đếch Hồ không làm tay sai cho CS Tàu thì dân VN giàu có cỡ nào so với dân Singapore, dân Nam Hàn và cả vùng Á Châu?
      Nếu thằng đếch Hồ ngu không làm chó săn cho Mao ác thì dân Việt có phải làm đĩ làm nô lệ tứ phương và gục mặt khi vào siêu thị thấy hàng chữ Coi Chừng Dân Việt Cộng Ăn Cắp trên thế giới?
      Nếu mấy thằng đếch Việt Cộng không bán nước sao dân Việt ngày đêm lo sợ bị ngộ độc thực phẩm của Tàu? Nơm nớp ngủ không yên bởi sáng mai có thể phải học tiếng Tầu vì VN là một tỉnh của Tầu?
      Vậy chó chệt Hùng nên hát bài Hôm qua em mơ gặp Bác Khùng!

  2. Tien Ngu says:

    Dưới cái cặp mắt…hí của cò mồi VNCL, chúng diễn tã VNCH là…ma, là cờ vàng ba que xõ lá, còn Cộng láo mới là….thứ thiệt.
    VNCH là do Mỹ…đài thọ, còn VNCL là…ngon lành, tự…sãn xuất, chỉ có…bác đảng đài thọ, ngoài ra không có mần…tay sai chho đế quốc nào cả…

    Mắc cười quá, dân VN bây giờ không còn ngu như cái thuở 54-75, nhắm con mắt, em nào cũng thấy rỏ, không có Nga Tàu đài thọ, làm éo gì có chiến thắng Điện biên Phủ, làm éo gì có VNCL?

    Cái khốn nạn là, lãnh đạo bộ đội CL. toàn thứ…dốt, chúng chỉ chơi đuợc cái màn…biển người, thí quân của Tàu, thành ra các em bộ độ CL, chỉ mới biết đọc biết viết, Nghe lệnh là….nhào lên, chết như rạ. Hy sinh thân mình cho toàn dân máng cái nạn….Cộng láo. Khốn nạn cả …mấy đời…

    Phi nghĩa lý!….

    VN không bị nạn…Cộng láo, dân tộc không bị tụt hậu, rã rời cả một thế kỹ dài.

    Phong trào thuộc địa hoàn toàn bị phá sãn ở thế kỷ 20. VN không cần Cộng láo giãi phóng từ tay giặc Pháp.

    Người Việt dưới tay giặc Pháp còn biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Dưới tay giặc Cộng thì…chỉ biết lừa nhau mà sinh tồn. Bán thân, bán đất cho Tàu Cộng, bán linh hồn cho lũ…Giáo Điếm…

    Thiệt….thãm….

  3. Vĩnh Long says:

    Quái lạ!!!

    Quốc gia Việt nam mà tại sao lại do giặc Pháp ra quyết định thành lập: https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam

    Quân đội quốc gia Việt Nam mà tại sao lại do giặc Pháp ra quyết định thành lập: https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%99i_Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam

    Thằng ăn cướp lại ra quyết định thành lập chủ nhà bị ăn cướp!!!???

    • Nguyen Hung says:

      Có gì là lạ đâu hả (dư)lợn (viên) vl – Cờ Đỏ Kinh Nguyệt Đàn Bà .

      Sau Thế Chiến Thứ Hai, ở Âu châu nổi lên xu hướng giải phóng thuộc địa . Về vấn đề này, ở bên Pháp có những quan điểm chính trị đối nghịch nhau . Lợi dụng cơ hội này, các đảng phái quốc gia ở Việt nam đã mở các cuộc thương lượng với thực dân Pháp . Và đã đạt được giải pháp sơ khởi là Việt Nam được độc lập nhưng phải đứng trong khối Liên Hiệp Pháp – chính Hồ chí Minh cũng đã ký Hiệp ước ký ngày mùng 6 tháng ba năm 1946 thỏa thuận đặt Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp . Và ngày 11 tháng 5 năm 1950, thủ tướng Trần Văn Hữu đã tuyên bố thành lập Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam do ngân sách quốc gia đài thọ 40%, phần còn lại do Pháp gánh chịu.

      Sau Hiệp Định Geneve, Bảo Đại bị truất phế, thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa, và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam từ đó cải tên là Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa .

      Hoa kỳ đã từ chối giúp Pháp cho mãi đến khi thấy Mao trạch Đông chiếm được Trung Hoa và ra sức giúp Việt Minh Cộng sản . Mục đích viện trợ của Hoa kỳ là để “Ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản ở vùng Đông Nam Á Châu”. Và sự viện trợ này có kèm theo điều kiện Viện trợ chỉ được chấp thuận với một điều kiện tiên quyết kèm theo là: “Pháp phải thành thực trao trả quyền Độc Lập, Tự do, cho các Chính phủ Quốc gia không Cộng sản tại Đông Dương, và xúc tiến nhanh chóng việc thành lập, huấn luyện, và trang bị quân sự cho các Quốc gia này có đủ khả năng tự vệ, tiêu diệt Cộng sản địa phương, bảo đảm an ninh cho dân chúng phát triển kinh tế. Đặc biệt phải để cho các Quốc gia này có quyền Tự do giao thương trực tiếp với tất cả các nước Tư bản, ngoài khối Liên Hiệp Pháp, không phải qua trung gian của Pháp.”

  4. Xác chết Ba đình says:

    Quân đội QGVN được Mỹ và p Pháp giúp huấn luyện để tìm giết bọn Việt Minh, chúng nhân danh dành độc lập mà thực ra rước Nga, Tầu về dầy mả tổ, Việt Minh đi tới đâu dân chạy thấy mẹ tới đấy, hơn một triệu người phải chạy vào Nam năm 1954
    Tiếc quá giá hồi đó mà bắt được thằng già Hồ chặt đầu nó đi thì có phải nhân dân không điêu linh đổ xương máu mấy chục năm trời

  5. Cờ vàng xỏ lá ba que says:

    Trích từ bài chủ: “Quân đội Quốc gia được thành lập và phát triển nhanh, năm 1950 mới có 5 tiểu đoàn, năm 1951 tăng lên 26 tiểu đoàn, năm 1953 lên 6 sư đoàn gồm 167,000 binh sĩ và 3,500 sĩ quan, lương bổng do chính phủ (quốc gia) trả tượng trưng một ít còn lại do Mỹ đài thọ”.

    Ủa! Sao kỳ vậy?
    Quân đội quốc gia Việt Nam mà chính phủ quốc gia Việt Nam chỉ trả lương tượng trưng một ít, còn lại thì do Mỹ đang giúp giặc Pháp xâm lược Việt Nam đài thọ. Vậy cái gọi là quân đội quốc gia Việt Nam là quân đội của Việt Nam hay quân đội của giặc Pháp, giặc Mỹ?
    Quân đội quốc gia Việt Nam ăn lương của giặc Mỹ đang giúp giặc Pháp xâm lược Việt Nam thì quân đội đó chắc chắn phải do giặc Pháp, giặc Mỹ lãnh đạo, chỉ huy và chiến đấu vì quyền lợi của giặc Pháp, giặc Mỹ chứ không thể chiến đấu vì quyền lợi của dân tộc, đất nước và nhân dân Việt Nam.
    Quân đội quốc gia Việt Nam mà do giặc Pháp, giặc Mỹ trả lương; chịu sự lãnh đạo, chỉ huy của giặc Pháp, giặc Mỹ; chiến đấu vì quyền lợi của giặc Pháp, giặc Mỹ chứ không chiến đấu vì quyền lợi của dân tộc, đất nước và nhân dân Việt Nam mà ngược lại quân đội quốc gia Việt Nam lại cùng với giặc Pháp và giặc Mỹ chiến đấu chống lại quyền lợi của dân tộc, đất nước và nhân dân Việt Nam. Vì vậy, nên nhân dân Việt Nam mới gọi quân đội quốc gia Việt Nam là quân đội bù nhìn, tay sai, đánh thuê cho giặc Pháp và giặc Mỹ – Ăn lương của giặc Pháp và giặc Mỹ tức là đánh thuê cho giặc Pháp, giặc Mỹ chứ giặc Pháp và giặc Mỹ không dại gì trả lương cho một quân đội chiến đấu chống lại chúng..

    • Tien Ngu says:

      Mắc cười quá…

      Nghe em cò mồi rình miết mới chọt được cái chử…đài thọ của giặc Mỹ, giặc Pháp mà dành…chính nghĩa VC.
      Thiệt, chán mớ đời…

      Mẹ bà nó, Cộng láo mà có chính nghĩa thì nó đâu có…đào mồ cuốc mã, trã thù ngay cả người chết? Biến cả dân tộc VN hành…láo.

      Quân đội quốc gia VN lúc ấy nhờ có giặc Mỹ…đài thọ, miền Nam VN sau này mới có cơ sở mà ngăn chận được giặc Cộng láo 20 năm. VN có được chút chút kiến thức về tự do, nhân quyền….

      Không có giặc Mỹ nó đài thọ, cả nước đã…thấy mẹ với giặc Cộng láo như dân miền Bắc từ khuya rồi!

      Dưới tay Cộng láo, dân miền Bắc biết mẹ gì thế nào là tự do, nhân quyền? Em nào cũng là cái…súc vật hay cái máy….người, cò mồi Cộng láo hát cái gì, thì nghe theo cái đó mới có….phiếu thực phẩm….

      Cũng nhờ giặc Mỹ nó…đài thọ mà Hoàng Sa mí Trường Sa còn thuộc chủ quyền của …cò vàng ba que VN quê hương ngạo nghể..

      Không có giặc Mỹ nó…đài thọ, thì giặc Cộng không chừng giao hết VN mẹ nó cho…Trung quốc vĩ đại lâu rồi, đừng nói chi đến ba cái Hoàng sa, Trường sa lẽ tẽ….

      Bớt láo đi cò mồi à, Cộng láo cái đéo gì cũng nà….nhân dân cả. Nhưng nhân dân rỏ ràng là luôn bị…khốn nạn với lũ Cộng.

      Nhờ theo cái phương cách của cờ vàng ba que xõ lá mà Cộng láo đở đói được chút chút, không biết cãm ơn, còn tiếp tục…láo?

    • Giặc cờ đỏ says:

      Cũng nhờ Mỹ nó đài thọ mà nhân dân miền Nam chống ác cộng và . . .Thọ được 20 năm đó láo à!
      Cũng nhờ Mỹ đài thọ mà dân VNCH khá giả có TV, tủ lạnh, đồng hồ, xe đạp honda, không ít người có cả xe hơi, nhà lầu.
      Cũng vì của đài thọ nầy mà Hồ Chí Minh xúi đám Bắc cộng vào cướp giựt mà còn bày đặt giải phóng giải phét, chống xâm lược.
      Cũng nhờ của đài thọ của VNCH mà sau 30/4/75, bộ đội cáo Hồ quăng bỏ loại. . . Đồng-Hồ có tụi Nga Tàu lái vô thùng rác, chỉ khoái loại đồng hồ hai cữa sổ không người lái.

      Cướp được, hưởng được của Đài Thọ như vậy, chẳng biết ơn mà còn xách mé. Đúng là bọn bất lương cờ Đỏ không biết phải nhét loại cờ đó vô cái. . . lổ gì?

  6. người chuyển lửa says:

    Ba Đình Kể Chuyện

    Trời đất hỡi sao người ta quái ác!
    Chọn tôi làm nhà xác của ma vương
    Thằng gian manh, quân trở tráo lật lường
    Đem thờ phượng làm cha già dân tộc.

    Thật hết nói, không còn gì tủi nhục!
    Cho giống nòi Hồng Lạc bốn nghìn năm
    Bằng một tội đồ bạc ác vô luân
    Nằm trơ trẽn giữa kinh thành đất nước.

    Tôi biết hắn sáu chín năm về trước
    Từ hang chồn Bắc Pó đã về đây
    Bịp bợm, điêu ngoa, phản bạn, lừa thầy
    Làm “cách mạng” một mùa Thu tháng Chín.

    Tôi thấy hắn trên khán đài vung vít
    Nào thì là dân chủ với tự do
    Nào thì là độc lập và ấm no
    Nào thì là nhân quyền cùng hạnh phước.

    Nhưng rồi hắn làm hoàn toàn trái ngược
    Với những gì hắn đọc ở tuyên ngôn
    Còn bạo tàn hơn bọn Pháp thưc dân
    Và độc tài hơn triều đình phong kiến.

    Thì ra hắn toàn ăn gian nói phét
    Góp nhặt từ hiến pháp của trời tây
    Để mị dân Hà Nội vốn thơ ngây
    Nghe hắn nói tưởng ông thần giải phóng.

    Họ hồ hỡi hò reo niềm vui sướng
    Người đây rồi, bác vĩ đại Hồ Minh!
    Đã ngược xuôi tất tả cuộc đời mình
    Đem tâm huyết tìm con đường cứu nước.

    Họ đâu biết hắn ta vừa lén lút
    Rước búa liềm của chủ nghĩa Lê nin
    Cùng tượng đài Các mác với Ân zên
    Về thay thế đấng Hùng Vương quốc tổ.

    Họ đâu biết hắn là tên đầu sỏ
    Đảng tôi đòi phò Cộng sản Liên xô
    Với dã tâm cướp cạn cái cơ đồ
    Đem sát nhập vào phong trào quốc tế.

    Rồi những gì xãy ra trên Miền Bắc
    Và những gì tiếp diễn ở Miền Nam
    Khiến dân tộc ta khủng khiếp kinh hoàng
    Nhưng đã muộn tan hoang rồi tổ quốc!

    https://fdfvn.wordpress.com

  7. Ngô Dân says:

    Năm 1946 Pháp theo Anh vào miền Nam vì mien Nam là thuộc địa của Pháp, còn miền Bắc Pháp muốn vào nhưng chưa vào được, chính Hồ Chí Minh là người ký hiệp định Fontainblue cho Pháp vào Bắc Việt dù ông ta biết rõ là sau đó sẽ tốn biết bao xương máu để đánh đuổi Pháp ra.

    Ngày 6 tháng 1 – 1946, 1 cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trên cả nước VN bầu ra 1 Quốc Hội đa đảng đầu tiên của VN.
    Cuộc họp Quốc hội lần thứ nhất ngày 2 tháng 3 -1946 bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước.

    https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_h%E1%BB%99i_Vi%E1%BB%87t_Nam_kh%C3%B3a_I
    3 tháng sau ngày 31/5/1946, Hồ bay qua Pháp xin Pháp trở lại VN đô hộ VN dù Hồ biết rõ ( và Pháp cũng biết Hồ sẽ phản bội nhưng Pháp không thể bỏ qua cơ hội này) là 2 bên sẽ đánh nhau sau khi Pháp giúp Hồ đẩy Tàu Quốc dân đảng ra, coi ở đoạn: “Đêm trước khi Hồ trở về Việt Nam, ông Salan nói với Hồ, và Hồ đã phải biết đó là sự thật- “Chúng ta sắp đánh nhau, và nó sẽ rất là khó khăn.” Thật vậy, Hồ nói với Sainteny và Marius Moutet, “Nếu chúng ta phải đánh nhau, chúng ta sẽ đánh…Các ông giết mười người của chúng tôi và chúng tôi giết một người của các ông, nhưng phe các ông sẽ là những người trở nên mệt mỏi.”
    https://truehochiminh.wordpress.com/2014/06/26/ho-chi-minh-mang-phap-ve-lan-thu-ba/ .
    Biết rõ là sẽ có chiến tranh sau khi mình rước Pháp vào, biết rõ là quân dân mình sẽ chết 10 đổi lấy 1 Pháp, vậy mà vẫn cõng rắn về cắn gà nhà, vậy Hồ là hạng người nào?

    • NON NGÀN says:

      HIỆP ƯỚC FONTAINBLEU

      Đây là hiệp ước trật chìa
      Tại sao biết đánh vẫn thời ký chi
      Đã xong Thế chiến rồi mà
      Pháp đà mất cẳng cớ sao lại gờm ?

      Tạo cho quân Pháp quay vào
      Nổ ra kháng chiến lộn nhào nước non
      Đúng là cách tính thiệt hơn
      Sau này lịch sử phải cần xem thêm !

      NGÀN KHƠI
      (08/12/15)

  8. Nguyen Hung says:

    Khi quân Cộng sản Bắc Việt xâm lược chiếm Sài gòn tháng Tư năm 75, chúng cướp được 16 tấn vàng rồi chở về Bắc, mặt khác vu khống cho cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang số vàng này ra ngoại quốc .

    Thế còn số phận của kho vàng bạc trong hoàng thành nhà Nguyễn sau khi vua Bảo Đại thoái vị ra sao ?

    Cựu thủ tướng Trần Trọng Kim cho biết : Trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán. Khi quân Nhật sắp đầu hàng có đưa trả lại chính phủ Việt Nam bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết về sau ai lấy mất .

    • DẶM NGÀN says:

      CẢM THÁN

      Những ngày lịch sử nhiễu nhương
      Chỉ toàn gió bụi có tường không ai
      Non sông chỉ biết thở dài
      Dân tình cay đắng ngậm ngùi xiết bao
      Thật là quả trách Trời cao
      Xót xa sự thể giống nòi hỡi ơi

      PHƯƠNG NGÀN
      (08/12/15)

  9. Nguyen Hung says:

    “…Tháng 6 năm 1945 Hồ chí Minh đã được Mỹ thả dù xuống chiến khu cung cấp cho VM nhiều súng đủ các loại để chống Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội nên dù muốn chống lại phong trào cũng khó “. Tác giả: Trọng Đạt .

    Về vấn đề này, ông Trần Trọng Kim giải thích rằng : Việc phòng bị do quân Nhật đảm nhiệm hết. Vì lẽ đó và các lẽ khác nữa mà lúc đầu chúng tôi không đặt bộ quốc phòng. Một là trong khi quân Nhật đang đóng ở trong nước, nếu mình đặt bộ quốc phòng thì chỉ có danh không có thực, và người Nhật có thể lợi dụng bắt người mình đi đánh giặc với họ. Hai là trước khi mình có đủ binh lính và binh khí, ta hãy nên gây cái tinh thần binh bị, thì rồi quân đội mình mới có khí thế.

    Nhiều người ở ngoài không hiểu ý chúng tôi buông lời bài xích rằng sao có chính phủ mà không có bộ quốc phòng. Họ không biết rõ tình thế lúc bấy giờ bắt chúng tôi phải trù tính mọi việc cho chu đáo, tránh làm những việc hớ hênh có hại cho dân cho nước.
    .

    • ÉO LE

      Pháp sang đô hộ nước ta
      Đuổi hoài không được quả là nhục thay
      Mãi rồi Thế chiến thứ hai
      Nhật qua hất Pháp ta liền thất kinh

      Cũng may kết quả hiền lành
      Nhật ra bại trận trở thành lao đao
      Trao ta độc lập tự do
      Uổng là không giữ cũng do mệnh trời

      Thuyền mành non nước xa khơi
      Dập vùi sóng gió tơi bời lá hoa
      Chiến tranh máu lệ chan hòa
      Một thời ý hệ nay đà về đâu

      Non sông tím ngắt một màu
      Đỏ vàng xanh trắng quả hầu tang thương
      Bây giờ mới lại lên đường
      Khi nào tới bến can trường là đây

      PHIẾN NGÀN
      (08/12/15)

  10. Ma VNCH says:

    Cái gọi là chính phủ của Trần Trọng Kim (và cả những chính phủ phe quốc gia sau đó) cũng như cái gọi “nền độc lập” của Việt Nam do phát xít Nhật và thực dân Pháp trao trả thật nực cười.
    Chính phủ và độc lập kiểu gì mà lại thân thiết với quân xâm lược là phát xít Nhật và thực dân Pháp.
    Chính phủ và độc lập kiểu gì mà chỉ có mấy ông ngồi chồm hổm trên “trung ương” chứ không có chính quyền từ cấp tỉnh xuống cấp xã, không có quân đội, công an, ngoại giao, tài chính, vân vân…, tất cả đều do ngoại bang nắm giữ, lãnh đạo và chỉ huy.
    Chính phủ và độc lập kiểu gì mà lại không nắm được nhân dân, không được dân ủng hộ và bảo vệ. Nếu chính phủ đó nắm được nhân dân, được dân ủng hộ và bảo vệ thì Việt Minh không thể biến cuộc mít tinh tại tại quảng trường Nhà hát Lớn ở Hà Nội vào ngày 17/8/1945 của Tổng hội công chức chính quyền Trần Trọng Kim để ủng hộ chính phủ ông Kim thành cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh. Cũng như các “chính phủ” sau này của Bảo Đại, của Nguyễn Phan Long, của Trần Văn Hữu, của Nguyễn Văn Tâm, của Bửu Lộc cũng tương tự như chính phủ ma của Trần Trọng Kim nên Việt Minh mới được nhân dân ủng hộ và bảo vệ nên đã đánh thắng giặc Pháp xâm lược.
    Tóm lại, cái gọi là các chính phủ phe quốc gia từ Trần Trọng Kim năm 1945 đến Bửu Lộc 1954 đều là chính phủ ma. Cái gọi là độc lập của Việt Nam mà giặc Nhật trao cho chính phủ Trần Trọng Kim và giặc Pháp trao cho các chính phủ phe quốc gia đều là nền độc lập giả hiệu để lừa gạt nhân dân Việt Nam. Vì vậy, tất cả các chính phủ đó đều thất bại và chết non.

    • Nguyen Hung says:

      ( Dư) lợn heo (viên) Ma cộng sản Liên xô đọc nhé :

      Hồ chí Minh lấy đít Lenin đội lên đầu, thề nguyện phục vụ cho đế quốc Liên xô, được Liên xô huấn luyện, cho tiền để về nước phát triển đảng đi cướp chính quyền .

      Chính phủ của sử gia Trần Trọng Kim có phải là tay sai cho ngoại bang nào hay không ?

      Sử gia Lê Văn Khoa: Nhật lật đổ chính quyền Pháp trên toàn cõi Đông Dương . Bảo Đại phải mời đến lần thứ hai, ông Trần Trọng Kim mới nhận trách nhiệm thành lập chính phủ. Bảo Đại thúc giục ông:

      “Trước kia, người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước ” .

      Sử gia Phạm Cao Dương : Phan Anh là vị Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong chính phủ Trần Trọng Kim , và sau là bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong chính phủ liên hiệp của Hồ Chí Minh .
      Trong cuộc phỏng vấn dành cho sử gia Na Uy Stein Tonnesson, để đáp lại câu hỏi “các ông nghĩ thế nào mà lại nhận lời mời của Bảo Đại”, Phan Anh cho biết có hai mục tiêu. Thứ nhất là để đuổi người Pháp vẫn còn được người Nhật giữ trong bộ máy hành chánh thời đó ra khỏi bộ máy này và thứ hai, tạm thời làm việc với người Nhật nhưng giữ trung lập, không là “đồng tác giả” (co-auteurs), không là “kẻ hợp tác.”

      Về bản chất của chính phủ Trần Trọng Kim, khi được hỏi là “chính phủ này có phải là chính phủ bù nhìn không”, Phan Anh đã khẳng định: ”Lấy tư cách là thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim, tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt đối không có ảo vọng gì về người Nhật. Tình thế đã dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên mới đi hợp tác với Nhật. Có những người điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng tôi tham gia chính phủ là để phụng sự. Chính với chính sách ấy mà chúng tôi đã thành lập chính phủ với khẩu hiệu như vừa nói là: Đuổi cổ bọn Pháp và nắm lấy độc lập.” Với nhận định này và để giữ thế trung lập, trong chính phủ Trần Trọng Kim đã không có Bộ Quốc phòng. Phan Anh giải thích: “Trong chính phủ Trần Trọng Kim có một bộ mà chúng tôi phải suy nghĩ nhiều: Bộ “Quốc phòng” hay Bộ “Quân lực” hoặc Bộ “Chiến tranh”. Chính vì muốn giữ thế trung lập mà chúng tôi đã quyết định không có Bộ Quốc phòng. Người Nhật muốn có bộ ấy để lôi chúng tôi đi với họ. Thay bộ ấy, chúng tôi lập Bộ Thanh niên.

      Sử gia Lê Văn Khoa : Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim :

      Đất nước lại đang gặp phải tình trạng nguy ngập về kinh tế: nạn đói đang hoành hành, các thành phố và trục lộ giao thông đường bộ, đường biển từ Nam ra Bắc bị phi cơ và hạm đội đồng minh oanh tạc hay thả mìn. Các cơ sở chính quyền còn ở trong tình trạng giao thời, quân đội chưa thành lập, và guồng máy hành chính do Pháp để lại chỉ là những thuộc cấp mà hầu hết là “những tham quan ô lại chỉ quen sự thi hành mệnh lệnh của người Pháp, chứ không mấy người có đủ tư cách làm người công chức một nước tự chủ”.

      Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như vậy.

      Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:

      1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam.
      2. Thâu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
      3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
      4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
      5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
      6. Thiết lập các Uỷ ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục.

      Chỉ trong thời gian bốn tháng (từ 17 – 4 đến 16 – 8), chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này.

      • NON NGÀN says:

        CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM

        Quả đây Chính phủ đầu tiên
        Chính quyền dân sự mọi bên rõ ràng
        Kể từ ngày giặc Pháp sang
        Ngày tàn quân Nhật bộn bàng là đây

        Ban đầu như gió heo may
        Mong sao được vững để ngày đi lên
        Chẳng may vận nước lênh đênh
        Nhưng nào lịch sử có quên bao giờ

        Nên riêng mãi mãi sau này
        Nước nhà vẫn nhớ một Trần Trọng Kim
        Mặc dầu chưa hẳn vết son
        Nhưng là phiến đá đầu tiên lập nền

        ĐẠI NGÀN
        (08/12/15)

    • TẾU NGÀN says:

      DÂN ĐEN

      Dân đen nào có biết gì
      Những điều lịch sử ly kỳ biết bao
      Dân ta thôi chỉ nghẹn ngào
      Nhìn bao cái bị rác vào còn nguyên

      Nên đừng có nói huyên thuyên
      Tư duy không có mới phiền làm sao
      Chỉ toàn múa miệng tầm phào
      Nửa người nửa ngợm khiến cho đời cười

      TIẾU NGÀN
      (08/12/15)

    • Ngô Dân says:

      Nếu các chính phủ phe quốc gia là chính phủ ma vậy thì khi quốc hội đa đảng hợp pháp đầu tiên của VN năm 1946 đã bầu Hồ chí Minh làm Chủ Tịch nước, tại sao chủ tịch Hồ lại đi rước Pháp vào cai trị VN? Chính vì Hồ và CSVN rước Pháp vào rồi sau đó lại quay ra đánh Pháp mới gây ra cuộc chiến 9 năm kết thúc năm 1954. Tại sao 1954 chiến thắng rồi Hồ và ĐCSVN lại chấp nhận chia đôi đất nước? Tại sao chia đôi đất nước rồi Hồ và CSVN lại gây chiến xâm lăng miền Nam? Rõ ràng từ đầu tới cuối Hồ luôn luôn tìm cách để VN chia rẽ, bất ổn, chiến tranh. Hồ rõ ràng không muốn VN độc lập. Tàu cũng không muốn VN độc lập, ổn định. Hay Hồ chính là Thiếu Tá Tàu Hồ Quang?

    • Tudo.com says:

      Nếu Hồ Chí Minh đừng láu cá cướp chính quyền thì chính phủ Trần Trọng Kim sẽ từ từ phục hồi chủ quyền. Trước sau gì rồi Pháp cũng ra đi và sẽ phải trả lại độc lập cho VN cũng như các nước khác, nhưng trong thời gian VN lệ thuộc Pháp, được Pháp bảo vệ sẽ không bị Tàu ăn hiếp, không bị Tàu lấn chiếm biển đảo biên giới. Từ đó những thế hệ kế tiếp sẽ học hỏi cải thiện kinh tế, giáo dục, chính trị đưa VN tiến lên theo thế giới và hiện nay sẽ đang là Độc Lập thực sự, hùng mạnh như Nam Hàn, Singapore. . .và các nước phát triển trên thế giới.

      Nhưng Hồ Chí Minh tham quyền, muốn làm vua, muống làm mặc rô, đứng bến, để dẫn anh chị Nga Tàu tràn xuống Đông Nam Á Châu.
      Hậu quả đứng bến của HCM đã làm VN chết hơn 4 triệu người trong cuộc chiến 20 năm Nam Bắc! Làm tiêu tan nền văn hoá đạo đức VN mà tổ tiên đã gầy dựng hàng ngàn năm, làm cho dân trí, dân khí, dân tài đứng hàng áp chót của thế giới. Rồi hằng ngày hiện nay cái bọn ma cô, trộm cướp ở VN cứ lãi nhãi tự xưng là lãnh đạo xhcnvn chỉ làm có hai việc: một là ngóng trong từ dân TNCS, các công bị bán đi lao công và các cô gái bị bán đi làm điếm gởi dollars về để làm giàu, hai là nghe ngóng coi người cha ở Bắc Kinh muốn mấy đứa con ở Hà Nội làm gì, đi đâu cho tới ngày trở về “đất mẹ” năm 2020.

      Tóm lại tội lổi của bọn Việt Cộng, Hồ Chí Minh với tổ quốc nhân dân phải bị tru di Thập tộc cũng chưa vừa chứ đừng nói là Tam tộc!

    • Hoàng says:

      Ma VNCH nói đúng.
      Nếu các chính phủ phe quốc gia thời giặc Nhật và giặc Pháp xâm lược không phải do giặc Nhật, giặc Pháp đẻ ra, mà các chính phủ đó ra đời từ các hoạt động chống giặc Nhật, giặc Pháp thì chắc chắn sẽ được toàn dân VN ủng hộ, che chở, bảo vệ, lúc đó, các chính phủ phe quốc gia đó sẽ đứng vững, tồn tại lâu dài để lãnh đạo VN.
      Nhưng vì các chính phủ phe quốc gia là các chính phủ ma, do giặc Nhật, giặc Pháp xâm lược đẻ ra, không hề có chút thực quyền nào, lệ thuộc hoàn toàn vào giặc Nhật, giặc Pháp, chịu sự giật dây điều khiên của giặc Nhật, giặc Pháp, nên tất cả các chính phủ phe quốc gia đó đều chết yểu.
      Sau năm 1954, chính phủ đệ nhất và đệ nhị VNCH có khá hơn chút xíu, nhưng về căn bản cũng tương tự như các chính phủ phe quốc gia thời giặc Nhật, giặc Pháp xâm lược, chỉ khác ông chủ không phải là giặc Nhật, giặc Pháp mà là giặc Mỹ xâm lược, nên cũng chết yểu như các chính phủ phe quốc gia thời 1954 trở về trước.

      • Khổng Khuyết says:

        Trích trong bản báo cáo đối ngoại của đồng chí Khổng Khuyết , trưởng ban tuyên láo TW Đảng:

        “…Trên tinh thần nghĩa vụ CM quốc tế, Đảng và nhà nước ta hàng năm vẫn phải ráng xuất khẩu lao động và cô dâu Việt Nam sang Nam Hàn, một đất nước vốn đang bị đế quốc Mỹ xâm lược và cai trị trên sáu mươi năm, nhằm để cố chia sẽ bớt khổ đau mà nhân dân Nam Hàn phải chịu đựng do đế quốc Mỹ gây ra.

        Xin chúc quân dân Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (Cộng Sản Bắc Hàn) thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Triều Tiên ra khỏi sự xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc bọn ngụy quân, ngụy quyền ở Nam Hàn phải đền tội trước nhân dân.”

      • Tudo.con says:

        Hoàng nói đúng!
        VNDCCH sống dai, không chết vì nó là một con đĩ chỉ cần thay tên đổi họ, CHXHCNVN là tiếp tục hành nghề bán trôn nuôi miệng. Nhưng cái chó má là loại đĩ nhà nước xã hội chủ nghĩa nầy lại bán dân, bán đất nước để nuôi miệng nó, nên nó càng sống dai thì đất nước càng kiệt quệ, dân Việt Nam càng khốn nạn càng ăn mày!
        Và cái đĩ thoả nhất của đĩ CHXHCNVN là mặc dù mang đù thứ bệnh trong Cơ Chế như: Giang Mai, Hột Xoài, Mồng Gà, Thiên Pháo, Si Đà. . . .mà cứ tô son trét phấn rước khách về, tiếp tục mang mầm bệnh về cho dân tộc!

        Nó là loại Đĩ tệ hại nhất trong lịch sử đĩ!

Phản hồi